Sự bảo vệ của quốc gia đối với quyền
được giáo dục còn thông qua việc ban hành
luật, ví dụ, Luật Giáo dục hoặc Luật Trẻ em.
Tầm quan trọng của luật là nó thực hiện các
quy định của Hiến pháp, hoặc trong trường
hợp Hiến pháp không quy định về quyền
được giáo dục thì luật là công cụ pháp lý cao
nhất mà nhờ đó, các quyền được ghi nhận và
có giá trị bắt buộc thi hành về pháp lý.
Các quốc gia cũng có thể thực hiện
quyền được giáo dục thông qua các chính
sách và kế hoạch, chương trình hành động.
Các chính sách đặt ra các mục tiêu chủ yếu
của một Chính phủ, xác định những ưu tiên
của Chính phủ và các chiến lược để đạt được
các mục tiêu. Chính sách không có tính bắt
buộc phải thi hành tại các Tòa án và không
phải là một công cụ thích hợp để tạo hiệu lực
pháp lý đối với quyền được giáo dục nhưng
nếu chính sách không phù hợp với Hiến
pháp hoặc luật của quốc gia, chính sách có
thể là đối tượng bị suy xét lại bởi Tòa án.
Cùng với Hiến pháp, luật và khung
khổ chính sách nêu trên, cách thức hữu hiệu
nhất để thực hiện quyền được giáo dục ở các
quốc gia là sự kết hợp của tất cả các công cụ
này, trong đó, Hiến pháp quy định về quyền
được giáo dục có tính bắt buộc phải thi hành
về pháp lý, các luật thực hiện quyền được
giáo dục (ví dụ, các luật bảo đảm giáo dục
miễn phí) và các chính sách sẽ bổ sung cho
các luật này
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền được giáo dục theo quy định của luật quốc tế và cơ chế bảo đảm thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Thị Anh Đào*
* TS. Khoa Pháp luật Quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Tóm tắt:
Dưới góc độ luật quốc tế, giáo dục với tính chất là một quyền
con người có nghĩa là: (i) quyền giáo dục được bảo đảm về
mặt pháp lý với tất cả mọi người, không có bất cứ sự phân biệt
nào; (ii) các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ, tôn trọng và thực
hiện quyền được giáo dục; (iii) có các phương thức giám sát
các quốc gia thực hiện quyền được giáo dục, bao gồm: cơ chế
báo cáo và giải trình, thủ tục khiếu nại và các thủ tục đặc biệt.
Quyền giáo dục được thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm và thực thi tốt
nhất ở cấp độ quốc gia trên cơ sở Hiến pháp và luật.
Abstract:
Under the international laws, education as a human right
means: (i) the right to education right is legally guaranteed
to all, without any distinction; (ii) all nations have an
obligation to protect, respect and exercise the right to
education; (iii) modalities of supervise the exercise of the
right to education must be ensured, including: reporting
and accountability mechanisms, grievance procedures and
special procedures. Education rights are best promoted,
protected, guaranteed and enforced at the national level on
the basis of the Constitution and the laws.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền được giáo dục; báo cáo
quyền con người; thực hiện quyền con người
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 11/01/2018
Biên tập: 22/01/2018
Duyệt bài: 30/01/2018
Article Infomation:
Keywords: Right to education; report on
human rights; exercise of human rights
Article History:
Received: 11 Jan. 2018
Edited: 22 Jan. 2018
Approved: 30 Jan. 2018
QUYỀN ĐƯỢC GIÁO DỤC THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT QUỐC TẾ
VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
1. Quyền được giáo dục trong pháp luật
quốc tế
Quyền được giáo dục vừa là một yếu
tố có tác dụng tăng cường quyền con người
cho mọi cá nhân, vừa là điều kiện không thể
thiếu để thực hiện các quyền con người khác
và đảm bảo phẩm giá con người. Quyền
được giáo dục còn là phương tiện quan trọng
nhất mà nhờ đó, những người bị gạt ra ngoài
lề xã hội có thể tự mình thoát ra khỏi tình
trạng nghèo đói và tham gia đầy đủ vào cộng
đồng. Đối với xã hội, quyền được giáo dục
là nền tảng cho sự phát triển của kinh tế - xã
hội và nhân loại, đồng thời là yếu tố then
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 3+4 (355+356) T02/2018
chốt để đạt được hòa bình lâu dài và phát
triển bền vững.
Với ý nghĩa đó, Điều 26 Tuyên ngôn
toàn thế giới về Quyền con người (UDHR)
năm 1948 tuyên bố: “mọi người có quyền
được giáo dục”. Sau Tuyên bố này, quyền
được giáo dục ngày càng được thừa nhận
rộng rãi và quy định trong nhiều điều ước
toàn cầu1 và khu vực2. Trên thực tế, quyền
giáo dục được bảo vệ trong ít nhất 42 văn
kiện toàn cầu và khu vực3, bao gồm 7 trong
số 9 điều ước hạt nhân của Liên hiệp quốc
(LHQ) về quyền con người. Một số điều
ước bảo vệ quyền được giáo dục nói chung,
nghĩa là với tất cả mọi người4; các điều
ước khác bảo vệ quyền được giáo dục của
nhóm người (như phụ nữ, người khuyết tật,
người di cư, người tị nạn, người bản địa5)
và trong hoàn cảnh cụ thể (như xung đột
vũ trang, sử dụng lao động trẻ em6). Hiện
nay, khi đề cập đến quyền được giáo dục,
Công ước về Quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa (CESCR, 1966) và Công ước quốc tế
về Quyền trẻ em (CRC, 1989) là các điều
ước được viện dẫn rộng rãi nhất. Trong số
193 thành viên của LHQ, 163 quốc gia đã
phê chuẩn CESCR (1966) và gần như tất cả
các quốc gia đó cũng là thành viên của CRC
(1989)7.
