Rò động mạch cảnh xoang hang do chấn thương và can thiệp nội mạch cấp cứu

KẾT LUẬN Qua điều trị nội mạch cho 80 bệnh nhân bị rò động mạch cảnh xoang hang sau chấn thương tại BV ĐHYD TPHCM trong khoảng thời gian 3 năm. Chúng tôi thu được các kết quả sau: Về chẩn đoán Triệu chứng lâm sàng điển hình trên 90% trường hợp (đỏ mắt, lồi mắt, âm thổi ở mắt, liệt vận nhãn), nên chỉ bằng các triệu lâm sàng chúng ta có thể chẩn đoán khá chính xác những bệnh nhân bị rò động mạch cảnh xoang hang. Siêu âm Doppler thấy tĩnh mạch mắt dãn, có dấu hiệu thông động tĩnh mạch hay trên CT scan sọ não có cản quang thấy xoang hang dãn và bắt thuốc sớm, tĩnh mạch mắt dãn mắt lồi thì cần nghĩ đến rò động mạch cảnh xoang hang. Chụp mạch máu não kỹ thuật số xóa nền xác định chẩn đoán 100% trường hợp. Về điều trị Tỷ lệ thành công chung, bít được hoàn toàn lỗ rách là 97,5% (78/80 trường hợp), tỷ lệ biến chứng về thần kinh trong nghiên cứu là 1,25%. Không có trường hợp nào tử vong do tai biến thủ thuật. Bằng cách chọc trực tiếp động mạch cảnh trong ở cổ hay phối hợp mổ bộc lộ động mạch động mạch cảnh ở cổ ngay tại phòng DSA, sau đó các ống thông được luồn trực tiếp vào động mạch cảnh, chúng tôi đã điều trị thành công nhiều trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang tái phát sau thả cơ hoặc cột động mạch cảnh ở cổ. Sự cải thiện các triệu chứng sau điều trị là rất tốt: ù tai, âm thổi ở mắt mất ngay sau điều trị, triệu chứng lồi mắt, đỏ mắt giảm sau 1 tuần, liệt vận nhãn, giảm thị lực sẽ phục hồi sau vài tháng ngoại trừ mù mắt theo dõi hơn 18 tháng không thấy dấu hiệu phục hồi. Việc nắm rõ các chỉ định khi nào cần can thiệp cấp cứu bệnh nhân dò mạch cảnh xoang hang là điều hết sức cần thiết tránh việc điều trị chậm trể hiệu quả phục hồi sẽ không cao nhất là khi bệnh nhân đã diễn tiến mù mắt hoặc xuất huyết. Can thiệp nội mạch trong điều trị rò động mạch cảnh xoang hang với tỷ lệ thành công cao, ít tai biến, là phương pháp nên được lựa chọn đầu tiên.

pdf10 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 168 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rò động mạch cảnh xoang hang do chấn thương và can thiệp nội mạch cấp cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Ngoại Thần Kinh 232 RÒ ĐỘNG MẠCH CẢNH XOANG HANG DO CHẤN THƯƠNG VÀ CAN THIỆP NỘI MẠCH CẤP CỨU Trần Chí Cường*, Trần Triệu Quốc Cường*, Võ Tấn Sơn**, Huỳnh Hồng Châu** TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả việc áp dụng can thiệp nội mạch trong điều trị rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp sau chấn thương và trình bày những trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang cần can thiệp cấp cứu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tổng số 80 bệnh nhân được chẩn đoán rò động mạch cảnh xoang hang sau chấn thương đầu được điều trị nội mạch bít lỗ rách tại bệnh viện ĐHYD TPHCM, trong khoảng thời gian: từ tháng 10/2004 đến tháng 9/2007. Đây là nghiên cứu tiền cứu, cắt ngang. Kết quả nghiên cứu: Trong số 80 ca rò trực tiếp: 97,5% sau chấn thương đầu do TNGT, 2,5% sau chấn thương do tai