Định hướng xây dựng “Nhà hát nghệ thuật sân
khấu Khmer Nam Bộ” trong tương lai, đây sẽ là nơi
tập hợp các nghệ nhân, nghệ sĩ ưu tú, các chuyên
gia am hiểu lĩnh vực nghệ thuật sân khấu Khmer
Nam Bộ; khai thác và học tập vốn cổ trong nghệ
thuật ca Bassac; tổ chức nghiên cứu học thuật lĩnh
vực sân khấu Dù kê và biểu diễn đúng phong cách
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ chính
thống. Trên cơ sở đó, “Nhà hát nghệ thuật sân khấu
Khmer Nam Bộ” sẽ là nơi phục hồi, chỉnh lí, cải
biên những vở diễn Dù kê truyền thống, tiêu biểu
và cũng là nơi phát hiện các hạt nhân nghệ thuật và
tạo nguồn đào tạo các lớp nghệ thuật sân khấu Dù
kê - hệ chính quy.
Tổ chức nghiên cứu khoa học, sưu tầm các bài
ca Bassac, các kịch bản sân khấu Dù kê Khmer
Nam Bộ, đặc biệt là biên soạn sách song ngữ
Khmer - Việt, Khmer – Anh về nghệ thuật sân
khấu Dù kê Khmer Nam Bộ để thuận tiện giới
thiệu và quảng bá rộng rãi loại hình nghệ thuật này
đến công chúng trong và ngoài nước.
Mạnh dạn bổ sung vào chương trình tour du
lịch khách đến tham quan có nghỉ đêm tại tỉnh Trà
Vinh chương trình biểu diễn ca, múa, nhạc Khmer
và trích đoạn sân khấu Dù kê, nhằm giới thiệu,
quảng bá loại hình sân khấu Dù kê Khmer Nam
Bộ với bạn bè trong nước và quốc tế. Đây cũng sẽ
là đầu ra của học sinh, sinh viên các lớp đào tạo hệ
chính quy ngành Diễn viên Sân khấu Khmer Nam
Bộ trong tương lai.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sân khấu dù kê khmer Nam Bộ bảo tồn và phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư
nên việc giữ gìn và phát huy vốn giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc trong giai đoạn hiện nay cần
phải có một chiến lược bền vững. Hội thảo “Nghệ
thuật Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản
văn hóa dân tộc” được tổ chức tại Trường Đại học
Trà Vinh có thể xem là một sự kiện khởi sắc, thể
hiện sự bền vững ở góc độ thực thi công việc về
văn hóa tộc người Khmer. Các bài tham luận trong
hội thảo sẽ là những đóng góp có giá trị thực tiễn
để làm rõ vấn đề đặt ra. Riêng bài tham luận này
góp phần điểm lại sơ bộ hoạt động về công tác
nghiên cứu và làm rõ hoạt động phát huy giá trị
văn hóa nghệ thuật dân tộc Khmer tại đơn vị nhà
trường. Qua đó, thể hiện sự đồng tình trong công
tác đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn về văn
hóa dân tộc. Đặc biệt cần chú trọng tạo mọi điều
kiện nghiên cứu về loại hình văn hóa dân tộc đang
có nguy cơ bị mai một, khuyến khích việc đầu
tư phục dựng, sân khấu hóa hình thức biểu diễn
và vận dụng đặc điểm thuận lợi trong xu thế hội
nhập góp phần quảng bá giá trị văn hóa tộc người
Khmer đến với khu vực và thế giới. Có thể nhận
thấy việc chú trọng nghiên cứu về văn hoá Khmer
Nam Bộ đến thực tiễn phát huy các giá trị văn hoá
nghệ thuật dân tộc là một trong những mục tiêu
chiến lược quan trọng hàng đầu để đơn vị Trường
Đại học Trà Vinh có được nền tảng khoa học vững
chắc trong việc đào tạo nguồn nhân lực hiểu biết
sâu rộng về văn hoá tộc người Khmer cho địa bàn.
Đây cũng chính là mục tiêu và phương hướng
giúp nhà trường phấn đấu xây dựng Khoa Ngôn
ngữ - Văn hoá - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ thành
khoa trọng điểm quốc gia góp phần vào sự nghiệp
giữ gìn và phát huy vốn giá trị văn hoá tộc người
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam vào sự phát
triển chung của đất nước.
Tài liệu tham khảo
Đàm Văn Hiển, Trần Văn Bổn, Lê Hàm. 2012. Sân khấu dân gian. NXB Văn hóa dân tộc.
Đào Huy Quyền – Sơn Ngọc Hoàng – Ngô Khị. 2007. Nhạc khí dân tộc Khmer Sóc Trăng. Nxb
Tổng hợp Tp. HCM.
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại.
Huỳnh Ngọc Trảng, Văn Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo, Phan Thị yến Tuyết. 1987.
Người Khmer tỉnh Cửu Long. NXB Sở Văn hóa Thông tin Cửu Long.
Ngô Văn Tưởng. 2007. Báo cáo kết quả điều tra Di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Khmer tỉnh
Trà Vinh. NXB Sở Văn hóa Thông tin Cửu Long.
Nhóm tác giả. Sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. NXB Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Sóc Trăng
– Phân viện Văn hóa Nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh
SÂN KHẤU DÙ KÊ KHMER NAM BỘ
BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
Trần Thanh Tâm1
Tóm tắt
Bài viết giới thiệu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ như là một loại hình nghệ thuật sân
khấu mới, vừa mang tính thống nhất, vừa có nét riêng biệt độc đáo, được hình thành và phát triển ngày
càng rõ nét trên địa bàn tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng từ những năm 20 thế kỷ XX. Hiện nay, sân khấu Dù
kê đang thiếu trầm trọng các kịch bản đương đại để dàn dựng; thiếu đội ngũ đội soạn giả, đạo diễn, diễn
viên, nhạc công trẻ để kế thừa, trong khi các thế hệ nghệ nhân, nghệ sĩ Khmer đã lớn tuổi; đặc biệt cả
nước chưa có trường đào tạo hệ chính quy, chuyên ngành diễn viên và nhạc công sân khấu Dù kê nên
loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê rất có nguy cơ bị mai một, từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp
nhằm bảo tồn và phát triển sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
Từ khóa: nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ, Dù kê, nghệ thuật sân khấu, Khmer Nam Bộ.
Abstract
Du ke theatre of Southern Khmer is a new theatrical art which retains both common and original
features. It has been formed and developed more distinctly in the provinces of Tra Vinh and Soc Trang
since the 1920s. Currently, there is a great shortage of modern Du ke scenarios, the inheritance of
young composers, directors, actors, actresses and musicians while the Khmer artists are getting older.
