Trong nghiên cứu của chúng tôi có 8,2% bệnh
nhân có chảy máu nhiều sau mổ, kết quả này
tương tự như nghiên cứu của Bùi Đoàn Xuân Linh
[3], nhưng cao hơn so với nghiên cứu của Colson
[4]. Tỷ lệ chảy máu nhiều ở nhóm có RLĐCM nặng
cao hơn 2 nhóm còn lại nhưng sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Chảy máu
sau phẫu thuật được đánh giá chủ yếu dựa vào
lượng máu dẫn lưu trung thất. Khi bệnh nhân có
RLĐCM nặng thì càng có nguy cơ chảy máu nhiều,
và ngược lại nếu bệnh nhân có chảy máu nhiều mà
không được xử trí kịp thời thì lại gây rối loạn đông
máu nặng nề hơn. Đây là vòng xoắn bệnh lý cần
được phát hiện và xử trí sớm. Trong nghiên cứu,
khoảng 2/3 trường hợp RLĐCM phải xử trí bằng
truyền tiểu cầu hoặc FFP, tỷ lệ này cao hơn so với
nghiên cứu của Ranucci [5]. Mức độ rối loạn càng
nặng thì tỷ lệ bệnh nhân phải truyền tiểu cầu hoặc
FFP càng nhiều: 77,3% ở nhóm RLĐCM nặng so với
44,4% ở nhóm RLĐCM nhẹ, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05.
Trong 89 bệnh nhân không có giảm tiểu cầu
sau mổ, 12 bệnh nhân vẫn phải truyền khối tiểu
cầu. Số lượng tiểu cầu của 12 bệnh nhân này
tuy không giảm theo tiêu chuẩn của nghiên cứu
(<100.000/mm3 ) nhưng cũng nhiều bệnh nhân
ở ngưỡng thấp < 150.000/mm3. Ngoài ra lượng
máu dẫn lưu trung thất của các bệnh nhân này
lớn do đó các bệnh nhân đã được truyền khối tiểu
cầu. Tính trung bình lượng máu dẫn lưu trong 6
giờ đầu tính theo cân nặng ở nhóm phải truyền
đều lớn hơn nhóm không phải truyền tiểu cầu,
tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê với giá trị p là 0,069 > 0,05. Như vậy việc
quyết định truyền chế phẩm máu cho bệnh nhân
không những dựa vào kết quả xét nghiệm đông
cầm máu mà còn dựa vào thực tế lâm sàng mức
độ chảy máu sau phẫu thuật như thế nào.
Thời gian đông máu trở về bình thường trung
bình là 2,5 ngày, thời gian này của nhóm có truyền
chế phẩm máu ngắn hơn nhóm không truyền, tuy
nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với
p> 0,05.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Rối loạn đông cầm máu ở bệnh nhân sau phẫu thuật tim mở tim bẩm sinh tại bệnh viện Nhi trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạp chí nhi khoa 2018, 11, 4
42
RỐI LOẠN ĐÔNG CẦM MÁU Ở BỆNH NHÂN SAU PHẪU THUẬT TIM
MỞ TIM BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Nguyễn Ngọc Huy*, Đặng Thị Hải Vân*, Nguyễn Thị Mai Hương**
* Trường Đại học Y Hà Nội; **Bệnh viện Nhi Trung ương
TÓM TẮT
Tổng quan: Phẫu thuật tim mở tim bẩm sinh (TBS) là một phẫu thuật lớn có sử dụng tuần hoàn
ngoài cơ thể (THNCT) được thực hiện ngày càng rộng rãi. Rối loạn đông cầm máu (RLĐCM) sau
THNCT là một biến chứng thường gặp, có thể gây chảy máu nặng sau mổ và phải điều trị truyền
máu. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ RLĐCM ở các bệnh nhân sau phẫu thuật tim mở TBS tại Bệnh viện Nhi
Trung ương và nhận xét kết quả điều trị ban đầu các RLĐCM sau phẫu thuật tim mở TBS. Phương
pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang trên các bệnh nhân được phẫu thuật tim
mở TBS tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả: Có 96 bệnh nhân với tuổi trung vị là 6 tháng. Nhóm
bệnh TBS được phẫu thuật nhiều nhất là thông liên thất (39,6%). 100% bệnh nhân sau phẫu thuật
có RLĐCM, 26,0% rối loạn mức độ nhẹ, 43,8% mức độ vừa và 30,2% mức độ nặng. Trong nghiên
cứu có 64,6% bệnh nhân RLĐCM sau phẫu thuật phải truyền chế phẩm máu. RLĐCM mức độ nhẹ
có 44%, rối loạn vừa có 66,7% và rối loạn nặng có 79,3% trường hợp phải truyền. Thời gian đông
máu trở về bình thường trung bình là 2,8 ± 1,8 ngày và thời gian này ở nhóm phải truyền nhanh
hơn nhóm không phải truyền chế phẩm máu. Kết luận: RLĐCM sau phẫu thuật tim mở TBS là một
biến chứng rất thường gặp, chủ yếu là rối loạn nhẹ và vừa. Các trường hợp này thường đáp ứng tốt
với điều trị truyền tiểu cầu hoặc FFP.