nạn sinh hoạt. Các triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất: ù tai, âm thổi ở mắt 96.3%, lồi mắt 87.5%, đỏ mắt, sung huyết kết mạc 85%, liệt vận nhãn 56.3%, mù mắt 12.5%, chảy máu mũi họng nặng 2,5%, xuất huyết dưới nhện 1,25%. Lỗ rò được bít hoàn toàn chiếm 97.5%.Biến chứng liệt nữa người 1.25%. Đặc biệt chúng tôi điều trị cấp cứu 10 trường hợp dò động mạch cảnh xoang hang nặng: kèm vỡ động mạch cảnh chảy máu mũi họng 2 ca, xuất huyết dưới nhện 1 ca, mù mắt tiến triển nhanh 2 ca, giả phình trong xoang bướm dọa vỡ 3 ca, giàm tri giác do trào ngược tĩnh mạch nông võ não 2 ca. Kết luận: Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy can thiệp nội mạch là phương pháp điều trị mới, với tỷ lệ thành công cao, ít tai biến, là phương pháp nên được lựa chọn đầu tiên để điều trị rò động mạch cảnh xoang hang. ABSTRACT ENDOVASCULAR AND EMERGENCY TREATMENT OF TRAUMATIC CAROTID CAVERNOUS FISTULAS: REVIEW 80 CONSECUTIVE CASES Tran Chi Cuong, Tran Trieu Quoc Cuong, Vo Tan Son, Huynh Hong Chau * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 233 - 240 Objectives: To evaluate the results of endovascular and emergency treatment of patients having traumatic carotid-cavernous fistulas (CCF). Methods: A prospective study, from October 2004 to October 2007 in University Medical Center of HCM city, eighty consecutive patients underwent endovascular embolization procedure treatment of traumatic carotid- cavernous fistulas. Results: Among 80 traumatic CCF, 97.5% suffered from head trauma traffic accident, 2.5% resulted from others trauma. The most common symptoms were orbital bruit 96.3%, proptosis 87,5%, chemosis 85%, abducens palsy 56.3%, visual loss 12.5%, severe nose and throat bleeding 2.5%, subarachnoid hemorrhage 1.25%. The fistulas were successfully occluded in 97.5%. The neurological complication rate (hemiparesis) was 1.25%. Especially we have performed successfully 10 emergency procedures for severe tramatic CCF accompanied with: severe nose and throat bleeding causes by rupture ICA pseudoaneurysm in 2 cases, subarachnoid hemorrhage in 1 case, rapid progressive visual loss and blind in 2 cases, unrupture pseudoaneurysm ICA in sphenoid sinus in 3 cases, neurological deficit causes by cortical vein reflux and venous congestion in 2 cases. * Phân khoa Ngoại Thần Kinh BV ĐHYD TP HCM ** Bộ Môn Ngoại Thần Kinh ĐHYD TP HCM Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Ngoại Thần Kinh 233 Conclusion: On the basis of these results, we conclude that Endovascular therapy provides a high rate of fistula obliteration with low complication rate and is the best initial procedure to treat Carotid Cavernous Fistulas. ĐẶT VẤN ĐỀ Rò động mạch cảnh xoang hang là sự thông nối bất thường từ động mạch cảnh qua xoang tĩnh mạch hang (xoang hang). Sự thông nối này có thể là trực tiếp do rach thành động mạch cảnh trong, đoạn đi trong xoang hang hay gián tiếp qua các nhánh động mạch màng cừng của động mạch cảnh trong hoặc cảnh ngoài. Hậu quả của sự thông nối bất thường này gây ứ trệ dẫn lưu của xoang hang và cả