Lĩnh vực kinh tế
Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh”. Quy định này đánh dấu một bước
ngoặt về mặt nhận thức. Nếu trước đây chỉ
công dân Việt Nam mới có quyền tự do kinh
doanh, thì nay quyền tự do kinh doanh đã
được rộng mở cho tất cả “mọi người”. Việc
mở rộng chủ thể quyền tự do kinh doanh cho
mọi người đã dẫn đến những điểm mới khác
về quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài
trong lĩnh vực kinh tế như một hệ quả tất
yếu, cụ thể:
- Thứ nhất, khoản 1 và khoản 2 Điều 32
Hiến pháp năm 2013 mở rộng chủ thể được
hưởng quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong
doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế
khác. Nếu trước đây, chỉ công dân Việt Nam
mới có quyền kinh doanh đồng nghĩa với
việc chỉ công dân mới có quyền sở hữu thu
nhập hợp pháp và các tài sản khác phát sinh
từ hoạt động kinh doanh, thì đến Hiến pháp
năm 2013, mọi người đều có quyền sở hữu
thu nhập hợp pháp và các tài sản khác phát
sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hiến
pháp cũng thừa nhận “quyền sở hữu tư nhân
và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”.
- Thứ hai, song song với việc thụ
hưởng quyền được Nhà nước trao cho,
người nước ngoài cũng có nghĩa vụ tương
xứng, phù hợp. Theo đó, liên quan trực tiếp
đến các hoạt động kinh doanh phát sinh lợi
nhuận hay thu nhập hợp pháp là nghĩa vụ
đóng thuế cho Nhà nước (Điều 47 Hiến
pháp năm 2013).
Như vậy, Hiến pháp năm 2013 lần đầu
tiên được xác định, mở rộng và bảo đảm rõ
ràng quyền, nghĩa vụ của người nước ngoài
trong lĩnh vực kinh tế. Điều này bảo đảm
cho người nước ngoài các khả năng phát
triển các hoạt động kinh doanh ở Việt Nam.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền, nghĩa vụ của người nước ngoài theo Hiến pháp năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUYEÀN, NGHÓA VUÏ CUÛA NGÖÔØI NÖÔÙC NGOAØI
THEO HIEÁN PHAÙP NAÊM 2013
Phạm Thị Bắc Hà*
Tóm tắt:
Hiến pháp quy định những nguyên tắc cơ bản định hướng cho toàn bộ
các mối quan hệ xã hội, trong đó có mối quan hệ giữa Nhà nước với
người nước ngoài. Cùng với xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng trên mọi lĩnh vực, Việt Nam đã nhận thức đầy đủ, toàn diện và
hoàn thiện hơn về mối quan hệ này mà biểu hiện thông qua các quy
định về quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013. Bài viết tập trung làm rõ quyền, nghĩa vụ của
người nước ngoài theo Hiến pháp năm 2013.
Abstract:
The Constitution stipulates the whole social relations including the
relationship between the State and the foreigners. Along with the
trend of international integration in all fields, Vietnam has fully,
comprehensively perceived and improved this relation which shows
through the regulations on rights and obligations of the foreigners
recognized in the Constitution of 2013. This article will focus
on clarifications of the legal regime for the foreigners under the
Constitution of 2013.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Hiến pháp năm 2013;
người nước ngoài; quyền, nghĩa vụ
của người nước ngoài.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 21/03/2017
Biên tập: 13/04/2017
Duyệt bài: 20/04/2017
Article Infomation:
Keywords: Constitution of 2013;
foreigners; legal regime, rights and
obligations of the foreigners.
Article History:
Received: 21 Mar. 2017
Edited: 13 Apr. 2017
Appproved: 20 Apr. 2017
* ThS, Khoa Pháp luật Quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội.