In addition, there still have no regular schools that train actors, actresses and musicians for Du ke
theatre. As a result, Du ke theatrical art is likely to fall into oblivion. Therefore, this paper is to propose
solutions to preserve and develop Du ke theatre of Southern Khmer.
Key words: Southern Khmer Du ke theatrical art, Du ke, theatrical art, southern Khmer.
1 Học viên lớp Cao học Văn hoá Khmer Nam Bộ, Khoá học
2012 - 2014
1. Mở đầu
Người Khmer Nam Bộ có quyền tự hào là dân
tộc ít người duy nhất ở Việt Nam có hai loại hình
sân khấu kịch hát dân tộc Rô băm và Dù kê. Riêng
sân khấu Dù kê đã được bảo tồn và phát triển trong
đời sống văn hoá xã hội của người Khmer Nam
Bộ đến nay gần tròn một thế kỷ, rất được người
Khmer Nam Bộ và nước bạn Campuchia yêu mến.
Trong những năm qua, có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học, nhiều tác giả có bài viết,
tham luận về sân khấu Dù kê Nam Bộ. Nhìn chung
các công trình này chủ yếu mô tả về quá trình hình
thành và phát triển sân khấu Dù kê ở Nam Bộ từ
những năm 1920 đến nay; giới thiệu đôi nét về đặc
điểm nghệ thuật sân khấu Dù kê; một số bài viết về
thực trạng công tác bảo tồn sân khấu Dù kê; chưa
có nhiều công trình khoa học quan tâm nghiên
cứu về sự phát triển bền vững của sân khấu Dù kê
Khmer trong đời sống văn hoá tinh thần của người
Khmer Nam Bộ trong thời gian tới.
2. Nội dung
2.1. Đôi nét về Dù kê
Tỉnh Trà Vinh thuộc khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên là 2.288,09
km2, tổng số dân là 1.012.648 người, trong đó
dân tộc Khmer là 320.392 người, chiếm 31,63%
(Số liệu của Cục Thống kê Trà Vinh năm 2011).
Người Khmer chủ yếu sống xen kẽ và tập trung
thành từng cụm dân cư theo phum sróc trên những
giồng cát cao. Trong quá trình cùng cộng cư trên
vùng đất tỉnh Trà Vinh, các dân tộc Kinh, Khmer
và Hoa luôn có truyền thống đoàn kết, gắn bó với
nhau trong khai phá thiên nhiên, chống giặc ngoại
xâm, lao động sản xuất, xây dựng xóm làng ngày
càng phát triển. Đặc biệt, quá trình giao lưu, tiếp
biến văn hoá lẫn nhau đã tạo cho người dân Khmer
ở Trà Vinh có một bản sắc văn hoá độc đáo, đa
dạng và phong phú trong nền văn hoá Việt Nam
thống nhất.
Hầu như bất cứ người dân Khmer nào ở tỉnh
Trà Vinh cũng biết thông thạo ít nhất một loại hình
nghệ thuật của dân tộc mình (âm nhạc, múa, sân
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014140 Soá 13, thaùng 3/2014 141
khấu). Nếu có dịp đi bất cứ nơi đâu trong vùng
có dân tộc Khmer (nhất là trong dịp tết, lễ hội)
thì chúng ta sẽ nghe thấy đâu đó những giai điệu
dân ca Khmer, các điệu múa Rom-vong, Rom-leo,
Sravan, À day, trống Sà-dam hay hát Dù kê.
Nghệ thuật sân khấu Dù kê của người dân
Khmer là một loại hình nghệ thuật sân khấu mới.
Nó vừa mang tính thống nhất, vừa có nét riêng biệt
độc đáo và được hình thành ngày càng rõ nét. Đây
là kết quả của sự thích ứng với cuộc sống, hoàn
cảnh và sự tương tác, giao lưu, tiếp biến văn hóa
với các dân tộc bản địa trên vùng đất Nam Bộ. Chữ
“Dù kê” do đọc trại từ “Dì kê” - tên một loại kịch
hát có ảnh hưởng từ kịch hát Chăm Bà La Môn, có
từ lâu đời của vương quốc Campuchia và đã được
người Khmer du nhập vào vùng biên giới Tri Tôn,
tỉnh An Giang.
Dù kê: Tên gọi tuy hết sức mộc mạc, dân dã
nhưng bản thân nó cũng phản ánh được phần nào
nguồn gốc khai sinh ra nó. Đặc biệt, từ “Dùh kê”,
đây là đặc điểm phát âm trong sinh hoạt đời thường
của người dân Khmer Nam Bộ, mỗi khi phát âm
đều không nghe rõ âm sắc giữa Dì và Dù, mà chỉ
nghe rõ nhất ở âm “D” ở đầu, còn âm “ì” và “ù”
dường như chỉ thoáng qua chung là âm “ùh” mà
thôi, nhất là khi nói nhanh nó chẳng khác gì là âm
câm,... Cũng không loại trừ khả năng do sự phiên
âm của tên gọi ở thời kỳ Pháp thuộc từ “Dì kê”
(Yikê) thành từ Dù kê (Yukê).
Qua nhiều nguồn tài liệu, trao đổi, phỏng vấn
các nghệ nhân, nghệ sĩ và trực tiếp xem nhiều buổi
biểu diễn, chúng tôi nhận thấy Dù kê là hình thức
sân khấu dân gian, loại hình nghệ thuật tổng hợp
của dân tộc Khmer và là sự tổng hoà các loại hình
nghệ thuật: văn học, múa, âm nhạc, có tính cải
tiến. Sân khấu Dù kê có sự giao lưu, tiếp biến với
các loại hình nghệ thuật khác, như: Rô-băm, hát
Tiều, Cải lương v.v quá trình giao lưu được biểu
hiện rõ nét nhất là trong phong cách biểu diễn, hoá
trang, phục trang, vũ đạo, võ thuật và các là làn
điệu bài ca, bản nhạc được sử dụng trong sân khấu
Dù kê cho đến ngày nay.