các tĩnh mạch đổ về xoang hang. Rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp hay gặp sau chấn thương đầu gây xé rách thành động mạch cảnh trong, đoạn đi trong xoang hang, hoặc do vỡ túi phình động mạch cảnh trong ở đoạn này, cũng có thể xuất hiện sau các thủ thuật vùng sàn sọ cạnh xoang hang và động mạch cảnh. Đối với rò động mạch cảnh xoang hang gián tiếp đa số là khởi phát tự phát, nữ mắc bệnh nhiều hơn nam, một số ít khởi phát sau mang thai và sanh con như theo ghi nhận của Walker và Allegre. Đa số các trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang ở Việt Nam là rò trực tiếp, thường khởi phát sau chấn thương đầu do TNGT, và khá thường gặp so với trên thế giới. Số lượng bệnh nhân chấn thương đầu gia tăng kéo theo số bệnh nhân rò động mạch cảnh xoang hang cũng gia tăng đáng kể. Do đó việc chẩn đoán đúng bệnh và điều trị kịp thời là vấn đề rất quan trọng. Bởi vì ngày nay bằng can thiệp nội mạch chúng ta có thể chữa khỏi bệnh này và nếu cấp cứu kịp thời chúng ta có thể cứu sống những bệnh nhân chảy máu mũi họng nặng do rò động mạch cảnh xoang hang hay vỡ động mạch cảnh sau chấn thương. Sơ lược giải phẫu vùng xoang hang Xoang hang mỗi bên nằm ở vùng thân xương bướm, nhận máu chủ yếu từ tĩnh mạch mắt trên, và tĩnh mạch mắt dưới. máu từ xoang hang sẽ đồ về tĩnh mạch đá trên và đá dưới sau đó đổ về xoang ngang và tĩnh mạch cảnh. Ngoài ra cần lưu ý là xoang hang có thể thông nối với tĩnh mạch nông vỏ não vùng trên lều và đám rối tĩnh mạch vùng nền sọ-chẩm liên quan dẫn lưu tĩnh mạch hố sau. Liên quan đến động mạch: động mạch cảnh trong trước khi vào sọ cấp máu cho não sẽ đi trong xoang đám rối tĩnh mạch hang và cho các nhánh nhỏ trong đoạn này cấp máu cho màng não và tuyến yên.Liên quan về thần kinh: ngoài động mạch cảnh trong, xoang hang còn liên quan mật thiết với các dây thần kinh vận nhãn: dây III, IV, VI, và hạch thần kinh sinh ba, dây V1. Phân loại rò động mạch cảnh xoang hang Theo tác giả Barrow rò động mạch cảnh xoanag hang được phân thành 4 types: A, B, C, D. Type A: Thông nối trực tiếp từ động mạch cảnh trong và xoang hang (hay gặp nhất) Type B: Thông nối gián tiếp từ các nhánh nhỏ của động mạch cảnh trong vào xoang hang (hiếm gặp). Type C: Thông nối gián tiếp từ các nhánh nhỏ của động mạch cảnh ngoài vào xoang hang (rò màng cứng: dural fistula). Type D: Thông nối gián tiếp từ các nhánh nhỏ của động mạch cảnh trong và động mạch cảnh ngoài vào xoang hang. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá việc áp dụng can thiệp nội mạch trong điều trị rò động mạch cảnh- xoang hang. Đối tượng Nghiên cứu 80 bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng rò động mạch cảnh xoang hang sau chấn thưong đầu được chụp mạch máu não xóa nền DSA và được điều trị nội mạch tại BV ĐHYD TP. HCM từ tháng 10/2004 đến tháng 9/2007. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Ngoại Thần Kinh 234 Phương pháp nghiên cứu Đây là nghiên cứu tiền cứu, cắt ngang. Phương pháp điều trị phương tiện Phương pháp điều trị: chúng tôi thực hiện can thiệp nội mạch sử dụng máy chụp mạch máu xóa nền DSA để đưa bóng hoặc coils (những cuộn xoắn bằng platinum) qua những ống thông trong lòng mạch máu đến nơi mạch máu bị rách và bít tắc lỗ rách. Việc sử dụng bóng hay coils là tùy thuộc vào kích thước lỗ rách sau chụp DSA. Kết quả bít lổ rách được chụp kiểm tra ngay sau đặt và theo dõi các triệu chứng lâm sàng, tái khám lại sau 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng. Chỉ định điều trị cấp cứu khi - Thị lực diễn tiến xấu nhanh (sẽ dẫn đến mù mắt). - Chảy máu mũi họng nặng trên bệnh nhân dò mạch cảnh xoang hang. - Túi giả phình động mạch cảnh trong xoang bướm, (nếu vỡ dễ gây tử vong). - Bệnh nhân dò mạch cảnh xoang hang tri giác xấu dần. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm chung Tuổi, giới Nam Nữ Tỉ lệ 82,5% 17,5% Tuổi nhỏ nhất là 17 tuổi lớn nhất 75 tuổi tuổi trung bình: 33,8 tuổi. Nguyên nhân Nguyên nhân: Tỉ lệ Chấn thương đầu do TNGT 97,5% Chấn thương thể thao 1,25% Bị đánh 1,25% Lâm sàng Cơ năng - Nghe tiếng kêu ù ù trong tai gặp trong 95% các trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp sau chấn thương. Thực thể Triệu chứng Tỉ lệ Đỏ mắt phù nề sung huyết kết mạc. 93,7% Lồi mắt 96,3% Nghe trên mắt có âm thổi 96,3% Giảm thị lực: Sáng tối (+), 3/10-7/10. 30% Sáng tối (-) 12,5% Liệt vận nhãn các dây III, IV, VI. 56,3% Tăng nhãn áp. 12,5% Chảy máu mũi xoang do vỡ giả phình trong xoang bướm. 2,5% Xuất huyết dưới nhện hôn mê sâu 1,25%. Cận lâm sàng Siêu âm Doppler động mạch cảnh-tĩnh mạch mắt - Có 45 trường hợp siêu âm doppler thấy dãn tĩnh mạch mắt sau đó những bệnh nhân này được chụp DSA và xác định chính xác là rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp. - Dấu hiệu điển hình trên siêu âm doppler là: Tĩnh mạch mắt dãn to, có hiện tượng thông nối động tĩnh mạch, tĩnh mạch mắt bị động mạch hóa. CT scan sọ não có cản quang - Được thực hiện trong 30 ca tất cả những ca này đều thấy được các dấu hiệu: - Xoang hang và tĩnh mạch mắt dãn to, bắt thuốc cản quang sớm. - Mắt lồi. DSA (Digital Subtraction Angiography) - Thấy được luồng thông từ động mạch cảnh - xoang hang-tĩnh mạch mắt ngay thì động mạch là tiêu chuẩn và để xác định chẩn đoán và phân loại lỗ rò. Hình minh hoạt rò động mạch cảnh xoang hang: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Ngoại Thần Kinh 235 Siêu âm Doppler CT scan có cản quang DSA mạch máu não Kết quả điều trị Cách điều trị Cách điều trị Tỉ lệ Đặt bóng 87,5% Đặt coil 12,5% Hình minh họa điều trị rò động mạch cảnh xoang bằng bóng. Kỹ thuật đặt bóng bít lỗ rách Hình DSA trước và sau đặt bóng. Triệu chứng ở mắt trước đặt bóng Cùng bệnh nhân, sau đặt bóng 48h Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Ngoại Thần Kinh 236 Kết quả điều trị Lỗ rò được bít hoàn toàn 78/80 trường hợp chiếm 97,5%. Kết quả Tỉ lệ Bít được hoàn toàn lỗ rách 97,5% Chưa bít được hoàn toàn 2,5% Trong nghiên cứu của chúng tôi có 11 ca rò động mạch cảnh xoang hang tái phát bao gồm: 3 ca tái phát sau mổ cột động mạch cảnh trong, 6 ca tái phát sau mổ cột động mạch cảnh chung, 2 ca tái phát sau thả cơ qua lỗ mở động mạch cảnh ở cổ (chưa cột động