1 Ví dụ như: Công ước của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) về Chống phân biệt
trong giáo dục (CADE, 1960); Điều 13 &14 Công ước về Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (CESCR, 1966)
2 Ví dụ như (Điều 26) Công ước Châu Mỹ về Quyền con người năm 1969/1978 và Điều 13, Điều 16 Nghị định thư bổ
sung của Công ước này về Quyền trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1988 (Nghị định thư San Salvador);
Phần XII, Tuyên ngôn Châu Mỹ về Quyền và nghĩa vụ của con người năm 1948; Điều 17 Hiến chương Châu Phi về
Quyền con người và quyền của các dân tộc năm 1981 và Điều 12 Nghị định thư của Hiến chương này về Quyền của
phụ nữ ở Châu Phi năm 2003; Điều 11 Hiến chương châu Phi về các Quyền và trợ cấp cho trẻ em năm 1990; Điều 49
Hiến chương của tổ chức các quốc gia Châu Mỹ năm 1948; Điều 14 Hiến chương về các Quyền cơ bản của Liên minh
châu Âu năm 2000
3 Về các quốc gia thành viên của Điều ước quốc tế về quyền con người, xem
4 CADE (1960), CESCR (1966)
5 Điều 10, Công ước về Xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt với phụ nữ (CEDAW, 1979); Điều 24 Công ước về Quyền
của người khuyết tật (2006); Điều 28 & 29 Công ước về Quyền trẻ em (CRC, 1989); Công ước quốc tế về Bảo vệ các
quyền của tất cả các lao động di cư và thành viên trong gia đình họ (1990); Công ước về Bảo vệ những người bị cưỡng
bức mất tích (2006)
6 Công ước quốc tế về Xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc (1965); Công ước về Chống tra tấn và các hình
thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hoặc hạ nhục con người (1984); các Công ước của Tổ chức lao động
quốc tế (ILO) và luật nhân đạo quốc tế
7 International justice resource center, Rights to education thematic research guide, xem tại
thematic-research-guides/education.
8 Điều 2 và Điều 11 Công ước Viên năm 1969 về luật Điều ước giữa các quốc gia.
Các điều ước là sự bảo đảm mạnh
mẽ nhất đối với quyền được giáo dục bởi
vì chúng là văn bản có giá trị pháp lý ràng
buộc các quốc gia. Tuy nhiên, để ràng buộc
về pháp lý với một điều ước thì quốc gia
phải thực hiện hành vi thể hiện sự đồng ý
ràng buộc với điều ước bằng việc ký, phê
chuẩn/phê duyệt hoặc gia nhập điều ước.
Khi thực hiện hành vi này, các quốc gia có
thể đệ trình các bảo lưu hoặc tuyên bố mà có
thể thay đổi bản chất nghĩa vụ của quốc gia
theo điều ước8.
2. Quy định của pháp luật quốc tế về
quyền được giáo dục
2.1 Nội dung của quyền được giáo dục
Pháp luật quốc tế quy định các chuẩn
mực của quyền được giáo dục và các nghĩa
vụ pháp lý gắn với việc bảo vệ các chuẩn
mực đó. Theo quy định của Điều 13 và 14
CESCR (1966), nội dung của quyền được
giáo dục bao gồm:
- Miễn phí và phổ cập giáo dục tiểu
học với tất cả mọi người;
- Có thể tiếp cận và sẵn có về giáo dục
trung học (bao gồm cả giáo dục kỹ thuật,
dạy nghề và đào tạo) với mọi người và từng
bước miễn phí;
- Có thể tiếp cận với giáo dục ở cấp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 3+4 (355+356) T02/2018
cao hơn một cách bình đẳng trên cơ sở năng
lực của mỗi người và từng bước miễn phí;
- Giáo dục cơ bản cho những người
chưa tiếp cận hoặc chưa hoàn thành toàn bộ
chương trình giáo dục tiểu học;
- Giáo dục có chất lượng ở cả trường
công lập và trường tư thục;
- Tự do của cha mẹ và của những
người giám hộ hợp pháp (nếu có) trong việc
lựa chọn trường cho con cái họ phù hợp
với tôn giáo và đạo đức cũng như ý nguyện
riêng của họ;
- Tự do học thuật của giáo viên và học
sinh;
- Tự do của các cá nhân và tổ chức
được thành lập và điều hành các cơ sở giáo
dục phù hợp với yêu cầu về tiêu chuẩn tối
thiểu mà nhà nước quy định.
Các điều ước quốc tế khác cũng quy
định quyền được giáo dục của những nhóm
người và trong những hoàn cảnh khác nhau9.
Ví dụ, CEDAW (1979) yêu cầu các quốc gia
thành viên xóa bỏ định kiến về giới trong các
tài liệu học tập. Bên cạnh đó, các điều ước
quốc tế khu vực cũng tập trung vào vấn đề
nhân quyền chung của khu vực. Ví dụ như,
Hiến chương Thanh niên Châu Phi (2006)
quy định rằng, chương trình giáo dục phải
bao gồm các vấn đề như HIV, sức khỏe sinh
sản, lạm dụng và thực tiễn văn hóa nguy
hại với sức khỏe của nữ giới10. Trong hoàn
cảnh có xung đột vũ trang hoặc bị chiếm
đóng, luật nhân đạo quốc tế yêu cầu quốc
gia chiếm đóng phải tôn trọng và bảo đảm
thực hiện quyền được giáo dục. Trẻ em phải
9 Trang web để tìm các văn kiện của UN về quyền giáo dục: www.right-to-education.org/page/united-nations-instruments.
10 Điều 13(3)(f), Hiến chương Thanh niên Châu Phi (thông qua ngày 2/7/2006 và có hiệu lực ngày 8/8/2009).
11 Điều 50 (1) của Công ước Geneva IV về bảo vệ thường dân trong thời gian có chiến tranh.
12 Điều 50 Công ước Geneva IV về bảo vệ thường dân trong thời gian có chiến tranh.
13 Điều 53, 94, 142 Công ước Geneva IV về bảo vệ thường dân trong thời gian có chiến tranh.
14 Điều 8(2)(b)(ix), 8(2)(e)(iv) của Quy chế Rome về Tòa hình sự quốc tế.