Ngày nay đã khẳng định nghệ thuật sân khấu
Dù kê là lối hát tuồng tương tự như sân khấu Cải
lương của người Kinh. Một loại hình nghệ thuật
sân khấu tổng hợp về ca, múa, nhạc, mà ở đó đạo
diễn, văn nghệ sĩ hay diễn viên biểu diễn dựa theo
tác phẩm kịch bản, để tạo ra những hình tượng
nghệ thuật trên sân khấu hay khán đài cho khán giả
xem. Đây là loại hình nghệ thuật rất được người
Khmer Nam Bộ nói chung và người Khmer tỉnh
Trà Vinh nói riêng yêu thích và là loại hình nghệ
thuật có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa
của người Khmer tỉnh Trà Vinh.
2.2. Sự hình thành và phát triển sân khấu Dù
kê Nam Bộ
Theo nhiều tài liệu đã phát hành, ngay từ
những năm đầu thập kỷ 20, 30 của thế kỷ XX, tại
hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh đã hình thành và
phát triển các gánh hát Dù kê trong dân gian với
các giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống độc
đáo và có kinh nghiệm sáng tạo trong dàn dựng
kịch bản.
Các nguồn tài liệu nghiên cứu về nghệ thuật
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ đều có quan điểm
cho rằng, nghệ thuật sân khấu Dù kê của người dân
tộc Khmer được ra đời bởi một nhóm văn nghệ sĩ,
trí thức người Khmer Nam Bộ rất có tâm huyết,
am hiểu nghệ thuật và thông thạo văn học, thơ ca
Khmer. Trong đó, có ông Thạch Xua/Suor (Thầy
Xua) ở xã Hiếu Tử, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh
và ông Lý Kọn (còn gọi là Chhà Kọn) là người
Khmer lai Triều Châu, ấp Sóc Vồ, xã An Ninh,
tỉnh Sóc Trăng đứng ra tập hợp các thanh niên yêu
thích văn nghệ, có năng khiếu về ca hát, biểu diễn
để tổ chức luyện tập, dàn dựng. Qua một thời gian
đưa ra biểu diễn và được đông đảo khán giả nhiệt
liệt cổ vũ, hưởng ứng, gánh hát Dù kê Nam Bộ
được hình thành và phát triển, chủ yếu ở hai tỉnh
Sóc Trăng và Trà Vinh.
Một số gánh hát sân khấu Dù kê Khmer Nam
Bộ tiêu biểu, như:
Tỉnh Sóc Trăng: khoảng từ năm 1919-1944,
gánh Dù kê Tự Lập Ban của Chà Kọn - Sóc Vồ,
xã An Ninh, huyện Mỹ Mỹ Tú; từ năm 1933-1943,
gánh Dù kê Tổ Lập Thành của Tà Thại; từ năm
1934-1945, gánh Dù kê Tổ Lập Thành của Chhà
Tỷ - Vũng Thơm; từ năm 1946-1972, gánh Dù kê
Tự lập Ban của Bà Lý Thị Sô Phi con ông Chhà
Kọn; từ năm 1949-1968, gánh Dù kê Ánh Sáng
của Tà Kươn, xã Đại Tâm, Mỹ Xuyên
Tỉnh Trà Vinh: năm 1926, gánh Dù kê Bà Bầu
- xã Nguyệt Hoá; năm 1929-1930, gánh Dù kê của
Xã Nhương - Tri Tân; năm 1930, gánh Dù kê của
Quản Sách - xã Lương Hòa; một số gánh Dù kê
của Tà Chuôl - xã Tập Ngãi; gánh Dù kê của Tà
Tưng, Tà Mục - xã Long Đức; gánh Dù kê Tự
Lập Thành của Tà Tia - xã Lưu Nghiệp Anh, Trà
Cú; sau đó nhập gánh với của Tà Yên - Càng Long
để lập gánh Võ Lập Thành; năm 1934, Quản Sách
giao gánh hát lại cho Thạch Hoa và đặt tên là Hoa
Long Thành, đoàn hát bằng tiếng Khmer lẫn tiếng
Việt; khoảng năm 1930-1937, gánh Dù kê Nhật
Nguyệt Quang của Sơn Kưu - Trà Cú; năm 1952-
1953, gánh Dù kê Nhật Nguyệt Thành của Thạch
Vông, Thạch Tu Quang; năm 1965-1975, gánh Dù
kê Nhật Nguyệt Quang Sơn Kưu giao cho ông
Cơ - xã Đại An quản lý...
Ngoài ra, hầu như ở khắp nơi của hai tỉnh Sóc
Trăng và Trà Vinh, người ta thấy xuất hiện các
gánh hát Dù kê liên tiếp được thành lập, không có
tên, không danh hiệu chính thức, thường là quy
mô nhỏ có tính tự phát chủ yếu để góp vui cho các
cuộc lễ hội của phum, sróc. Tuy nhiên, các gánh
hát Dù kê dân gian tự phát thường thiếu sự chặt
chẽ về tổ chức, quản lý; thiếu đội ngũ diễn viên,
nhạc công; thiếu vở diễn hoàn chỉnh; các trang bị
thiết bị, trang phục, đạo cụ thiếu đồng bộ nên chưa
nhận được sự ủng hộ cao của khán giả, sau một
thời gian đã tự tan rã.
Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
ra đời không chỉ ảnh hưởng ở trong phạm vi của
một tỉnh, khu vực Nam Bộ mà còn mở rộng phạm
vi đến đất nước Chùa Tháp anh em. Người dân
Campuchia yêu mến nghệ thuật sân khấu Dù kê
Khmer Nam Bộ và đặt tên rất gần gũi, thân quen,
đó là “Lakhôn Basắc”2 và tên gọi này vẫn tồn tại
đến ngày nay.