mạch cảnh).Việc điều trị cho những bệnh nhân đã cột động mạch cảnh gặp rất nhiều khó khăn. Chúng tôi phải chọn dò trực tiếp động mạch cảnh trong ở cổ và đặt bóng thành công 4 ca, 3 ca phải đi bằng đường động mạch thông sau, 1 ca cần phải phối hợp ngoại khoa bộc lộ động mạch cảnh trong phía trên nơi cột sau đó luồn ống thông trực tiếp vào động mạch cảnh để thả bóng kết quả là bít được hoàn toàn lỗ thông. Có 1 trường hợp không đến được lỗ rách: bệnh nhân rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp tái phát sau mổ cột động mạch cảnh trong trên bệnh nhân tuần hoàn thông nối qua đa giác Willis không tốt (bệnh nhân bị liệt nửa người sau cột động mạch cảnh trong), nên không thể đi đến lỗ rách. Trong nghiên cứu có 10 trường hợp dò động mạch cảnh xoang hang nặng chúng tôi bít được lỗ rách hoàn toàn trong 10 trường hợp, kết quả sau can thiệp: Tình trạng cấp cứu Số ca Kết quả Chảy máu mũi họng nặng 2 ca Cứu sống bệnh nhân Giả phình trong xoang bướm dọa vỡ 3 ca Bít được hoàn toàn túi phình Giàm tri giác do trào ngược tĩnh mạch nông võ não 2 ca Phục hồi hoàn toàn Mù mắt tiến triển nhanh 2 ca Có phục hồi thị lực Xuất huyết dưới nhện bệnh nhân hôn mê sâu 1 ca Không cải thiện Đánh giá các triệu chứng sau thủ thuật Sau thủ thuật nếu thấy lỗ rách đã được bít hoàn toàn trên hình chụp DSA kiểm tra thì triệu chứng âm thổi ở mắt sẽ mất ngay sau làm thủ thuật. Các triệu chứng lồi mắt, đỏ mắt sẽ cải thiện rõ sau 24h và trở về bình thường sau vài ngày hoặc vài tuần tùy theo mức độ nặng nhẹ trước điều trị, trung bình là 1 tuần. Đối với các triệu chứng liệt vận nhãn sự phục hồi sẽ chậm hơn, trong nghiên cứu này có 45 ca có liệt vận nhãn chiếm 56,3% tất cả các trường hợp liệt vận nhãn đều phục hồi hoàn toàn trong thời gian trung bình khoảng 3 tháng. Đối với các trường hợp giảm thị lực kể cả sáng tối (+) khoảng 70% bệnh nhân có cải thiện sau thủ thuật trong thời gian trung bình 3-4 tháng. Riêng các trường hợp những bệnh nhân mù mắt ngay sau chấn thương do thương tổn thần kinh thị không phân biệt được sáng tối thì khả năng phục hồi rất kém. Trường hợp theo dõi lâu nhất đã được 18 tháng vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện. Đối với bệnh nhân bị xuất huyết dưới nhện hôn mê mặc dù đã can thiệp bít lỗ rách và túi phình được hoàn toàn nhưng bệnh nhân vẫn không cải thiện do tình trạng co thắt mạch máu nặng xảy ra sau xuất huyết. Tai biến và biến chứng Trong mẫu nghiên cứu này chúng tôi có 1 trường hợp bị liệt nửa người chiếm 1,25%. Triệu chứng xuất sau làm thủ thuật 12h sau đó phục hồi gần hoàn toàn (bệnh nhân có thể tự đi lại được sau 4 tháng). Bệnh nhân này lớn tuổi (55T) tăng huyết áp nhiều năm, hẹp động mạch não giữa cùng bên động mạch cảnh bị rách, lỗ rách lớn không bảo tồn được động mạch cảnh đoạn rách. Các tai biến khác: tụ máu nơi chọc kim: vùng bẹn: 3 ca, ở cổ 1 ca, chiếm 5%. Tai biến này trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi thì nhẹ và tự khỏi. Theo dõi sau thủ thuật Tất cả các bệnh nhân đều được tái khám đánh giá lại về triệu chứng lâm sàng sau 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 