15 Trước tiên, kết cấu khung 4A được phát triển bởi cựu Báo cáo viên đặc biệt của UN về Quyền giáo dục, ông Katarina
Tomaševski. Sau đó, khung khổ 4A được Ủy ban về Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua trong Bình luận chung
số 13 về quyền giáo dục (1999, đoạn.6). Xem, CESCR, General Comment No. 13: The Right to Education, UN Doc.
E/C.12/1999/10, 8 December 1999, paras. 6, 7. (Doc. E/C.12/1999/10.)
16 Katarina Tomaševski,Primer 3 Human rights obligations: making education available, accessible, acceptable and adapt-
able, Rights to Education, 2001); UN Comm’n on Human Rights, Preliminary Report of the Special Rapporteur on the
Right to Education, UN Doc. E/CN.4/1999/49, 13 January 1999, paras. 51–74.
được phép đến trường và quốc gia chiếm
đóng phải hợp tác với chính quyền quốc gia
bị chiếm đóng và chính quyền địa phương
để “tạo điều kiện hoạt động bình thường
cho tất cả các cơ sở chăm sóc và giáo dục
trẻ em”11. Nếu các cơ sở này không đáp ứng
được, quốc gia chiếm đóng phải “tiến hành
các sắp xếp để cấp dưỡng và giáo dục, nếu
có thể bởi những người có quốc tịch, ngôn
ngữ, tôn giáo của chính quốc gia đó”12. Việc
phá hủy các cơ sở vật chất của các cơ sở
đào tạo bị cấm, trừ khi điều đó là hoàn toàn
cần thiết và giáo dục phải được cung cấp
cho những người bị tạm giữ do tình nghi13.
Việc vi phạm các quy định này có thể cấu
thành tội phạm chiến tranh mà theo đó các
cá nhân có thể phải chịu trách nhiệm hình sự
quốc tế14.
Nội dung của quyền giáo dục còn được
giải thích bởi các Tòa án (trong trường hợp
các văn kiện khu vực) hoặc bởi một số cơ
quan của LHQ. Các cơ quan này sử dụng rất
nhiều căn cứ pháp lý để giải thích các chuẩn
mực của quyền được giáo dục, trong đó, căn
cứ được sử dụng phổ biến nhất là khung khổ
4A15. Theo khung khổ này, để là một quyền
có ý nghĩa, giáo dục ở tất cả các hình thức và
cấp độ, phải thể hiện những yếu tố cơ bản và
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau sau đây16:
- Sẵn có (Available): sẵn có về số
lượng; giáo dục miễn phí và có cơ sở hạ tầng
phù hợp và có giáo viên được đào tạo, tài
liệu giảng dạy
- Có thể tiếp cận (Accessible): hệ
thống giáo dục phải mở cho sự tiếp cận
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 3+4 (355+356) T02/2018
của tất cả mọi người mà không có sự phân
biệt đối xử nào; những bước đi tích cực cần
được tiến hành để giúp những người bị gạt
ra ngoài lề xã hội.
- Có thể chấp nhận được
(Acceptability): nội dung và hình thức giáo
dục phù hợp và có chất lượng tốt; nội dung
giáo dục phải không có sự phân biệt và phù
hợp về văn hóa, có chất lượng tốt; trường
học an toàn và giáo viên chuyên nghiệp;
- Có tính thích ứng (Adaptability): có
thể đáp ứng nhu cầu của mỗi học sinh. Giáo
dục phải cải tiến phù hợp với những nhu
cầu liên tục thay đổi của xã hội và các thách
thức về bất bình đẳng, ví dụ như phân biệt
về giới; giáo dục phải đáp ứng nhu cầu của
học sinh trong những môi trường xã hội và
văn hóa đa dạng.
2.2 Nghĩa vụ đảm bảo quyền được
giáo dục
Khi một quốc gia phê chuẩn điều ước
bảo vệ quyền được giáo dục, quốc gia đó có
nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện17,
trong đó nghĩa vụ thực hiện bao gồm cả
nghĩa vụ hỗ trợ và cung cấp18.
- Nghĩa vụ tôn trọng: các quốc gia
phải tránh những biện pháp gây trở ngại
hoặc ngăn cản việc thụ hưởng quyền được
giáo dục. Ví dụ, các quốc gia phải tôn trọng
quyền của cha mẹ được lựa chọn trường cho
con của họ
- Nghĩa vụ bảo vệ: các quốc gia phải
thực hiện các biện pháp, thông thường là
thông qua các quy định và bảo đảm pháp lý,
để không cho bên thứ ba can thiệp vào việc
thụ hưởng quyền được giáo dục. Ví dụ, các
quốc gia phải đảm bảo rằng bên thứ ba, bao
gồm cả cha mẹ, không ngăn cản việc nữ giới
đến trường và các quốc gia phải đặt ra hoặc
17 Koch, I.E. 2005. Dichotomies, Trichotomies or Waves of Duties. Human Rights Law Review, Vol. 5, No. 1, pp. 81-103;
ICESCR, Bình luận chung số 13, các đoạn. 46-48 & 50. 33
18 OHCHR, Fact Sheet No. 33, Frequently Asked Questions on Economic, Social and Cultural Rights, p. 11.
19 Ủy ban CESCR, Bình luận chung số 3: Bản chất nghĩa vụ của các quốc gia thành viên, ngày 1/1/1991, đoạn 2-9.
20 Nếu điều này không thể thực hiện ngay, các quốc gia phải xây dựng và thông qua một chương trình hành động để từng
bước thực hiện, trong một số năm hợp lý, được ấn định trong kế hoạch về nguyên tắc giáo dục bắt buộc và miễn phí cho
tất cả mọi người.
thông qua bộ tiêu chuẩn giáo dục tối thiểu
cho các trường tư thục, đồng thời đảm bảo
sự tuân thủ các tiêu chuẩn này.