Từ khóa: Rối loạn đông cầm máu, phẫu thuật tim mở, tim bẩm sinh.
ABSTRACT
COAGULATION dISORdeRS IN PATIeNTS SUffeRed fROM OPeN-HeART SURGeRy fOR
CONGeNITAL HeART dISeASeS AT VIeTNAM NATIONAL CHILdReN’S HOSPITAL
Background: Congenital heart defects (CHD) open-heart surgery is a complicated surgery in
which cardiopulmanary bypass (CPB) is commonly used. Coagulation disorders after cardiopulmonary
bypass are common complication which may cause severe bleeding after surgery and require blood
transfusion.
Objective: To determine the portion of coagulation disorders in patients suffered from open-heart
surgery for congenital heart diseases at Vietnam National Children’s Hospital (VNCH) and to assess
the initial treatment effects of these disorders. Methods: Prospective and cross-sectional study was
conducted in patients suffered from congenital heart defects open-heart surgery at VNCH.
Results: There were 97 patients with median age was 6 months. The percentage of Ventricular Septal
Defect (VSD) accounted for 40.2% and was the largest portion of the total surgeries. All the patients had
coagulation disorder after sugery, 27.8% of patients had mild disorder, 49.5% of patients had medium
Nhận bài: 1-8-2018; Thẩm định: 23-8-2018
Người chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Ngọc Huy
Địa chỉ: Bộ môn Nhi, Trường Đại học Y Hà Nội
43
phần nghiên cứu
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tim bẩm sinh là một dị tật thường gặp, tỷ lệ
khoảng từ 4 đến 10/1000 trẻ sinh ra sống [1]. Phẫu
thuật tim mở với tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT)
là một trong những biện pháp chính điều trị TBS.
Tuy nhiên sử dụng THNCT cũng có thể gây nguy
cơ rối loạn đông cầm máu (RLĐCM) sau phẫu
thuật làm gia tăng nguy cơ chảy máu. Tỷ lệ bệnh
nhân có RLĐCM sau phẫu thuật là khá cao theo
các nghiên cứu, 57-100% bệnh nhân có giảm tiểu
cầu, 84 - 92,5% có prothrombin time (PT) kéo
dài, 9% giảm fibrinogen và 27% APTT (Activated
partial thromboplastin time) kéo dài [2],[3]. Việc
đánh giá mức độ RLĐCM, nguy cơ chảy máu sau
phẫu thuật là rất cần thiết, giúp nâng cao chất
lượng hồi sức sau phẫu thuật tim mở. Vì những lý
do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với
mục tiêu: Xác định tỷ lệ RLĐCM ở các mức độ và nhận
xét ban đầu điều trị các RLĐCM này.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: là các bệnh nhân
được phẫu thuật tim mở TBS tại Bệnh viện Nhi
Trung ương từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2017.
Nghiên cứu này loại trừ tất cả các bệnh nhân có
RLĐCM trước phẫu thuật.
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang, tiến cứu. Tiến hành phân tích số liệu và đưa
ra tỷ lệ RLĐCM sau phẫu thuật ở các mức độ khác
nhau và nhận xét kết quả điều trị ban đầu RLĐCM.
* Các xét nghiệm đông cầm máu được lấy ở các
thời điểm như sau:
- T1: thời điểm ngay sau ngừng THNCT trong
phòng mổ. Thời điểm này chỉ lấy xét nghiệm tiểu cầu.
- T2: ngay sau khi bệnh nhân được đưa về
phòng hồi sức sau mổ
- T3: khi xét nghiệm đông cầm máu về bình
thường hoặc xét nghiệm cuối trước khi ra viện.
* Chảy máu nhiều khi lượng dẫn lưu trung thất
trong 6 giờ đầu từ 1,5ml/kg/h trở lên [4].
disorder and 22.7% of patients had severe disorder. 66% of cases after sugery required blood transfusion.
44.4% of mild cases, 72.9% of medium cases and 77.3% of severe cases required blood transfusion.