1 năm. Tất cả những trường hợp bít được lỗ rách hoàn toàn, thấy trên hình DSA kiểm tra sau thủ thuật, theo dõi đến Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Ngoại Thần Kinh 237 nay ca làm đầu tiên đã được 36 tháng hiện không có trường hợp nào tái thông lỗ rách. Không ghi nhận trường hợp nào dị ứng với chất gây tắc là bóng, coil. Có một trường hợp chụp DSA kiểm tra phát hiện giả phình vùng xoang hang sau thủ thuật đặt bóng do động mạch cảnh bị rách không lành tốt, bệnh nhân không triệu chứng. BÀN LUẬN Bệnh rò động mạch cảnh xoang hang được Traves mô tả đầu tiên vào năm 1809. Năm 1931 Brook điều trị bệnh này bằng cách thả miếng cơ qua một lỗ mở động mạch cảnh ở cổ để bít lỗ rách. Năm 1964 Hamby trình bày phương pháp điều trị kết hợp giữa cột động mạch cản ở cổ và thả cơ bít lỗ rách. Đến năm 1974 Serbinenko, một phẫu thuật viên thần kinh người Nga, là người đầu tiên mô tả và sử dụng một catheter gắn một quả bóng có thể tách rời (detachable balloon) để bít lỗ rách mà có thể bảo tồn động mạch cảnh. Từ đó đến nay phương pháp này ngày càng được hoàn thiện và phát triển, nhất là khi có máy chụp mạch máu kỹ thuật số xóa nền DSA (Digital Subtraction Angiography) và ngày càng được áp dụng rộng rãi. Hiện nay đối với rò động mạch cảnh xoang hang, can thiệp nội mạch điều trị bằng cách luồn những ống thông từ động mạch hay tĩnh mạch đùi sau đó dùng bóng, coil hoặc keo để bít lỗ rách tùy theo kích thước và đặc điểm của lỗ rò(6). Về điều trị rò động mạch cảnh xoang hang ở Việt Nam, năm 1972 Lê Xuân Trung, Tôn Thất Tùng(8,7) đã điều trị rò động mạch cảnh xoang hang theo phương pháp Brook. Năm 1989, Trương Văn Việt(12) đã trình bày một phương pháp điều trị bít lỗ rò bằng một miếng cơ có thể điều khiển được bằng một catheter qua một lỗ mở ở động mạch cảnh chung và báo cáo 56 ca rò động mạch cảnh xoang hang được điều trị bằng phương pháp này. Năm 1999 Trương Văn Việt, Nguyễn Đình Tùng(13) đã tổng kết điều trị cho 176 bệnh nhân với tử vong 2, liệt nửa người 4, tái phát 20. Năm 2003 Nguyễn Đình Tùng báo cáo điều trị 123 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang phương pháp gây tắc bằng cơ có điều khiển với kết quả tốt 86,2%, yếu liệt nửa người 5 bệnh nhân (4,065%), tái phát 9 bệnh nhân (7,03%), chảy máu 1 bệnh nhân (0,8%), không gây tắc được 2 bệnh nhân (1,62%)(113). Trên thế giới, sau khi Serbinenko(11) báo cáo kết quả việc dùng bóng có thể tách rời để điều trị các bệnh lý mạch máu não đến nay, kỹ thuật này ngày càng được áp dụng rộng rãi. Năm 1981 Debrun và cộng sự báo cáo 54 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang sau chấn thương được điều trị bằng bóng và kết quả bít được lỗ rách hoàn toàn bằng bóng trong 51 ca (94,4%) và bảo tồn được động mạch cảnh trong 59% trường hợp; 3 ca bị liệt nửa người chiếm 5,5%(2). Năm 1990 Higashida, Halback và cộng sự tổng kết từ năm 1981-1989 có 87 trường hợp túi phình động mạch cảnh trong xoang hang được điều trị bằng bóng trong đó có 8 ca túi phình vỡ gây rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp(5). Năm 1995 Lewis và