2 Lakhôn Bassac: “Bassac” là tên sông Bassac do người
Khmer Campuchia gọi, có tên gọi khác của người Kinh là
Hậu giang hay sông Hậu (Tự điển Bách khoa toàn thư - Sông
Cửu Long); “Lakhôn Bassac” được hiểu là “Sân khấu của
người ở xứ Basac / xứ sông Hậu”
Lakhôn Bassac: “Từ sau năm 1930, gánh hát Dù kê của ông
Chhà Kọn - Sóc Trăng đã tổ chức nhiều chuyến lưu diễn và đã
được đông đảo công chúng Campuchia yêu thích. Sự thành
công của gánh Chhà Kọn đã gây nên dư luận tốt, tạo tiếng vang
khắp cả đất nước Chùa Tháp. Vào đầu thập kỷ 30 thế kỷ XX
(1930-1931), nhân có cuộc tổ chức triển lãm trước Hoàng cung
ở Nông Phênh 03 ngày, 03 đêm mừng thọ của mình, nhà vua
Si Sô Wáth – Mô Ni Vông (lên ngôi từ năm 1927-1941) đã
cho quan cận thần mời gánh hát của ông Chhà Kọn vào Hoàng
cung biểu diễn cho nhà vua và hoàng tộc xem. Khi kết thúc
buổi biểu diễn, Nhà vua hết lòng khen ngợi và thán phục tài
thông minh sáng tạo của người Khmer Nam Bộ, nên hạ chỉ cho
mời ông bầu gánh Dù kê Nam Bộ đến nhập triều để yết kiến
nhà vua. Qua thăm hỏi gia đình, nguồn gốc của gánh hát Dù
kê, khi biết rằng gánh hát Dù kê này là của những người ở Sróc
Khlêng, nghe xong nhà vua nói: “À, gánh hát này thật ra của
người ở xứ sở Bassac, vậy thì nên gọi gánh hát của các người
là “Krom Lakhôn Bassac” (gánh hát Bassac/ Basắc) để người
dân ở Campuchia ai cũng đều biết Lakhôn Bassac là sân khấu
Dù kê của người dân xứ Basắc”. Cũng từ sự kiện đó, sân khấu
Dù kê Khmer Nam Bộ ở Campuchia chính thức có thêm tên
mới là “Lakhôn Bassac” và tên gọi này tồn tại cho đến ngày
nay đối với người dân Campuchia”. * [Sơn Lương (chủ biên)
2012,“Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 1920-2000”, trang 113].
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ -
1962 , Tỉnh uỷ Trà Vinh chủ trương thành lập đoàn
văn công Khmer nhằm phục vụ kháng chiến được
toàn diện và sâu rộng hơn; giao cho ông Thạch
Voi – Phó Trưởng ban Tuyên giáo tỉnh Trà Vinh
tập hợp tác giả Kim Sơn, họa sĩ Phong Ba, đạo
diễn Năm Tri đến huyện Cầu Kè - nơi có sẵn đội
văn nghệ Khmer truyền thống. Sau một thời gian
chuẩn bị, ngày 14/4/1963, Đoàn Văn công Khmer
tỉnh Trà Vinh chính thức được thành lập tại ấp Cây
Xanh, xã Tam Ngãi, xã Châu Điền, huyện Cầu
Kè, tỉnh Trà Vinh – tiền thân của Đoàn Nghệ thuật
Khmer Ánh Bình Minh tỉnh Trà Vinh ngày nay.
Sau năm 1975, Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh
Bình Minh Trà Vinh trưởng thành, phát triển để
hoà nhịp và gắn liền với những thành tựu chung
của đất nước. Đoàn còn là cái nôi đào tạo, diễn
viên, nhạc công sân khấu Dù kê, không chỉ cho
Đoàn mà còn cung cấp cho các đoàn, đội văn nghệ
Khmer trong và ngoài tỉnh, hỗ trợ thành lập Đoàn
Nghệ thuật Khmer tỉnh Kiên Giang, Minh Hải;
thường xuyên biểu diễn trích đoạn sân khấu Dù kê
phục vụ khách trong, ngoài nước và được cử sang
phục vụ nước bạn Campuchia. Cho đến hôm nay,
Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh tỉnh Trà
Vinh là một trong những đoàn nghệ thuật Khmer
Nam Bộ biểu diễn Dù kê vừa giữ được nét nghệ
thuật truyền thống, vừa có sự tiếp nhận văn hóa
hiện đại, được khán giả Trà Vinh cũng như các
khán giả tỉnh Nam Bộ yêu thích, mến mộ.
Đến năm 1985, Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh
Bình Minh tỉnh Trà Vinh lần đầu tiên tham dự Hội
diễn Sân khấu Chuyên nghiệp toàn quốc lần III tại
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Nghĩa Bình (nay là tỉnh
Bình Định), từ ngày 1/7-15/7/1985 do Bộ Văn hóa
- Thông tin và Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tổ
chức. Đoàn đã đạt 4 huy chương Vàng (có 01 huy
chương vàng về kịch bản), 7 huy chương Bạc. Từ
những thành công đó, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay
là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận
“Loại hình Dù kê là một trong những loại hình
nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp ở Việt Nam”.
Nhìn chung, xuất phát điểm từ hình thức đội
văn nghệ Khmer truyền thống dân gian, trưởng
thành đoàn hát Dù kê chuyên nghiệp và hiện nay
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014140 Soá 13, thaùng 3/2014 141
khấu). Nếu có dịp đi bất cứ nơi đâu trong vùng
có dân tộc Khmer (nhất là trong dịp tết, lễ hội)
thì chúng ta sẽ nghe thấy đâu đó những giai điệu
dân ca Khmer, các điệu múa Rom-vong, Rom-leo,
Sravan, À day, trống Sà-dam hay hát Dù kê.
Nghệ thuật sân khấu Dù kê của người dân
Khmer là một loại hình nghệ thuật sân khấu mới.
Nó vừa mang tính thống nhất, vừa có nét riêng biệt
độc đáo và được hình thành ngày càng rõ nét. Đây
là kết quả của sự thích ứng với cuộc sống, hoàn
cảnh và sự tương tác, giao lưu, tiếp biến văn hóa
với các dân tộc bản địa trên vùng đất Nam Bộ. Chữ
“Dù kê” do đọc trại từ “Dì kê” - tên một loại kịch
hát có ảnh hưởng từ kịch hát Chăm Bà La Môn, có
từ lâu đời của vương quốc Campuchia và đã được
người Khmer du nhập vào vùng biên giới Tri Tôn,
tỉnh An Giang.
Dù kê: Tên gọi tuy hết sức mộc mạc, dân dã
nhưng bản thân nó cũng phản ánh được phần nào
nguồn gốc khai sinh ra nó. Đặc biệt, từ “Dùh kê”,
đây là đặc điểm phát âm trong sinh hoạt đời thường
của người dân Khmer Nam Bộ, mỗi khi phát âm
đều không nghe rõ âm sắc giữa Dì và Dù, mà chỉ
nghe rõ nhất ở âm “D” ở đầu, còn âm “ì” và “ù”
dường như chỉ thoáng qua chung là âm “ùh” mà
thôi, nhất là khi nói nhanh nó chẳng khác gì là âm
câm,... Cũng không loại trừ khả năng do sự phiên
âm của tên gọi ở thời kỳ Pháp thuộc từ “Dì kê”
(Yikê) thành từ Dù kê (Yukê).