Coagulation statement became normal after mean time of 2.5±1.9 days, there weren’t differences
between required and not required groups.
Conclusions: Coagulation disorders after congenital heart defects open-heart surgery were very
common complications, most of them were mild and medium. These cases usually responded properly to
FFP or PLT transfusion.
Key words: Coagulation disorder, open-heart surgery, congenital heart defect.
* Tiêu chuẩn đánh giá mức độ rối loạn đông cầm máu:
Chỉ số Mức độ nhẹ Mức độ vừa Mức độ nặng
PT (INR) 1,21 - 1,5 1,51 - 2 > 2
APTT (APTT ratio) 1,21 - 1,5 1,51 - 2 > 2
Fibrinogen (g/l) 0,75 - 0,99 0,5 - 0,74 < 0,5
Số lượng tiểu cầu /mm3 50 - 99 20 - 49 < 20
Bệnh nhân được đánh giá có RLĐCM mức độ nặng khi có ít nhất 1 trong 4 thành phần trên rối loạn
ở mức độ nặng.
tạp chí nhi khoa 2018, 11, 4
44
Mức độ RLĐCM vừa khi có ít nhất 1 trong 4 thành
phần trên rối loạn ở mức độ vừa.
Mức độ RLĐCM nhẹ khi có ít nhất 1 trong 4 thành
phần trên rối loạn ở mức độ nhẹ.
2.3. Xử lý số liệu: Số liệu được nhập và phân
tích bằng phần mềm SPSS 20.0, sử dụng các
thuật toán mô tả, phân tích, kiểm định Khi bình
phương, Phi and Cramer, Mann - Whitney U.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu của chúng tôi bao gồm 97 bệnh
nhi mắc bệnh TBS được phẫu thuật tim mở dưới
sự hỗ trợ của THNCT.
- Tuổi trung bình là 16,1 tháng và tuổi trung
vị là 6 tháng (từ tuổi sơ sinh đến 14 tuổi), có 50%
bệnh nhi dưới 6 tháng tuổi.
- Tỷ lệ bệnh nhân nam là 55,7%.
- Cân nặng trung bình là 7,5 ± 4,9 kg, thấp nhất là
2,9kg và có 50% bệnh nhân dưới 6kg.
Bảng 1. Tỷ lệ các nhóm bệnh tim bẩm sinh
Nhóm bệnh tim bẩm sinh Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Thông liên thất 39 40,2
Thông liên nhĩ 6 6,2
Thất phải hai đường ra 9 9,3
Tứ chứng Fallot 16 16,5
Chuyển gốc động mạch 5 5,2
Hẹp phổi/ Teo phổi 4 4,1
Bất thường tĩnh mạch phổi 4 4,1
Tim bẩm sinh khác 14 14,4
Tổng 96 100,0
Nhận xét: Thông liên thất là loại TBS được phẫu thuật nhiều nhất, chiếm 40,2%, đứng thứ 2 là tứ
chứng Fallot với tỷ lệ 16,5%.
Bảng 2. Mức độ giảm của từng yếu tố đông, cầm máu sau phẫu thuật (thời điểm T1, T2)
Thời điểm Mức độ giảm các yếu tố đông cầm máu
Nhẹ
Tỷ lệ %
Vừa
Tỷ lệ %
Nặng
Tỷ lệ %
Tổng
Tỷ lệ %
T1 Số lượng tiểu cầu 32 9,2 0 41,2
T2
INR 57,7 38,1 1,1 96,9
APTT ratio 34 37,1 22,7 93,8
Fibrinogen 4,1 0 0 4,1
Số lượng tiểu cầu 8,2 0 0 8,2
Nhận xét: Tại thời điểm T1 chủ yếu là giảm tiểu cầu mức độ nhẹ. Tình trạng RLĐCM ở thời điểm T2
chủ yếu là do PT kéo dài (96,9%) và tỷ số APTT ratio tăng (93,8%). Tỷ lệ giảm tiểu cầu chung trong cả 2
thời điểm là 42,3%.
Bảng 3. Tỷ lệ RLĐCM chung (thời điểm T1, T2)
Mức độ RLĐCM chung Số bệnh nhân Tỷ lệ %
RLĐCM mức độ nhẹ 27 27,8
RLĐCM mức độ vừa 48 49,5
RLĐCM mức độ nặng 22 22,7
Tổng 97 100,0
Nhận xét:
- Tính tổng cả 2 thời điểm, sau phẫu thuật có 100% bệnh nhân rối loạn đông cầm máu
- Trong nghiên cứu không có bệnh nhân nào chỉ có giảm tiểu cầu đơn thuần, 51 bệnh nhân chỉ rối
loạn 2 trong 3 yếu tố đông máu và 1 bệnh nhân chỉ rối loạn 3 yếu tố đông máu.