- Nghĩa vụ thực hiện: thông qua các
biện pháp thích hợp (lập pháp, hành pháp, tư
pháp, lập quỹ và các biện pháp khác) để thực
hiện đầy đủ quyền được giáo dục. Điều này
có nghĩa là quốc gia cần phải tạo ra các điều
kiện cần thiết để cá nhân được hưởng đầy
đủ quyền. Ví dụ, các quốc gia phải tiến hành
các biện pháp tích cực để đảm bảo rằng giáo
dục phù hợp với văn hóa của người thiểu số
và người bản địa, đồng thời phải đảm bảo
chất lượng giáo dục tốt cho tất cả mọi người.
Quyền con người thường được phân
loại thành quyền dân sự, chính trị và quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa, trong đó quyền được
giáo dục thuộc nhóm thứ hai - nhóm quyền
mà nhìn chung yêu cầu quốc gia từng bước
thực hiện quyền. Điều này có nghĩa là các
quốc gia có nghĩa vụ “thực hiện các bước
hướng tới” việc thực hiện đầy đủ quyền
được giáo dục trên cơ sở tận dụng tối đa các
nguồn lực sẵn có (Điều 2, CESCR (1966).
Mặc dù thực hiện từng bước có nghĩa là việc
thực hiện các nghĩa vụ sẽ tùy thuộc vào thời
gian và các nguồn lực sẵn có nhưng “các
quốc gia bắt buộc phải nỗ lực đạt được mục
đích này thật nhanh, thật hiệu quả”19.
Không phụ thuộc vào nguồn lực bị
hạn chế như thế nào, tất cả các quốc gia có
nghĩa vụ ngay lập tức thực hiện những khía
cạnh sau đây của quyền được giáo dục:
- Đảm bảo những nghĩa vụ cốt lõi tối
thiểu để đáp ứng các mức độ thiết yếu của
quyền được giáo dục, bao gồm: cấm phân
biệt trong tiếp cận với giáo dục và trong giáo
dục; đảm bảo miễn phí và giáo dục tiểu học
bắt buộc cho tất cả mọi người20; tôn trọng tự
do của cha mẹ trong việc chọn trường cho
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 3+4 (355+356) T02/2018
con của họ; bảo vệ tự do của cá nhân và tổ
chức được thành lập và điều hành các cơ sở
giáo dục.
- Tiến hành những bước đi phù hợp để
thực hiện đầy đủ quyền về giáo dục trên cơ
sở tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có của
mình. Việc thiếu các nguồn lực không thể là
lý do thỏa mãn việc không tiến hành hoặc
trì hoãn không hạn định các biện pháp thực
hiện quyền về giáo dục. Các quốc gia phải
chứng minh đã tiến hành mọi nỗ lực để cải
tiến việc hưởng quyền về giáo dục, thậm chí
khi khan hiếm các nguồn lực.
- Không tiến hành các biện pháp thoái
lui. Điều này có nghĩa là quốc gia không được
tiến hành các bước đi thụt lùi hoặc thông qua
các biện pháp mà sẽ hủy bỏ những bảo đảm
hiện hành đối với quyền về giáo dục. Ví dụ,
quy định học phí đối với giáo dục trung học
khi mà học phí đó trước đây đã chính thức
được miễn phí; dừng chương trình giáo dục
cho người lớn - những người mà chưa từng
được nhận hoặc hoàn thành chương trình
giáo dục tiểu học có chất lượng; cắt giảm
hàng năm các nguồn lực phân bổ cho giáo
dục.
Các quốc gia là chủ thể có trách nhiệm
chủ yếu trong bảo đảm quyền được giáo
dục. Tuy nhiên, các chủ thể khác cũng có
vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và bảo
vệ quyền cơ bản này, cụ thể:
- Các tổ chức quốc tế liên chính phủ,
ví dụ như Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa của LHQ (UNESCO), Văn phòng
Cao ủy nhân quyền LHQ (OHCHR), Quỹ
Nhi đồng LHQ (UNICEF) có vai trò quan
trọng trong việc thực hiện quyền được giáo
dục thông qua trợ giúp về tài chính và kỹ
thuật.
- Những thiết chế tài chính quốc tế
phải chú trọng nhiều hơn tới việc bảo vệ
quyền được giáo dục trong các chính sách
21 Thông tin thêm, xem: Những nguyên tắc hướng dẫn UN về kinh doanh và quyền con người; Bình luận chung số 24 của
Ủy ban CESCR; Bình luận chung số 16 của Ủy ban Công ước về quyền trẻ em (CRC).
22 Ủy ban CESCR, 1998. Bình luận chung số 9: Thực hiện Công ước ở các quốc gia (Doc. E/C.12/1998/24.)
tài chính, thỏa thuận tín dụng và các chương
trình điều chỉnh cơ cấu của mình cũng như
trong tiến hành các biện pháp để giải quyết
khủng hoảng nợ.
- Các doanh nghiệp có trách nhiệm
tôn trọng quyền con người và tránh vi phạm
quyền của các chủ thể khác21.
- Xã hội dân sự đóng một vai trò thiết
yếu trong việc thúc đẩy quyền về giáo dục
và buộc các quốc gia chịu trách nhiệm về
nghĩa vụ của mình.
- Cha mẹ có trách nhiệm đảm bảo rằng
con cái của mình tham gia vào giáo dục bắt
buộc. Cha mẹ không được từ chối cho con
tiếp cận với giáo dục.
3. Cơ chế quốc tế bảo đảm thực hiện
quyền được giáo dục
Việc thực hiện các điều ước quốc tế về
quyền con người được giám sát bởi các cơ
chế tài phán và/hoặc có tính chất tài phán,
phụ thuộc vào quy định của chính điều ước
đó. Các điều ước về quyền con người đã
thiết lập cơ chế quốc tế liên khu vực và khu
vực để giám sát việc thực thi quyền được
giáo dục tại các quốc gia.