Qua nhiều nguồn tài liệu, trao đổi, phỏng vấn
các nghệ nhân, nghệ sĩ và trực tiếp xem nhiều buổi
biểu diễn, chúng tôi nhận thấy Dù kê là hình thức
sân khấu dân gian, loại hình nghệ thuật tổng hợp
của dân tộc Khmer và là sự tổng hoà các loại hình
nghệ thuật: văn học, múa, âm nhạc, có tính cải
tiến. Sân khấu Dù kê có sự giao lưu, tiếp biến với
các loại hình nghệ thuật khác, như: Rô-băm, hát
Tiều, Cải lương v.v quá trình giao lưu được biểu
hiện rõ nét nhất là trong phong cách biểu diễn, hoá
trang, phục trang, vũ đạo, võ thuật và các là làn
điệu bài ca, bản nhạc được sử dụng trong sân khấu
Dù kê cho đến ngày nay.
Ngày nay đã khẳng định nghệ thuật sân khấu
Dù kê là lối hát tuồng tương tự như sân khấu Cải
lương của người Kinh. Một loại hình nghệ thuật
sân khấu tổng hợp về ca, múa, nhạc, mà ở đó đạo
diễn, văn nghệ sĩ hay diễn viên biểu diễn dựa theo
tác phẩm kịch bản, để tạo ra những hình tượng
nghệ thuật trên sân khấu hay khán đài cho khán giả
xem. Đây là loại hình nghệ thuật rất được người
Khmer Nam Bộ nói chung và người Khmer tỉnh
Trà Vinh nói riêng yêu thích và là loại hình nghệ
thuật có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa
của người Khmer tỉnh Trà Vinh.
2.2. Sự hình thành và phát triển sân khấu Dù
kê Nam Bộ
Theo nhiều tài liệu đã phát hành, ngay từ
những năm đầu thập kỷ 20, 30 của thế kỷ XX, tại
hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh đã hình thành và
phát triển các gánh hát Dù kê trong dân gian với
các giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống độc
đáo và có kinh nghiệm sáng tạo trong dàn dựng
kịch bản.
Các nguồn tài liệu nghiên cứu về nghệ thuật
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ đều có quan điểm
cho rằng, nghệ thuật sân khấu Dù kê của người dân
tộc Khmer được ra đời bởi một nhóm văn nghệ sĩ,
trí thức người Khmer Nam Bộ rất có tâm huyết,
am hiểu nghệ thuật và thông thạo văn học, thơ ca
Khmer. Trong đó, có ông Thạch Xua/Suor (Thầy
Xua) ở xã Hiếu Tử, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh
và ông Lý Kọn (còn gọi là Chhà Kọn) là người
Khmer lai Triều Châu, ấp Sóc Vồ, xã An Ninh,
tỉnh Sóc Trăng đứng ra tập hợp các thanh niên yêu
thích văn nghệ, có năng khiếu về ca hát, biểu diễn
để tổ chức luyện tập, dàn dựng. Qua một thời gian
đưa ra biểu diễn và được đông đảo khán giả nhiệt
liệt cổ vũ, hưởng ứng, gánh hát Dù kê Nam Bộ
được hình thành và phát triển, chủ yếu ở hai tỉnh
Sóc Trăng và Trà Vinh.
Một số gánh hát sân khấu Dù kê Khmer Nam
Bộ tiêu biểu, như:
Tỉnh Sóc Trăng: khoảng từ năm 1919-1944,
gánh Dù kê Tự Lập Ban của Chà Kọn - Sóc Vồ,
xã An Ninh, huyện Mỹ Mỹ Tú; từ năm 1933-1943,
gánh Dù kê Tổ Lập Thành của Tà Thại; từ năm
1934-1945, gánh Dù kê Tổ Lập Thành của Chhà
Tỷ - Vũng Thơm; từ năm 1946-1972, gánh Dù kê
Tự lập Ban của Bà Lý Thị Sô Phi con ông Chhà
Kọn; từ năm 1949-1968, gánh Dù kê Ánh Sáng
của Tà Kươn, xã Đại Tâm, Mỹ Xuyên
Tỉnh Trà Vinh: năm 1926, gánh Dù kê Bà Bầu
- xã Nguyệt Hoá; năm 1929-1930, gánh Dù kê của
Xã Nhương - Tri Tân; năm 1930, gánh Dù kê của
Quản Sách - xã Lương Hòa; một số gánh Dù kê
của Tà Chuôl - xã Tập Ngãi; gánh Dù kê của Tà
Tưng, Tà Mục - xã Long Đức; gánh Dù kê Tự
Lập Thành của Tà Tia - xã Lưu Nghiệp Anh, Trà
Cú; sau đó nhập gánh với của Tà Yên - Càng Long
để lập gánh Võ Lập Thành; năm 1934, Quản Sách
giao gánh hát lại cho Thạch Hoa và đặt tên là Hoa
Long Thành, đoàn hát bằng tiếng Khmer lẫn tiếng
Việt; khoảng năm 1930-1937, gánh Dù kê Nhật
Nguyệt Quang của Sơn Kưu - Trà Cú; năm 1952-
1953, gánh Dù kê Nhật Nguyệt Thành của Thạch
Vông, Thạch Tu Quang; năm 1965-1975, gánh Dù
kê Nhật Nguyệt Quang Sơn Kưu giao cho ông
Cơ - xã Đại An quản lý...
Ngoài ra, hầu như ở khắp nơi của hai tỉnh Sóc
Trăng và Trà Vinh, người ta thấy xuất hiện các
gánh hát Dù kê liên tiếp được thành lập, không có
tên, không danh hiệu chính thức, thường là quy
mô nhỏ có tính tự phát chủ yếu để góp vui cho các
cuộc lễ hội của phum, sróc. Tuy nhiên, các gánh
hát Dù kê dân gian tự phát thường thiếu sự chặt
chẽ về tổ chức, quản lý; thiếu đội ngũ diễn viên,
nhạc công; thiếu vở diễn hoàn chỉnh; các trang bị
thiết bị, trang phục, đạo cụ thiếu đồng bộ nên chưa
nhận được sự ủng hộ cao của khán giả, sau một
thời gian đã tự tan rã.
Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
ra đời không chỉ ảnh hưởng ở trong phạm vi của
một tỉnh, khu vực Nam Bộ mà còn mở rộng phạm
vi đến đất nước Chùa Tháp anh em. Người dân
Campuchia yêu mến nghệ thuật sân khấu Dù kê
Khmer Nam Bộ và đặt tên rất gần gũi, thân quen,
đó là “Lakhôn Basắc”2 và tên gọi này vẫn tồn tại
đến ngày nay.