cộng sự báo cáo 100 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp được điều trị bằng bóng từ 1979-1992 tỉ lệ bít được lỗ rách bằng bóng là 86% bảo tồn được động mạch cảnh trong 66 trường hợp, tỉ lệ biến chứng là 4% bao gồm nhồi máu não, liệt nửa người, chảy máu não có 1 ca tử vong liên quan đến thủ thuật đặt bóng(9). Đối với những trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang tái phát sau mổ cột động mạch cảnh, can thiệp nội mạch gặp nhiều khó khăn. Các đường đi khác để đến lỗ rách có thể là: đường động mạch thông sau, đường tĩnh mạch đá dưới đến xoang hang, đường tĩnh mạch mắt trên, nếu các đường trên không thực hiện được thì chọc dò trực tiếp động mạch cảnh trên nơi cột có thể được đặt ra. Năm 1991 Monsein(10) và cộng sự báo cáo điều trị 4 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang bằng đường tĩnh mạch mắt trên, kết quả là bít được hoàn toàn lỗ rách, không biến chứng. Năm 1989 Halbach(4) báo cáo 3 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang bị tắc động mạch cảnh trong được điều trị bằng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Ngoại Thần Kinh 238 cách chọc trực tiếp động mạch cảnh trong sau nơi bị tắc và dùng bóng hoặc coil để bít lỗ rách, không biến chứng. 0 20 40 60 80 100 Nguyeãn Ñình Tuøng Debrun Lewis Kirsch M Nghieân Cöùu naøy Thaønh Coâng Taùi Phaùt Bieán Chöùng Biểu đồ so sánh kết quả điều trị một số tác giả. Về ảnh hưởng lâu dài của việc điều trị rò động mạch cảnh xoang hang năm 1983 FY Tsai(3) báo cáo 74 trường hợp được theo dõi trong 6 năm: giả phình sau đặt bóng có thể tự lành, liệt các dây vận nhãn thoáng qua gặp trong 16%, bóng xẹp sớm có thể trôi đi làm tắc động mạch cảnh trong hoặc các nhánh của nó. KẾT LUẬN Qua điều trị nội mạch cho 80 bệnh nhân bị rò động mạch cảnh xoang hang sau chấn thương tại BV ĐHYD TPHCM trong khoảng thời gian 3 năm. Chúng tôi thu được các kết quả sau: Về chẩn đoán Triệu chứng lâm sàng điển hình trên 90% trường hợp (đỏ mắt, lồi mắt, âm thổi ở mắt, liệt vận nhãn), nên chỉ bằng các triệu lâm sàng chúng ta có thể chẩn đoán khá chính xác những bệnh nhân bị rò động mạch cảnh xoang hang. Siêu âm Doppler thấy tĩnh mạch mắt dãn, có dấu hiệu thông động tĩnh mạch hay trên CT scan sọ não có cản quang thấy xoang hang dãn và bắt thuốc sớm, tĩnh mạch mắt dãn mắt lồi thì cần nghĩ đến rò động mạch cảnh xoang hang. Chụp mạch máu não kỹ thuật số xóa nền xác định chẩn đoán 100% trường hợp. Về điều trị Tỷ lệ thành công chung, bít được hoàn toàn lỗ rách là 97,5% (78/80 trường hợp), tỷ lệ biến chứng về thần kinh trong nghiên cứu là 1,25%. Không có trường hợp nào tử vong do tai biến thủ thuật. Bằng cách chọc trực tiếp động mạch cảnh trong ở cổ hay phối hợp mổ bộc lộ động mạch động mạch cảnh ở cổ ngay tại phòng DSA, sau đó các ống thông được luồn trực tiếp vào động mạch cảnh, chúng tôi đã điều trị thành công nhiều trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang tái phát sau thả cơ hoặc cột động mạch cảnh ở cổ. Sự cải thiện các triệu chứng sau điều trị là rất tốt: ù tai, âm thổi ở mắt mất ngay sau điều trị, triệu chứng