3.1 Cơ chế liên khu vực nhằm giám
sát và giải trình về quyền được giáo dục
Trước hết, việc giám sát và giải trình
được thực hiện thông qua báo cáo định kỳ
của các quốc gia về các biện pháp mà quốc
gia đã tiến hành để thực hiện điều ước, bao
gồm các bước được tiến hành để chuyển hóa
các quy định vào trong pháp luật quốc gia,
bảo đảm chúng có tính bắt buộc về pháp lý
và chủ thể quyền được bồi thường khi quyền
đó bị vi phạm22. Sau đó, cơ quan điều ước
xem xét các báo cáo, tiến hành đối thoại có
tính xây dựng với các quốc gia và các bên
thứ ba quan tâm, công bố các nhận xét có
tính kết luận và đưa ra các khuyến nghị. Ví
dụ, Ủy ban về Quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa giám sát các quốc gia thành viên thực
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
29Số 3+4 (355+356) T02/2018
hiện CESCR (1966), trong đó có bảo vệ
quyền giáo dục. Cứ 5 năm một lần, các quốc
gia thành viên của Công ước phải đệ trình
tới Ủy ban một báo cáo giải trình sự phát
triển mà quốc gia đã đạt được trong việc
thực hiện các quy định của Công ước. Sau
đó, Ủy ban CESCR đưa ra nhận xét kết luận
không có tính ràng buộc, đánh giá sự tuân
thủ nghĩa vụ của quốc gia theo quy định của
CESCR (1966).
Bên cạnh đó, cơ chế giám sát và giải
trình việc thực hiện quyền được giáo dục còn
bao gồm những thủ tục khiếu nại của mỗi cơ
quan điều ước23. Những thủ tục này là thiết
yếu đối với các nạn nhân của sự vi phạm -
những người không thể tiếp cận công lý ở
cấp độ quốc gia, bởi vì chính quốc gia đó
đã vi phạm quyền con người. Mặc dù các cơ
quan điều ước không thể cưỡng chế thực thi
các quyết định của mình nhưng việc các cơ
quan này định rõ và xác định một hành vi là
vi phạm quyền giáo dục có thể khích lệ các
quốc gia có biện pháp khắc phục tình hình.
Theo thủ tục khiếu nại, nếu quốc gia
bị khiếu nại là thành viên của điều ước và
đã chấp nhận thẩm quyền của cơ quan điều
ước (thông qua việc phê chuẩn nghị định thư
không bắt buộc hoặc đưa ra tuyên bố thừa
nhận thẩm quyền) được xem xét các khiếu nại
về quốc gia thì các cơ quan điều ước có thể
xem xét các khiếu nại của cá nhân và tập thể,
cũng như khởi động các cuộc điều tra bí mật
về những vi phạm có tính thô bạo và hệ thống
các quyền con người ở quốc gia đó24. Bên thứ
ba cũng tham gia vào các cơ chế này, qua đó
làm nổi bật những vi phạm ở cấp độ quốc gia.
23 Thông tin thêm về các thủ tục khiếu nại lên cơ quan điều ước, xem trang web của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền
LHQ (OHCHR) về Các thủ tục khiếu nại lên cơ quan điều ước nhân quyền www.ohchr.org/EN/HRBodies/TBPetitions/
Pages/HRTBPetitions.aspx.
24 Về thủ tục khiếu nại của cá nhân, xem trang web của OHCHR về thủ tục khiếu nại của cá nhân lên cơ quan điều ước
nhân quyền, www.ohchr.org/EN/HRBodies/TBPetitions/Pages/HRTBPetitions.aspx#individualcomm.
25 CERD/C/71/D/40/2007 violation of Article 5(e)(v); CCPR/C/82/D/1155/2003 violation of Article 18(4); CEDAW/
C/36/D/4/2004 violation of Article 10(h).
26 Nghị định thư không bắt buộc của Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (thông qua ngày 10/12/2008, có hiệu
lực ngày 5/5/2013) (Doc. A/63/435) (OP-ICESCR).
27 Nghị định thư không bắt buộc của Công ước về quyền của trẻ em trong các thủ tục thông tin liên lạc (thông qua ngày
14/7/2011, có hiệu lực ngày 14/4/2014) (Doc. A/HRC/RES/17/18) (OP3-CRC).
28 Nghị định thư không bắt buộc của Công ước về Quyền kinh tế xã hội và văn hóa (CESCR, 1966).
Đến nay, có 10 khiếu nại đã được đệ trình
tới các cơ quan điều ước về các khía cạnh
khác nhau của quyền được giáo dục25. Con
số này có thể sẽ tăng lên khi Nghị định thư
không bắt buộc của CESCR (1966)26 và Nghị
định thư không bắt buộc của CRC (1989) về
Quyền trẻ em trong các thủ tục thông tin liên
lạc27 gần đây đã có hiệu lực.
Ví dụ, Nghị định thư không bắt
buộc của CESCR (1966) quy định một cơ
chế khiếu nại riêng nhằm tạo điều kiện cho
Ủy ban CESCR tiến hành điều tra những vi
phạm thô bạo hoặc có hệ thống các quyền
con người trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và
văn hóa. Để sử dụng cơ chế khiếu nại riêng,
trước khi đệ trình thông báo tới Ủy ban
CESCR, nguyên đơn đã phải viện dẫn đến
mọi biện pháp theo quy định của pháp luật
quốc gia. Khi xem xét các quốc gia đã thực
hiện quyền về giáo dục đến mức nào, Ủy
ban CESCR sẽ đánh giá các thông báo và
thông tin được các quốc gia đệ trình. Ủy ban
cũng thu thập các thông tin từ các tổ chức
quốc tế và các cơ quan nhân quyền khu vực.
Ủy ban công bố quan điểm của mình và các
kiến nghị đối với các bên. Các quốc gia có 6
tháng để cung cấp cho Ủy ban Bản phúc đáp
và chi tiết hóa các biện pháp mà quốc gia đã
tiến hành để thực hiện quyền về giáo dục.
Ủy ban CESCR có thể đưa ra các biện pháp
tạm thời để giải quyết vấn đề trước khi đưa
ra một phán quyết về vụ việc28.