1. Khái niệm người nước ngoài
Từ những yếu tố lịch sử và các hoạt
động hợp tác giữa các nước và thể nhân,
pháp nhân giữa các nước đã dẫn đến một hệ
quả tất yếu là sự hiện diện của những người
không cùng quốc tịch trên lãnh thổ của mỗi
quốc gia. Pháp luật các nước có quy định
riêng biệt dành cho dân cư của mình nhưng
đều có điểm chung trong cách tiếp cận với
các bộ phận dân cư là căn cứ vào tiêu chí quốc
tịch. Theo đó, những người mang quốc tịch
của một nước được xác định là công dân của
nước đó và những người không mang quốc
tịch của nước sở tại thì được coi là người
nước ngoài hoặc người không quốc tịch.
Ở Việt Nam, khái niệm “người nước ngoài”
được đề cập trong một số văn bản quy phạm
pháp luật như Luật Quốc tịch năm 2008 (sửa
đổi, bổ sung năm 2014) và Luật Nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam năm 2014 (Luật nhập
cảnh năm 2014). Cụ thể, theo quy định tại
khoản 1 Điều 3 Luật Nhập cảnh năm 2014,
“người nước ngoài” được hiểu là “người
mang giấy tờ xác định quốc tịch nước
ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam”.
Ngoài ra, khoản 5 Điều 3 Luật Quốc tịch
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 12(340) T6/2017
năm 2008 xác định “người nước ngoài cư
trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và
người không quốc tịch thường trú hoặc tạm
trú ở Việt Nam”. Trong đó, khoản 1 Điều
3 Luật Quốc tịch cũng giải thích “Quốc
tịch nước ngoài là quốc tịch của một nước
khác không phải là quốc tịch Việt Nam” và
“Người không quốc tịch là người không có
quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc
tịch nước ngoài”. Từ các quy định này, có
thể thấy, người nước ngoài được xác định
gồm: người có một quốc tịch nước ngoài,
người có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài
và người không quốc tịch. Vì vậy, khi đề cập
đến chế độ pháp lý dành cho người nước
ngoài phải hiểu đầy đủ bao gồm cả dành cho
những người là công dân của một hay nhiều
nước khác và người không có quốc tịch của
bất kỳ nước nào.
Hiến pháp năm 2013, khi xác định
quyền và nghĩa vụ của “người nước ngoài”,
bên cạnh việc tiếp cận theo thuật ngữ “người
nước ngoài” còn tiếp cận thông qua thuật
ngữ “mọi người”. Thực chất, nội hàm của
khái niệm “mọi người” trong quy định của
Hiến pháp đã bao trùm tất cả các nhóm chủ
thể gồm cả công dân và người nước ngoài.
Điều này được đánh giá là một trong những
điểm sáng của Hiến pháp năm 2013 khi lần
đầu tiên, một số quyền trước đây chỉ dành
cho công dân Việt Nam nay đã dành cho cả
người nước ngoài. Trên cơ sở đó, chúng tôi
cho rằng, cách hiểu về “người nước ngoài”
tương đồng với khái niệm “người nước
ngoài” được xác định trong các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành, cụ thể: người
nước ngoài được hiểu là người mang giấy
tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người
không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá
cảnh, cư trú tại Việt Nam. Tuy nhiên, để có
thể tiếp cận đầy đủ, toàn diện từ các quy
định của Hiến pháp năm 2013, chúng tôi còn
xác định quyền và nghĩa vụ của người nước
ngoài thông qua các quyền và nghĩa vụ dành
cho “mọi người”.
2. Quyền, nghĩa vụ của người nước ngoài
theo Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 dành cho người
nước ngoài chế độ đãi ngộ trước pháp luật
như công dân Việt Nam và không bị phân
biệt đối xử giữa những người nước ngoài
đến từ các quốc gia khác nhau. Khoản 1 Điều
16 Hiến pháp năm 2013 khẳng định, “mọi
người đều được bình đẳng trước pháp luật”.
Theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thì
người nước ngoài có quyền và nghĩa vụ sau:
a) Trong lĩnh vực dân sự, chính trị
Quyền sống
Quyền sống là quyền cơ bản, cố hữu
của con người. Nhà nước Việt Nam luôn
tôn trọng và bảo đảm quyền sống của mỗi
người. Tuy nhiên, nếu trong các bản Hiến
pháp trước đây, quyền sống không được
quy định trực tiếp trong một điều khoản cụ
thể mà được ẩn chứa trong các quyền con
người, quyền công dân khác thì đến Hiến
pháp năm 2013, quyền sống được quy định
trong một điều riêng - Điều 19 Hiến pháp.
Đây là cơ sở vững chắc cho mọi người,
bao gồm công dân Việt Nam, người nước
ngoài, đặc biệt là người không quốc tịch,
có căn cứ để bảo đảm một trong các quyền
cơ bản của mình. Việc Hiến pháp năm 2013
quy định về quyền sống của mọi người là
điểm nhấn quan trọng, thể hiện nhận thức
rõ ràng của Nhà nước trong việc “bảo hộ
tính mạng con người” nói chung và đối với
người nước ngoài đến hoặc cư trú, sinh sống
ở Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, việc quy
định này không đồng nghĩa với việc xóa bỏ
án tử hình. Dù vậy, theo quy định của Bộ
luật Hình sự, việc áp dụng hình phạt tử hình
chỉ được áp dụng đối với người có hành vi
phạm tội đạt đến mức đặc biệt nghiêm trọng
và phải thông qua thủ tục tố tụng được thực
hiện bởi Toà án. Đặc biệt, án tử hình không
được áp dụng đối với người chưa thành niên,
phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ, bất
kể là công dân hay người nước ngoài.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 12(340) T6/2017
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể
và được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh
dự và nhân phẩm
Quyền về thân thể, sức khỏe, danh dự
và nhân phẩm là quyền nhân thân gắn với
mỗi cá nhân. Do đó, mọi người bao gồm cả
người nước ngoài đều được hưởng quyền và
được pháp luật bảo vệ các quyền này. Điều
này được khẳng định tại khoản 1 Điều 20
Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm”. Quy định của Hiến
pháp là cơ sở nền tảng cho việc xây dựng,
sửa đổi và bổ sung các văn bản quy phạm
pháp luật. Cụ thể, theo tinh thần Hiến pháp,
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã quy
định cụ thể về quyền sống, quyền được bảo
đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân
thể tại Điều 33 và quyền được bảo vệ danh
dự, nhân phẩm, uy tín tại Điều 34. Đồng thời
với việc quy định quyền, BLDS năm 2015
cũng quy định trách nhiệm bồi thường cho
những người bị thiệt hại trong từng trường
hợp nhất định từ Điều 590 đến Điều 593
(cụ thể: Điều 590 về thiệt hại do sức khỏe
bị xâm phạm, Điều 591 về thiệt hại do tính
mạng bị xâm phạm, Điều 592 về thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm,
Điều 593. Thời hạn hưởng bồi thường thiệt
hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm).
Ngoài BLDS, các văn bản quy phạm pháp
luật khác ghi nhận và bảo đảm các quyền
này như Bộ luật Hình sự, Luật Y tế...
Quyền không bị bắt, tạm giam, tạm
giữ tùy tiện
Bắt, tạm giam, tạm giữ là các biện
pháp ngăn chặn được quy định trong quy
trình tố tụng hình sự (TTHS). Với yêu cầu
của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,
việc bắt, tạm giam, tạm giữ cần phải được
tiến hành kiên quyết, kịp thời. Tuy nhiên,
các biện pháp ngăn chặn có thể ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền cá nhân của công dân và
của cả những người nước ngoài khi đến Việt
Nam mà bị áp dụng biện pháp này. Trên cơ
sở bảo hộ quyền sống, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm của những người nước ngoài tại Việt
Nam, khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013
khẳng định: “Không ai bị bắt nếu không có
quyết định của Toà án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân,
trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt,
giam, giữ người do luật định”. Cụ thể hóa
quy định của Hiến pháp, pháp luật TTHS
ngày càng hoàn thiện để đảm bảo cho người
nước ngoài khi đến Việt Nam được bảo đảm
quyền không bị bắt, tạm giữ, tạm giam một
cách tùy tiện. Trường hợp người nước ngoài
bị bắt, tạm giữ, tạm giam trái pháp luật, họ
có quyền “khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc
làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá
nhân” và “quyền được bồi thường thiệt hại
về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự”
(Điều 30 Hiến pháp năm 2013).