lồi mắt, đỏ mắt giảm sau 1 tuần, liệt vận nhãn, giảm thị lực sẽ phục hồi sau vài tháng ngoại trừ mù mắt theo dõi hơn 18 tháng không thấy dấu hiệu phục hồi. Việc nắm rõ các chỉ định khi nào cần can thiệp cấp cứu bệnh nhân dò mạch cảnh xoang hang là điều hết sức cần thiết tránh việc điều trị chậm trể hiệu quả phục hồi sẽ không cao nhất là khi bệnh nhân đã diễn tiến mù mắt hoặc xuất huyết. Can thiệp nội mạch trong điều trị rò động mạch cảnh xoang hang với tỷ lệ thành công cao, ít tai biến, là phương pháp nên được lựa chọn đầu tiên. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Ngoại Thần Kinh 239 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Debrun G, Lacour P, Vinuela F, Fox A, Drake CG, Caron JP.Treatment of 54 traumatic carotid-cavernous fistulas. J Neurosurg. 1981 Nov;55(5):678-92. 2 Debrun GM, Vinuela F, Fox AJ, Davis KR, Ahn HS. Indications for treatment and classification of 132 carotid- cavernous fistulas. Neurosurgery. 1988 Feb;22(2):285-9. 3 FY Tsai, GB Hieshima, CM Mehringer, V Grinnell and HW Pribram, Delayed effects in the treatment of carotid-cavernous fistulas, AJNR 1983 Vol 4, Issue 3 357-361. 4 Halbach VV, Higashida RT, Hieshima GB and Hardin CW, Direct puncture of the proximally occluded internal carotid artery for treatment of carotid cavernous fistulas. 1989 AJNR Vol 10, Issue 1 151-154. 5 Higashida RT, Halbach VV, Dowd C, Barnwell SL, Dormandy B, Bell J, Hieshima GB. Endovascular detachable balloon embolization therapy of cavernous carotid artery aneurysms: results in 87 cases. J Neurosurg. 1990 Jun;72(6):857-63. 6 Kirsch M, Henkes H, Liebig T, Weber W, Esser J, Golik S, Kuhne D. Endovascular management of dural carotid- cavernous sinus fistulas in 141 patients. Neuroradiology. 2006 Jul;48(7):486-90. Epub 2006. Apr 26. 7 Lê Xuân Trung, Lỗ động mạch cảnh xoang hang, Bệnh lý ngoại khoa thần kinh, 1988, Trường Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh, 333-340. 8 Lê Xuân Trung, Lỗ thông động mạch cảnh với xoang hang, Tạp chí y học Việt nam 1966, 2, 101-107. 9 Lewis AI, Tomsick TA, Tew JM Jr. Management of 100 consecutive direct carotid-cavernous fistulas: results of treatment with detachable balloons. Neurosurgery. 1995 Aug;37(2):357. 10 Monsein LH, Debrun GM, Miller NR, Nauta HJ, ChazalyJR. Treatment of dural carotid-carcernous fistulas via the superior opthalmic vein. AJNR 1991 May-jun; 12(3):435-9. 11 Serbinenko FA. Balloon catheterization and occlusion of major cerebral vessels. J Neurosurg 1974; 41: 1974. 12 Trương Văn Việt; Nguyễn Đình Tùng (1999), Rò động mạch cảnh xoang hang, Hội nghị Việt- Úc về ngoại thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy, 24-25. 13 Trương Văn Việt; Nguyễn Đình Tùng (2002), Rò động mạch cảnh xoang hang, Chuyên đề ngoại thần kinh, , Nhà xuất bản y học, 403-41. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Ngoại Thần Kinh 240 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Ngoại Thần Kinh 241

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfro_dong_mach_canh_xoang_hang_do_chan_thuong_va_can_thiep_noi.pdf