Những ví dụ chi tiết hơn về các cơ chế
giám sát và khiếu nại có thể được tìm thấy ở
cấp độ quốc tế:
- Hội đồng Nhân quyền LHQ (HRC)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
30 Số 3+4 (355+356) T02/2018
là một cơ quan liên chính phủ giám sát tình
hình thực hiện quyền con người của tất cả
các quốc gia thành viên. HRC có một loạt
các thủ tục giám sát, bao gồm: (i) Thủ tục
khiếu nại29; (ii) các Thủ tục đặc biệt theo
yêu cầu của một quốc gia cụ thể hoặc theo
các chủ đề được yêu cầu, trong đó có quyền
về giáo dục30, nghèo đói cùng cực và nhân
quyền31. Đó là các cơ quan mà có thể nhận
và điều tra các khiếu nại; (iii) Báo cáo kiểm
điểm phổ quát định kỳ (UPR) - một cơ chế
bình phẩm ngang hàng mà nhờ đó các quốc
gia giám sát các thành tích về nhân quyền
của quốc gia khác.
HRC tiến hành các thủ tục giám sát
đặc biệt, thông qua việc các chuyên gia độc
lập báo cáo hàng năm tới LHQ về những gì
họ nắm bắt được và đóng góp ý kiến về các
vấn đề nhân quyền, trong đó có vấn đề liên
quan đến quyền về giáo dục. Để thực hiện
một thủ tục đặc biệt như vậy, Báo cáo viên
đặc biệt về quyền giáo dục có trách nhiệm
thu thập thông tin về tình hình thực hiện
quyền được giáo dục trên toàn thế giới, bao
gồm cả việc thực hiện các chuyến thăm tới
quốc gia và nhận các khiếu nại của cá nhân;
tham gia vào đối thoại có tính xây dựng với
các chính phủ và các chủ thể khác liên quan
đến việc thực hiện quyền được giáo dục;
tìm ra các biện pháp để thúc đẩy việc thực
thi quyền được giáo dục; đưa ra những kiến
nghị nhằm thực hiện các cam kết về những
mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs)
và giáo dục miễn phí với tất cả mọi người
(EFA); đồng thời, xem xét sự phụ thuộc và
mối quan hệ qua lại giữa quyền được giáo
dục với các quyền khác32.
29 Tìm hiểu về Thủ tục khiếu nại tới các cơ quan nhân quyền UN tại www.ohchr.org/EN/HRBodies/HRC/
ComplaintProcedure/Pages/HRCComplaintProcedureIndex.aspx.
30 Thông tin thêm về đệ trình thông tin hoặc khiếu nại cá nhân tới các Báo cáo viên đặc biệt của UN về giáo dục, xem tại:
www.ohchr.org/EN/Issues/Education/SREducation/Pages/IndividualComplaints.aspx.
31 Thông tin thêm về các báo cáo đặc biệt của UN về nghèo đói cùng cực và quyền con người, xem tại www.ohchr.org/
EN/Issues/Poverty/Pages/SRExtremePovertyIndex.aspx.
32 UN Comm’n on Human Rights, Human Rights Resolution 1998/33, UN Doc. E/CN.4/RES/1998/33, 17 April 1998.
33 OHCHR, Submission of Information and Individual Complaints.
34 Thông tin thêm về thủ tục khiếu nại lên UNESCO trong trường hợp vi phạm quyền con người có liên quan đến yêu cầu
của UNESCO, xem tạiwww.claiminghumanrights.org/unesco_procedure.html
35 UNESCO, Individual Complaint Procedure, 104 EX/Decision 3.3, 12 July 1978; UNESCO, 2nd Aspect of the Terms
of Reference of CR.
Với tư cách có thể nhận các khiếu
nại cá nhân, Báo cáo viên đặc biệt có thể
nhận các đơn chống án khẩn cấp và các thư
dẫn chứng, viện lý. Các thủ tục chống án
khẩn cấp được sử dụng khi sự chú ý ngay lập
tức là cần thiết để hạn chế phạm vi của một
vi phạm mà bị cho là đã diễn ra hoặc sẽ xảy
ra. Các thư dẫn chứng, viện lý thường báo
cáo về các vi phạm mà không đòi hỏi hành
động khẩn cấp. Dựa trên việc nhận được
khiếu nại, Báo cáo viên đặc biệt có thể liên
lạc hoặc kết nối với chính phủ của quốc gia
để yêu cầu thông tin thêm hoặc kiến nghị về
các bước được tiến hành để giải quyết tình
hình33.
Một cơ chế khác được HRC sử dụng
là: Báo cáo kiểm điểm phổ quát định kỳ
(UPR), theo đó, mỗi quốc gia được yêu cầu
sẽ đệ trình một báo cáo chi tiết về việc thực
hiện các nghĩa vụ của quốc gia về quyền con
người. Xã hội dân sự và các chủ thể khác
cũng có thể đệ trình các báo cáo về việc
thực thi quyền con người của quốc gia. Cuối
cùng, HRC công bố kiến nghị đối với mỗi
quốc gia; các quốc gia có trách nhiệm thực
hiện các kiến nghị đó và báo cáo về các nỗ
lực của mình tới HRC.
- UNESCO cũng có một thủ tục khiếu
nại kín, cho phép các cá nhân, nhóm cá
nhân và các tổ chức phi chính phủ đệ trình
khiếu nại về việc quốc gia thành viên của
UNESCO đã vi phạm các quyền về giáo
dục34. Thủ tục này được xây dựng nhằm
tạo điều kiện cho những cuộc đối thoại có
tính xây dựng giữa nạn nhân đã cáo buộc và
quốc gia bị cáo buộc để họ có thể cùng nhau
hướng tới một giải pháp35.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
31Số 3+4 (355+356) T02/2018
Quốc gia được kỳ vọng là sẽ tập trung
vào các vấn đề được đặt ra trong các nhận
xét kết luận và thực thi các khuyến nghị của
cơ quan điều ước về quyền con người. Quá
trình này cho phép sự tham dự của xã hội
dân sự - những chủ thể được đệ trình các báo
cáo song hành được xây dựng dựa trên bằng
chứng mà họ đã thu thập được. Các đệ trình
của bên thứ ba có thể được sử dụng để bổ
sung, minh chứng cho các nỗ lực có tính tích
cực ở cấp độ quốc gia và nâng cao nhận thức
về các vấn đề nhân quyền cũng như thu hút
sự chú ý truyền thông - những phương thức
gián tiếp dẫn đến trách nhiệm giải trình.