Quyền được xét xử công bằng
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 trao cho
người nước ngoài quyền được xét xử công
bằng. Theo đó, “người bị buộc tội được coi
là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”,
“người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử
kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng,
công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy
định của luật thì việc tuyên án phải được
công khai” và “không ai bị kết án hai lần vì
một tội phạm”. Để bảo đảm quyền được xét
xử công bằng, khách quan, khoản 4, khoản
5 Điều 31 quy định “người bị bắt, tạm giữ,
tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có
quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa” và “người bị bắt, tạm giữ,
tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 12(340) T6/2017
thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự”. Người nước ngoài được
bảo đảm đảm quyền nhưng đồng thời cũng
có nghĩa vụ, theo đó, nếu người nước ngoài
là “người vi phạm pháp luật trong việc bắt,
giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án gây thiệt hại cho người khác” thì
sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp
năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2015 bảo
đảm cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có quyền “trình bày lời khai, trình bày ý
kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống
lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có
tội”1. Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS còn mở
rộng việc chỉ định người bào chữa đối với
“bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy
định mức cao nhất của khung hình phạt là 20
năm tù, tù chung thân, tử hình”.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
là một trong những quyền cơ bản của con
người, được ghi nhận trong pháp luật quốc
tế về quyền con người như Tuyên ngôn về
Nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế
về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay ở
Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng
đối tượng hưởng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo cho cả người nước ngoài. Điều 24
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người
có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào”. Đồng
thời, Hiến pháp cũng nhấn mạnh: “Không
ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
vi phạm pháp luật”. Quy định này hoàn toàn
phù hợp với khoản 3 Điều 18 Công ước về
các Quyền dân sự, chính trị năm 1966, theo
đó “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín
1 Điều 58, 59, 60 và 61 Bộ luật TTHS năm 2015.
2 Điều 30 Hiến pháp năm 2013.
ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy
định của pháp luật và những giới hạn này
là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự
công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công
chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản
của người khác”. Quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của người nước ngoài được ghi
nhận trong Hiến pháp năm 2013 là cơ sở
quan trọng cho việc ban hành mới hay sửa
đổi, bổ sung các luật và bộ luật (BLDS, Bộ
luật Hình sự, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm
2016,...).
Quyền khiếu nại và tố cáo
Khiếu nại và tố cáo là phương thức góp
phần thực hiện quyền của cá nhân một cách
đầy đủ và hiệu quả. Thông qua khiếu nại và
tố cáo, những hạn chế trong quá trình thực
thi pháp luật mới được bộc lộ rõ nét nhất và
chỉ thông qua khiếu nại, tố cáo, quyền và lợi
ích hợp pháp của “mọi người” mới được bảo
đảm đầy đủ, toàn diện. Hiến pháp năm 2013
đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ khi mở
rộng chủ thể quyền khiếu nại, tố cáo. Điều 30
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người
có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc
làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá
nhân”. Quy định này mở ra cho người nước
ngoài quyền được bảo đảm tốt hơn quyền
lợi hợp pháp của mình khi sống và làm việc
tại Việt Nam. Theo đó, khi có căn cứ cho
rằng mình bị xâm hại quyền và lợi ích hợp
pháp, người nước ngoài có quyền khiếu nại,
tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền và “cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại,
tố cáo”2. Để bảo vệ người khiếu nại, tố cáo,
khoản 3 Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định:
“Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại,
tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo
để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 12(340) T6/2017
b) Trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
xã hội
Lĩnh vực kinh tế
Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh”. Quy định này đánh dấu một bước
ngoặt về mặt nhận thức. Nếu trước đây chỉ
công dân Việt Nam mới có quyền tự do kinh
doanh, thì nay quyền tự do kinh doanh đã
được rộng mở cho tất cả “mọi người”. Việc
mở rộng chủ thể quyền tự do kinh doanh cho
mọi người đã dẫn đến những điểm mới khác
về quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài
trong lĩnh vực kinh tế như một hệ quả tất
yếu, cụ thể:
- Thứ nhất, khoản 1 và khoản 2 Điều 32
Hiến pháp năm 2013 mở rộng chủ thể được
hưởng quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong
doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế
khác. Nếu trước đây, chỉ công dân Việt Nam
mới có quyền kinh doanh đồng nghĩa với
việc chỉ công dân mới có quyền sở hữu thu
nhập hợp pháp và các tài sản khác phát sinh
từ hoạt động kinh doanh, thì đến Hiến pháp
năm 2013, mọi người đều có quyền sở hữu
thu nhập hợp pháp và các tài sản khác phát
sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hiến
pháp cũng thừa nhận “quyền sở hữu tư nhân
và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”.