2 Lakhôn Bassac: “Bassac” là tên sông Bassac do người
Khmer Campuchia gọi, có tên gọi khác của người Kinh là
Hậu giang hay sông Hậu (Tự điển Bách khoa toàn thư - Sông
Cửu Long); “Lakhôn Bassac” được hiểu là “Sân khấu của
người ở xứ Basac / xứ sông Hậu”
Lakhôn Bassac: “Từ sau năm 1930, gánh hát Dù kê của ông
Chhà Kọn - Sóc Trăng đã tổ chức nhiều chuyến lưu diễn và đã
được đông đảo công chúng Campuchia yêu thích. Sự thành
công của gánh Chhà Kọn đã gây nên dư luận tốt, tạo tiếng vang
khắp cả đất nước Chùa Tháp. Vào đầu thập kỷ 30 thế kỷ XX
(1930-1931), nhân có cuộc tổ chức triển lãm trước Hoàng cung
ở Nông Phênh 03 ngày, 03 đêm mừng thọ của mình, nhà vua
Si Sô Wáth – Mô Ni Vông (lên ngôi từ năm 1927-1941) đã
cho quan cận thần mời gánh hát của ông Chhà Kọn vào Hoàng
cung biểu diễn cho nhà vua và hoàng tộc xem. Khi kết thúc
buổi biểu diễn, Nhà vua hết lòng khen ngợi và thán phục tài
thông minh sáng tạo của người Khmer Nam Bộ, nên hạ chỉ cho
mời ông bầu gánh Dù kê Nam Bộ đến nhập triều để yết kiến
nhà vua. Qua thăm hỏi gia đình, nguồn gốc của gánh hát Dù
kê, khi biết rằng gánh hát Dù kê này là của những người ở Sróc
Khlêng, nghe xong nhà vua nói: “À, gánh hát này thật ra của
người ở xứ sở Bassac, vậy thì nên gọi gánh hát của các người
là “Krom Lakhôn Bassac” (gánh hát Bassac/ Basắc) để người
dân ở Campuchia ai cũng đều biết Lakhôn Bassac là sân khấu
Dù kê của người dân xứ Basắc”. Cũng từ sự kiện đó, sân khấu
Dù kê Khmer Nam Bộ ở Campuchia chính thức có thêm tên
mới là “Lakhôn Bassac” và tên gọi này tồn tại cho đến ngày
nay đối với người dân Campuchia”. * [Sơn Lương (chủ biên)
2012,“Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 1920-2000”, trang 113].
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ -
1962 , Tỉnh uỷ Trà Vinh chủ trương thành lập đoàn
văn công Khmer nhằm phục vụ kháng chiến được
toàn diện và sâu rộng hơn; giao cho ông Thạch
Voi – Phó Trưởng ban Tuyên giáo tỉnh Trà Vinh
tập hợp tác giả Kim Sơn, họa sĩ Phong Ba, đạo
diễn Năm Tri đến huyện Cầu Kè - nơi có sẵn đội
văn nghệ Khmer truyền thống. Sau một thời gian
chuẩn bị, ngày 14/4/1963, Đoàn Văn công Khmer
tỉnh Trà Vinh chính thức được thành lập tại ấp Cây
Xanh, xã Tam Ngãi, xã Châu Điền, huyện Cầu
Kè, tỉnh Trà Vinh – tiền thân của Đoàn Nghệ thuật
Khmer Ánh Bình Minh tỉnh Trà Vinh ngày nay.
Sau năm 1975, Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh
Bình Minh Trà Vinh trưởng thành, phát triển để
hoà nhịp và gắn liền với những thành tựu chung
của đất nước. Đoàn còn là cái nôi đào tạo, diễn
viên, nhạc công sân khấu Dù kê, không chỉ cho
Đoàn mà còn cung cấp cho các đoàn, đội văn nghệ
Khmer trong và ngoài tỉnh, hỗ trợ thành lập Đoàn
Nghệ thuật Khmer tỉnh Kiên Giang, Minh Hải;
thường xuyên biểu diễn trích đoạn sân khấu Dù kê
phục vụ khách trong, ngoài nước và được cử sang
phục vụ nước bạn Campuchia. Cho đến hôm nay,
Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh tỉnh Trà
Vinh là một trong những đoàn nghệ thuật Khmer
Nam Bộ biểu diễn Dù kê vừa giữ được nét nghệ
thuật truyền thống, vừa có sự tiếp nhận văn hóa
hiện đại, được khán giả Trà Vinh cũng như các
khán giả tỉnh Nam Bộ yêu thích, mến mộ.
Đến năm 1985, Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh
Bình Minh tỉnh Trà Vinh lần đầu tiên tham dự Hội
diễn Sân khấu Chuyên nghiệp toàn quốc lần III tại
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Nghĩa Bình (nay là tỉnh
Bình Định), từ ngày 1/7-15/7/1985 do Bộ Văn hóa
- Thông tin và Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tổ
chức. Đoàn đã đạt 4 huy chương Vàng (có 01 huy
chương vàng về kịch bản), 7 huy chương Bạc. Từ
những thành công đó, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay
là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận
“Loại hình Dù kê là một trong những loại hình
nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp ở Việt Nam”.
Nhìn chung, xuất phát điểm từ hình thức đội
văn nghệ Khmer truyền thống dân gian, trưởng
thành đoàn hát Dù kê chuyên nghiệp và hiện nay
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014142 Soá 13, thaùng 3/2014 143
là Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh là một
chặng đường phát triển liên tục đầy sáng tạo của
nhiều thế hệ nghệ sĩ dân tộc Khmer. Đây là kết quả
của sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc
Khmer, Kinh, Hoa đã cùng cộng cư, chan hòa trên
vùng đất Nam Bộ. Cho đến nay, nghệ thuật sân
khấu Dù kê đã trở thành món ăn tinh thần không
thể thiếu của người Khmer Nam Bộ.
2.3. Thực trạng sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
Khu vực Nam Bộ có tất cả 11 Nghệ sĩ Ưu
tú Khmer (NSUT). Trong những năm qua, Đoàn
Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh tỉnh Trà Vinh
có 5/6 NSƯT, Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc
Trăng có 3/4 NSƯT và Đoàn Nghệ thuật Khmer
Kiên Giang có một NSƯT luôn đóng vai trò nòng
cốt giữ gìn và phát huy nghệ thuật sân khấu Dù kê.
Tuy nhiên, do việc đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc
công cho sân khấu Dù kê để bổ sung cho các đoàn
chủ yếu là truyền nghề, hướng dẫn kinh nghiệm
bằng phương pháp “truyền miệng” là chính, trong
khi các nghệ nhân, nghệ sĩ Khmer này ngày càng
lớn tuổi, một số đã mất, nên việc bổ sung đội ngũ
diễn viên trẻ, tài năng là rất khan hiếm.