Các cơ quan điều ước không có thẩm
quyền pháp lý để cưỡng chế thực thi các
nhận xét kết luận và các khuyến nghị của họ
hoặc các quyết định theo các thủ tục khiếu
nại. Việc thiếu sự cưỡng chế thực thi như
vậy là điểm hạn chế cơ bản của luật quốc tế
về quyền con người và là một rào cản chủ
yếu đối với trách nhiệm giải trình ở cấp độ
quốc tế. Việc tuân thủ và thực hiện một cách
hiệu quả các điều ước quốc tế về quyền con
người vẫn là trách nhiệm của quốc gia.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là
các cơ quan điều ước không thể tác động một
cách gián tiếp tới việc thực hiện quyền được
giáo dục tại các quốc gia. Các cơ quan điều
ước đưa ra các bình luận và các khuyến nghị
chung, qua đó góp phần giải thích về nội
dung quy phạm và các nghĩa vụ liên quan
đến các chuẩn mực về quyền con người. Các
bình luận chung bảo đảm rằng, các chuẩn
mực quyền con người được áp dụng đối với
các bối cảnh đang thay đổi, những vấn đề và
36 Coomans, F. The Extraterritorial Scope of the International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights in the
Work of the United Nations Committee on Economic, Social and Cultural Rights. Human Rights Law Review, (2011)
Vol. 11, No. 1, pp. 1-35.
37 Ủy ban Công ước CESCR. 2017, Bình luận chung số 24 về các nghĩa vụ của quốc gia theo Công ước về quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa trong các hoạt động kinh doanh. (Doc. E/C.12/GC/24.).
38 Ủy ban nhân quyền (CCPR). 2004. Bình luận chung số 31 [80]: Bản chất của các nghĩa vụ pháp lý chung ấn định với
các quốc gia thành viên của Công ước. (Doc. CCPR/C/21/Rev.1/Add.13.)
thực tiễn đang nổi lên. Ví dụ, Ủy ban CESCR
đã từng bước phát triển quan điểm của mình
về việc áp dụng các nghĩa vụ nhân quyền ở
lãnh thổ đặc biệt36 và khả năng áp dụng pháp
luật về quyền con người với các thực thể phi
nhà nước37. HRC38 đã nhấn mạnh rằng, việc
thiếu các chế tài bồi thường hiệu quả ở cấp
độ quốc gia chính là một biểu hiện vi phạm
các nghĩa vụ của các quốc gia. Các giải thích
này (được coi như là luật mềm) là sự đóng
góp của các cơ quan nói trên đối với nhận
thức quốc tế về các chuẩn mực quyền con
người và các giải thích đó cũng có thể được
viện dẫn tại các toà án quốc gia và tòa án
khu vực. Sự “bổ sung lẫn nhau” này cũng
chính là một cách tiếp cận để đảm bảo rằng,
các quyền về giáo dục được thực thi tại quốc
quốc gia sẽ phù hợp với các chuẩn mực quốc
tế về quyền con người.
3.2 Cơ chế khu vực nhằm giám sát và
giải trình về quyền được giáo dục
Các cơ quan nhân quyền khu vực,
bao gồm Ủy ban quyền con người và quyền
của các dân tộc Châu Phi, Ủy ban Châu Âu
về quyền xã hội và Ủy ban liên Châu Mỹ
về quyền con người giám sát các quốc
gia thành viên thực hiện các điều ước nhân
quyền khu vực, trong đó có bảo vệ quyền
được giáo dục. Cùng với Tòa án Châu Phi
về quyền con người và quyền của các dân
tộc Châu Phi, Tòa án nhân quyền Châu Âu
và Tòa án liên Châu Mỹ về quyền con người
cũng nhận các khiếu nại cá nhân liên quan
đến các vi phạm quyền con người.
Các cơ quan nhân quyền khu vực
cũng có các cơ chế đặc biệt để giải quyết các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
32 Số 3+4 (355+356) T02/2018
vấn đề liên quan đến quyền về giáo dục. Ví
dụ, Ủy ban liên Châu Mỹ đã thiết lập một
Bộ phận về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa,
bên cạnh các Bộ phận báo cáo về quyền phụ
nữ và quyền trẻ em và các Bộ phận khác.
Ủy ban Châu Phi đã xây dựng một Nhóm
công tác về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
và Các báo cáo viên đặc biệt về quyền phụ
nữ. Bên cạnh đó, Ủy ban Châu Phi bao gồm
các chuyên gia về quyền và phúc lợi trẻ em
còn nhận và đánh giá các báo cáo quốc gia
về việc thực hiện Hiến chương Châu Phi về
quyền và phúc lợi của trẻ em.
Các khung khổ pháp lý khu vực có
thể trao cho chủ thể quyền (các cá nhân và
nhóm người) khả năng đưa vụ việc tới một
cơ chế khu vực, với điều kiện quốc gia là
thành viên của điều ước khu vực và tất cả
các biện pháp khắc phục đã được thực hiện
hoặc bị xem như là không đủ hiệu quả. Có
thể tổng hợp về các cơ chế nhân quyền khu
vực như sau:
Các cơ chế nhân quyền khu vực
Khu
vực
Diễn đàn Khiếu nại
Giám
sát
Châu
Phi
Tòa án Châu Phi về quyền
con người
Có. Đưa ra các quyết định ràng buộc
và các ý kiến tư vấn.