- Thứ hai, song song với việc thụ
hưởng quyền được Nhà nước trao cho,
người nước ngoài cũng có nghĩa vụ tương
xứng, phù hợp. Theo đó, liên quan trực tiếp
đến các hoạt động kinh doanh phát sinh lợi
nhuận hay thu nhập hợp pháp là nghĩa vụ
đóng thuế cho Nhà nước (Điều 47 Hiến
pháp năm 2013).
Như vậy, Hiến pháp năm 2013 lần đầu
3 Các bản Hiến pháp trước đây quy định nguyên tắc, trách nhiệm chung giữa các cơ quan với nhau liên quan đến vấn đề
môi trường mà chưa đề cập đến quyền được sống trong môi trường trong lành.
4 Công ty VEDAN là công ty 100% vốn nước ngoài.
tiên được xác định, mở rộng và bảo đảm rõ
ràng quyền, nghĩa vụ của người nước ngoài
trong lĩnh vực kinh tế. Điều này bảo đảm
cho người nước ngoài các khả năng phát
triển các hoạt động kinh doanh ở Việt Nam.
Lĩnh vực văn hóa, xã hội
Lần đầu tiên, Hiến pháp năm 2013
khẳng định quyền được sống trong môi
trường trong lành và quy định nghĩa vụ bảo
vệ môi trường cho “mọi người”3. Điểm mới
này xuất phát từ thực tiễn các quốc gia và
cũng là sự quan tâm của thế giới. Thực tế
cho thấy, ở Việt Nam còn rất nhiều các công
ty, doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có hành vi gây ô nhiễm
môi trường trầm trọng (điển hình là Công
ty VEDAN Việt Nam tại Đồng Nai xả nước
thải trực tiếp xuống sông Thị Vải mà chưa
qua xử lý)4.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp
năm 2013 về quyền sống trong môi trường
trong lành và quy định nghĩa vụ bảo vệ môi
trường, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ
môi trường năm 2014 với các quy định chặt
chẽ về vấn đề bảo vệ môi trường, góp phần
phòng ngừa và xử lý có hiệu quả các hành vi
gây tổn hại đến môi trường của các tổ chức,
cá nhân và của người nước ngoài.
- Khoản 1 Điều 38 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Mọi người có quyền được
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong
việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa
vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh,
khám bệnh, chữa bệnh.”. Có thể thấy, Hiến
pháp năm 2013 đã mở rộng chủ thể của
quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe từ
công dân sang các đối tượng khác, trong đó
có cả người nước ngoài. Bên cạnh việc thụ
hưởng quyền được bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe, người nước ngoài còn có nghĩa vụ
(Xem ttếp trang 25)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 12(340) T6/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_nghia_vu_cua_nguoi_nuoc_ngoai_theo_hien_phap_nam_2013.pdf