Qua khảo sát, điền dã thực tế, trao đổi với các
lãnh đạo ngành Văn hoá, Thể thao & Du lịch một
số địa phương; phỏng vấn một số lãnh đạo đoàn,
nghệ sĩ, nghệ nhân, diễn viên sân khấu Dù kê;
tham khảo các bài báo, bài viết về sân khấu Dù kê,
chúng tôi nhận thấy hiện nay loại hình sân khấu
Dù kê Khmer Nam Bộ rất có nguy cơ bị mai một,
do các yếu tố sau:
Một số đoàn chuyên nghiệp chất lượng nghệ
thuật từng lúc chưa đáp ứng nhu cầu thưởng thức
nghệ thuật ngày càng cao của khán giả. Thiếu vở
diễn Dù kê mới chất lượng, nhất là thiếu kịch bản
đề tài đương đại để dàn dựng nhằm thu hút khán
giả. Thiếu đội ngũ diễn viên, nhạc công trẻ, tài năng
đáp ứng thị hiếu người xem. Thiếu đội ngũ soạn
giả, đạo diễn có trình độ và am hiểu về sân khấu
Dù kê để phát hiện tìm những yếu tố mới trong
biên soạn kịch bản và đột phá trong khâu dàn dựng
vở diễn Dù kê phù hợp với xã hội đương đại. Thiếu
sự quảng bá các kịch bản Dù kê cho các đoàn Dù
kê nghiệp dư để duy trì phong trào và tạo nguồn
cho các đoàn chuyên nghiệp. Một số địa phương
có phong trào văn hoá - văn nghệ Khmer phát triển
và một số địa phương khác có các nghệ nhân sân
khấu Dù kê lão thành rất muốn khôi phục câu lạc
bộ, đội, nhóm hát sân khấu Dù kê để biểu diễn tại
địa phương trong các dịp lễ hội Khmer trong năm,
nhưng chưa có nơi đào tạo để bổ sung nhạc công,
diễn viên sân khấu Dù kê phù hợp với thời gian
học tập của học viên; hoặc có gia đình nghệ nhân
khi phát hiện có con, cháu còn nhỏ tuổi rất có năng
khiếu về biểu diễn sân khấu Dù kê, nhưng chưa
có nơi nào đào tạo chuyên nghiệp dài hạn để sau
này các con, cháu có thể theo nghề lâu dài. Thời
gian vừa qua, khu vực Nam Bộ chưa có nơi nào
tổ chức tuyển sinh đào tạo các chuyên ngành diễn
viên, nhạc công sân khấu Dù kê do thiếu đội ngũ
giáo viên, giảng viên cơ hữu và đạt chuẩn. Đến
cuối năm 2012, Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ
thuật tỉnh Trà Vinh phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh Trà Vinh tổ chức thực hiện Đề án
đào tạo, bổ sung đội ngũ diễn viên cho Đoàn Nghệ
thuật Khmer Ánh Bình Minh Trà Vinh, đây là đơn
vị đầu tiên khu vực Nam Bộ đăng ký Sở Giáo dục
& Đào tạo tỉnh Trà Vinh mở mã ngành mới và
tổ chức tuyển sinh lớp trung cấp chuyên nghiệp,
ngành “Nghệ thuật biểu diễn kịch múa (Ca kịch
Dù kê)”, hệ chính quy, khóa học 2012-2015, đối
tượng tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp trung học
cơ sở trong địa bàn tỉnh Trà Vinh, đã trúng tuyển
26 học sinh. Tuy nhiên, chỉ tuyển các thí sinh trong
địa bàn tỉnh Trà Vinh thì chưa thể đáp ứng nhu
cầu học tập và bổ sung đội ngũ diễn viên trẻ sân
khấu cho các đoàn nghệ thuật Khmer trong khu
vực Nam Bộ. Thiếu sự giới thiệu, quảng bá loại
hình văn hoá - nghệ thuật Khmer và sân khấu Dù
kê trong các tour du lịch khách đến tham quan và
có nghỉ đêm tại tỉnh Trà Vinh.
Mặc khác, hiện nay, có một số nghệ nhân
Khmer tài năng xuất sắc, lưu giữ nhiều bài ca
Bassac cổ xưa, có công phổ biến, truyền dạy nghề
cho thế hệ trẻ, được đồng nghiệp và quần chúng
kính trọng, đủ tiêu chuẩn phong tặng “Nghệ nhân
ưu tú”, nhưng chưa được Nhà nước ghi nhận.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển,
phương tiện tuyên truyền hiện đại, sự du nhập ồ ạt
những băng, đĩa hình và sản phẩm phi văn hóa từ
bên ngoài, phần nào đó đã làm phai mờ và lệch lạc
đi nghệ thuật truyền thống tốt đẹp của dân tộc vốn
có từ lâu đời. Một điều rất cần quan tâm là qua trao
đổi, phỏng vấn một bộ phận thanh niên dân tộc
Khmer, có nhiều thanh niên không biết về nguồn
gốc, xuất xứ nghệ thuật sân khấu Dù kê, thậm chí
các thanh niên này cho rằng không quan tâm đến
sân khấu Dù kê, mà chỉ quan tâm đến các loại hình
âm nhạc hiện đại.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Việc bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ, vừa mang tính
truyền thống, đạo lý, văn hoá vừa mang tính đoàn
kết của các dân tộc (Kinh, Khmer, Hoa) đã cùng
nhau chung sức phát triển nên loại hình sân khấu
độc đáo này là việc làm hết sức cần thiết, đòi hỏi
sự quan tâm của các cấp và cộng đồng.
Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến nghệ thuật sân
khấu Dù kê Khmer Nam Bộ rộng rãi, bằng nhiều
hình thức trong cộng đồng dân cư, nhất là giới trẻ
Khmer sẽ giúp cho thế hệ trẻ hiểu được việc bảo
tồn và phát huy vốn văn hoá độc đáo của dân tộc
mình là điều cần thiết.