Không
Tòa án công lý ECOWAS Có. Đưa ra các phán quyết Không
Ủy ban Châu Phi về nhân quyền Có - không có tính ràng buộc. Có
Ủy ban Châu Phi bao gồm các
chuyên gia về quyền và phúc lợi
xã hội cho trẻ em
Có. Không có tính ràng buộc. Có
Arab Ủy ban nhân quyền Arab Không Có
Châu
Á
Ủy ban liên chính phủ ASEAN
về quyền con người
Không Không
Châu
Âu
Tòa án nhân quyền Châu Âu Có - đưa ra các phán quyết có giá trị
ràng buộc.
Không
Ủy ban Châu Âu về quyền xã hội Có - có quyền nhận các khiếu kiện
tập thể và đưa ra các quyết định có
tính quyên bố.
Có
L i ê n
Châu
Mỹ
Ủy ban Liên Châu Mỹ về quyền
con người
Có - Nếu các quốc gia không tuân
thủ các khuyến nghị của Ủy ban thì
Ủy ban có thể đưa vấn đề đó ra trước
Tòa án liên Châu Mỹ về quyền con
người.
Có
Tòa án liên Châu Mỹ về quyền
con người
Có - đưa ra các quyết định có tính
ràng buộc và các ý kiến tư vấn.
Có
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
33Số 3+4 (355+356) T02/2018
4. Thực hiện luật quốc tế về quyền được
giáo dục tại các quốc gia
Quyền giáo dục được thúc đẩy, bảo vệ,
bảo đảm và thực thi tốt nhất ở cấp độ quốc
gia. Theo pháp luật quốc tế, các quốc gia có
quyền quyết định cách thức thực hiện các
điều ước về quyền con người trong phạm vi
lãnh thổ của quốc gia. Điều này cho phép sự
đa dạng về phương pháp và cách thức thực
thi đầy đủ quyền được giáo dục, phù hợp
nhất với điều kiện và hoàn cảnh thực tế ở
quốc gia. Mặc dù vậy, các điều ước quốc tế
về quyền con người cũng yêu cầu các quốc
gia thành viên phải thực hiện điều ước bằng
“tất cả các biện pháp thích hợp”. Việc sửa
đổi các luật không phù hợp với quy định
của điều ước quốc tế là nghĩa vụ tối thiểu
mà một quốc gia có thể làm để đảm bảo tôn
trọng quyền được giáo dục. Để bảo vệ tối đa
và thực thi đầy đủ quyền được giáo dục, các
quốc gia trước hết phải ghi nhận quyền được
giáo dục một cách hợp lý trong hệ thống
pháp luật quốc gia39.
Sự bảo vệ pháp lý cao nhất mà một
quốc gia có thể tạo ra cho quyền được giáo
dục là ghi nhận quyền này trong Hiến pháp.
Hiện nay, 82% quốc gia quy định quyền
được giáo dục trong Hiến pháp, mặc dù có
sự khác nhau về phạm vi và sự cưỡng chế
thực thi40. Việc bảo đảm quyền được giáo
dục trên cơ sở Hiến pháp là quan trọng bởi
vì nó tạo ra khả năng cho tòa án quốc gia
xét xử, tuyên án quyền pháp lý về giáo dục,
và như vậy bảo đảm tính bắt buộc thi hành
quyền về phương diện pháp lý. Hiến pháp là
đạo luật cơ bản, nghĩa là, tất cả các luật khác,
các chính sách và các các hoạt động của nhà
nước phải phù hợp với Hiến pháp. Các luật
39 Ủy ban CESCR, Bình luận chung số 9, đoạn. 2
40 UNESCO, Accountability from a human rights perspective: The incorporation and enforcement of the right to ed-
ucation in the domestic legal order, Background paper prepared for the 2017/8 Global Education Monitoring
ReportAccountability in education: Meeting our commitments, (2017) p.28 (ED/GEMR/MRT/2017/P1/2).
và các chính sách mà trái với Hiến pháp (phi
hiến) có thể bị tòa án tuyên bố bãi bỏ. Hơn
nữa, với tính chất là một quyền hiến định,
quyền được giáo dục cũng sẽ được đảm bảo
trước các thay đổi bất thường về chính trị.
Sự bảo vệ của quốc gia đối với quyền
được giáo dục còn thông qua việc ban hành
luật, ví dụ, Luật Giáo dục hoặc Luật Trẻ em.
Tầm quan trọng của luật là nó thực hiện các
quy định của Hiến pháp, hoặc trong trường
hợp Hiến pháp không quy định về quyền
được giáo dục thì luật là công cụ pháp lý cao
nhất mà nhờ đó, các quyền được ghi nhận và
có giá trị bắt buộc thi hành về pháp lý.
Các quốc gia cũng có thể thực hiện
quyền được giáo dục thông qua các chính
sách và kế hoạch, chương trình hành động.
Các chính sách đặt ra các mục tiêu chủ yếu
của một Chính phủ, xác định những ưu tiên
của Chính phủ và các chiến lược để đạt được
các mục tiêu. Chính sách không có tính bắt
buộc phải thi hành tại các Tòa án và không
phải là một công cụ thích hợp để tạo hiệu lực
pháp lý đối với quyền được giáo dục nhưng
nếu chính sách không phù hợp với Hiến
pháp hoặc luật của quốc gia, chính sách có
thể là đối tượng bị suy xét lại bởi Tòa án.
Cùng với Hiến pháp, luật và khung
khổ chính sách nêu trên, cách thức hữu hiệu
nhất để thực hiện quyền được giáo dục ở các
quốc gia là sự kết hợp của tất cả các công cụ
này, trong đó, Hiến pháp quy định về quyền
được giáo dục có tính bắt buộc phải thi hành
về pháp lý, các luật thực hiện quyền được
giáo dục (ví dụ, các luật bảo đảm giáo dục
miễn phí) và các chính sách sẽ bổ sung cho
các luật này■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
34 Số 3+4 (355+356) T02/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_duoc_giao_duc_theo_quy_dinh_cua_luat_quoc_te_va_co_che.pdf