45
phần nghiên cứu
Tỷ lệ bệnh nhân chảy máu nhiều sau phẫu thuật của nhóm nghiên cứu là 8,2%. Tỷ lệ này ở nhóm
RLĐCM nặng là 13,6% cao hơn 2 nhóm RLĐCM vừa (4,2%) và RLĐCM nhẹ (11,1%), tuy nhiên sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,334 > 0,05.
Bảng 4. Tỷ lệ bệnh nhân phải truyền chế phẩm máu sau phẫu thuật
Thời điểm Chỉ truyền TC (%) Chỉ truyền ffP (%) Truyền cả TC, ffP (%)
T1 45,4 1 4,1
T2 4,1 35,1 11,3
Cả 2 thời điểm 16,5 9,3 40,2
Nhận xét: Ngay sau phẫu thuật (thời điểm T1) chỉ có 5,1% bệnh nhân phải truyền FFP. Tỷ lệ bệnh
nhân phải truyền tiểu cầu giảm xuống khi ra khoa hồi sức ngoại. Tính chung sau phẫu thuật có 66%
bệnh nhân phải xử trí (truyền TC hoặc FFP hoặc cả hai).
Bảng 5. Tỷ lệ bệnh nhân phải truyền tiểu cầu hoặc FFP theo các mức độ RLĐCM
Các nhóm rối loạn
Xử trí
p
Không truyền (%) Truyền (%)
Rối loạn nhẹ 55,6 44,4
0,02Rối loạn vừa 27,1 72,9
Rối loạn nặng 22,7 77,3
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân phải truyền tiểu cầu hoặc FFP ở nhóm có RLĐCM mức độ nặng cao hơn
2 nhóm còn lại, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,02 < 0,05.
Trong số 89 bệnh nhân không giảm tiểu cầu sau
mổ, có 12 bệnh nhân vẫn phải truyền khối tiểu cầu.
Lượng dẫn lưu trung thất trung bình trong 2 nhóm
phải truyền tiểu cầu và không phải truyền tiểu cầu
lần lượt là 1,46 và 0,76 ml/kg/giờ. Sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê với p = 0, 069 > 0,05.
Bảng 6. Thời gian đông máu về bình thường giữa các nhóm
Nhóm RLĐCM Truyền (ngày) Không truyền (ngày) p
Nhẹ 2,9 ± 1,9 2,4 ± 1,2 0,544
Vừa 2,6 ± 1,9 2,5 ± 1,6 0,976
Nặng 2,1 ± 1,6 3,8 ± 1,3 0,142
Chung 2,4 ± 2,9 2,8 ± 1,6 0,564
Nhận xét: Thời gian đông máu trở về bình thường trung bình 2,5 ± 1,9 ngày, nhanh nhất là ngay
trong ngày đầu sau phẫu thuật và chậm nhất là 12 ngày. Thời gian này ở nhóm không truyền kéo dài
hơn nhóm truyền. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,564 < 0,05.
4. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 97 bệnh nhân
với độ tuổi trung bình là 16,1 tháng, cân nặng trung
bình 7,5 ± 4,9kg và tỷ lệ nhóm TBS được phẫu thuật
nhiều nhất là thông liên thất, tương tự với nghiên
cứu của Ranucci [5]. Tỷ lệ trẻ nam và nữ không có sự
khác biệt nhiều, kết quả này tương tự nghiên cứu
của Cavalcante [6].
Ngay sau THNCT ở thời điểm T1, tỷ lệ giảm tiểu
cầu khá cao (41,2%). Tỷ lệ RLĐCM sau mổ là 100%,
trong đó nhóm RLĐCM mức độ vừa có tỷ lệ cao
nhất (49,5%). Tỷ lệ giảm tiểu cầu (tính cả 2 thời
điểm) là 42,3% thấp hơn so với nghiên cứu của
Moriau (100%) [2] và Bùi Đoàn Xuân Linh (57%)
[3], điều này có thể do tiêu chuẩn đánh giá giảm
tiểu cầu của chúng tôi chặt chẽ hơn. Như vậy mặc
dù THNCT đem lại lợi ích to lớn trong phẫu thuật
tim mở nhưng cũng là một trong những nguyên
nhân gây rối loạn đông cầm máu đòi hỏi phải xử
trí kịp thời.
tạp chí nhi khoa 2018, 11, 4
46
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 8,2% bệnh
nhân có chảy máu nhiều sau mổ, kết quả này
tương tự như nghiên cứu của Bùi Đoàn Xuân Linh
[3], nhưng cao hơn so với nghiên cứu của Colson
[4]. Tỷ lệ chảy máu nhiều ở nhóm có RLĐCM nặng
cao hơn 2 nhóm còn lại nhưng sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Chảy máu
sau phẫu thuật được đánh giá chủ yếu dựa vào
lượng máu dẫn lưu trung thất. Khi bệnh nhân có
RLĐCM nặng thì càng có nguy cơ chảy máu nhiều,
và ngược lại nếu bệnh nhân có chảy máu nhiều mà
không được xử trí kịp thời thì lại gây rối loạn đông
máu nặng nề hơn. Đây là vòng xoắn bệnh lý cần
được phát hiện và xử trí sớm. Trong nghiên cứu,
khoảng 2/3 trường hợp RLĐCM phải xử trí bằng
truyền tiểu cầu hoặc FFP, tỷ lệ này cao hơn so với
nghiên cứu của Ranucci [5]. Mức độ rối loạn càng
nặng thì tỷ lệ bệnh nhân phải truyền tiểu cầu hoặc
FFP càng nhiều: 77,3% ở nhóm RLĐCM nặng so với
44,4% ở nhóm RLĐCM nhẹ, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05.
Trong 89 bệnh nhân không có giảm tiểu cầu
sau mổ, 12 bệnh nhân vẫn phải truyền khối tiểu
cầu. Số lượng tiểu cầu của 12 bệnh nhân này
tuy không giảm theo tiêu chuẩn của nghiên cứu
(<100.000/mm3 ) nhưng cũng nhiều bệnh nhân
ở ngưỡng thấp < 150.000/mm3. Ngoài ra lượng
máu dẫn lưu trung thất của các bệnh nhân này
lớn do đó các bệnh nhân đã được truyền khối tiểu
cầu. Tính trung bình lượng máu dẫn lưu trong 6
giờ đầu tính theo cân nặng ở nhóm phải truyền
đều lớn hơn nhóm không phải truyền tiểu cầu,
tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê với giá trị p là 0,069 > 0,05. Như vậy việc
quyết định truyền chế phẩm máu cho bệnh nhân
không những dựa vào kết quả xét nghiệm đông
cầm máu mà còn dựa vào thực tế lâm sàng mức
độ chảy máu sau phẫu thuật như thế nào.
Thời gian đông máu trở về bình thường trung
bình là 2,5 ngày, thời gian này của nhóm có truyền
chế phẩm máu ngắn hơn nhóm không truyền, tuy
nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với
p> 0,05.
5. KẾT LUẬN
RLĐCM thường xuyên gặp sau phẫu thuật tim
mở, nhiều nhất là RLĐCM mức độ vừa. Khoảng
2/3 các trường hợp phải điều trị truyền tiểu cầu
hoặc FFP hoặc cả hai. RLĐCM sau phẫu thuật tim
mở tim bẩm sinh đáp ứng tốt với điều trị truyền các
chế phẩm máu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V. L. Roger, A. S. Go, d. M. Lloyd-Jones et all
(2012). Heart disease and stroke statistics-2012
update. Circulation, 125 (1), e2-e220.
2. M. Moriau, R. Masure, A. Hurlet et all (1977).
Haemostasis disorders in open heart surgery
with extracorporeal circulation. Importance of
the platelet function and the heparin neutralization.
Vox Sang, 32 (1), 41-51.
3. Bùi Đoàn Xuân Linh (2013). Khảo sát các đặc
điểm rối loạn đông máu ở bệnh nhân tim bẩm
sinh mổ tim hở tại Bệnh viện Nhi Đồng 1. Tạp chí
Y học TP. Hồ Chí Minh, 17.
4. P. H. Colson, P. Gaudard, J.-L. fellahi et all
(2016). Active bleeding after cardiac surgery: A
prospective observational multicenter study.
PloS one, 11 (9), e0162396.
5. M. Ranucci, C. Carlucci, G. Isgro et all (2012).
A prospective pilot study of platelet function and
its relationship with postoperative bleeding in
pediatric cardiac surgery. Minerva anestesiologica,
78 (5), 556-563.
6. C. T. d. M. B. Cavalcante, N. M. G. d. Souza, V.
C. Pinto Júnior (2016). Analysis of surgical mortality
for congenital heart defects using RACHS-1 risk
score in a Brazilian single center. Brazilian journal
of cardiovascular surgery, 31 (3), 219-225.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
roi_loan_dong_cam_mau_o_benh_nhan_sau_phau_thuat_tim_mo_tim.pdf