Đào tạo chuyên ngành “Nghệ thuật biểu diễn
kịch múa (Ca kịch Dù kê)” cần được nâng cấp lên
bậc cao đẳng, đại học, để chính những học sinh,
sinh viên này là những người được đào tạo một
cách chuyên nghiệp; cũng là người giữ gìn, truyền
đạt những kiến thức, văn hoá cội nguồn của dân tộc
và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc Khmer
một cách tốt nhất. Đây sẽ là lực lượng diễn viên,
nhạc công trẻ cung cấp cho các đoàn nghệ thuật
Khmer từ tỉnh đến cơ sở trong khu vực Nam Bộ và
sẽ là nguồn đào tạo đội ngũ giảng viên, soạn giả,
đạo diễn sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trong
tương lai.
3.2. Kiến nghị
Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển sân
khấu Dù kê Nam Bộ một cách bền vững, như sau:
Định kỳ mở lớp bồi dưỡng ngắn hạn đào tạo
diễn viên sân khấu Dù kê và nhạc cụ dân tộc Khmer
nhằm tạo phong trào trong công chúng Khmer và
tạo nguồn đào tạo các lớp sân khấu Dù kê hệ chính
quy, dài hạn.
Mở mới ngành đào tạo bậc Trung cấp Chuyên
nghiệp “Diễn viên sân khấu kịch hát- ca kich Dù
kê ” - hệ Chính quy, thời gian đào tạo 3 năm, đối
tượng tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp trung học
cơ sở.
Mở mới mã ngành đào tạo bậc cao đẳng, đại
học chuyên ngành “Diễn viên sân khấu Khmer
Nam Bộ” hoặc “Diễn viên sân khấu kịch hát – ca
kịch/sân khấu Dù kê” - hệ chính quy, đối tượng
tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp Trung cấp Chuyên
nghiệp ngành “Diễn viên sân khấu kịch hát - ca
kịch Dù kê ”.
Mở rộng quy mô và đối tượng tuyển sinh khu
vực Nam Bộ và có chính sách, đãi ngộ đối với
học sinh, sinh viên học chuyên ngành Nghệ thuật
Khmer Nam Bộ;
Đào tạo hoặc liên kết đào tạo cán bộ trình độ
đại học các ngành: Biên kịch sân khấu, sáng tác
âm nhạc, đạo diễn sân khấu, biên đạo múa, đối
tượng tuyển chọn là học sinh tốt nghiệp các lớp
Trung cấp Chuyên nghiệp khối ngành nghệ thuật
Khmer Nam Bộ;
Định kỳ mở trại sáng tác kịch bản hoặc tổ chức
thi sáng tác kịch bản sân khấu Dù kê Khmer Nam
Bộ, khuyến khích các đề tài xã hội đương đại để
cung cấp kịch bản sân khấu Dù kê mới, đảm bảo
chất lượng và sẽ phong phú đề tài cho các Đoàn
Dù kê chuyên và không chuyên nghiệp lựa chọn,
sao cho đề tài kịch bản phù hợp với tình hình địa
phương mình;
Định kỳ tổ chức liên hoan, hội thi, hội diễn
sân khấu Dù kê cấp tỉnh và cấp toàn quốc, để
các nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công, kỹ thuật viên
các đoàn có dịp giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau;
Định hướng xây dựng “Nhà hát nghệ thuật sân
khấu Khmer Nam Bộ” trong tương lai, đây sẽ là nơi
tập hợp các nghệ nhân, nghệ sĩ ưu tú, các chuyên
gia am hiểu lĩnh vực nghệ thuật sân khấu Khmer
Nam Bộ; khai thác và học tập vốn cổ trong nghệ
thuật ca Bassac; tổ chức nghiên cứu học thuật lĩnh
vực sân khấu Dù kê và biểu diễn đúng phong cách
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ chính
thống. Trên cơ sở đó, “Nhà hát nghệ thuật sân khấu
Khmer Nam Bộ” sẽ là nơi phục hồi, chỉnh lí, cải
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014142 Soá 13, thaùng 3/2014 143
là Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh là một
chặng đường phát triển liên tục đầy sáng tạo của
nhiều thế hệ nghệ sĩ dân tộc Khmer. Đây là kết quả
của sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc
Khmer, Kinh, Hoa đã cùng cộng cư, chan hòa trên
vùng đất Nam Bộ. Cho đến nay, nghệ thuật sân
khấu Dù kê đã trở thành món ăn tinh thần không
thể thiếu của người Khmer Nam Bộ.
2.3. Thực trạng sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
Khu vực Nam Bộ có tất cả 11 Nghệ sĩ Ưu
tú Khmer (NSUT). Trong những năm qua, Đoàn
Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh tỉnh Trà Vinh
có 5/6 NSƯT, Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc
Trăng có 3/4 NSƯT và Đoàn Nghệ thuật Khmer
Kiên Giang có một NSƯT luôn đóng vai trò nòng
cốt giữ gìn và phát huy nghệ thuật sân khấu Dù kê.
Tuy nhiên, do việc đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc
công cho sân khấu Dù kê để bổ sung cho các đoàn
chủ yếu là truyền nghề, hướng dẫn kinh nghiệm
bằng phương pháp “truyền miệng” là chính, trong
khi các nghệ nhân, nghệ sĩ Khmer này ngày càng
lớn tuổi, một số đã mất, nên việc bổ sung đội ngũ
diễn viên trẻ, tài năng là rất khan hiếm.
Qua khảo sát, điền dã thực tế, trao đổi với các
lãnh đạo ngành Văn hoá, Thể thao & Du lịch một
số địa phương; phỏng vấn một số lãnh đạo đoàn,
nghệ sĩ, nghệ nhân, diễn viên sân khấu Dù kê;
tham khảo các bài báo, bài viết về sân khấu Dù kê,
chúng tôi nhận thấy hiện nay loại hình sân khấu
Dù kê Khmer Nam Bộ rất có nguy cơ bị mai một,
do các yếu tố sau:
Một số đoàn chuyên nghiệp chất lượng nghệ
thuật từng lúc chưa đáp ứng nhu cầu thưởng thức
nghệ thuật ngày càng cao của khán giả. Thiếu vở
diễn Dù kê mới chất lượng, nhất là thiếu kịch bản
đề tài đương đại để dàn dựng nhằm thu hút khán
giả. Thiếu đội ngũ diễn viên, nhạc công trẻ, tài năng
đáp ứng thị hiếu người xem. Thiếu đội ngũ soạn
giả, đạo diễn có trình độ và am hiểu về sân khấu
Dù kê để phát hiện tìm những yếu tố mới trong
biên soạn kịch bản và đột phá trong khâu dàn dựng
vở diễn Dù kê phù hợp với xã hội đương đại. Thiếu
sự quảng bá các kịch bản Dù kê cho các đoàn Dù
kê nghiệp dư để duy trì phong trào và tạo nguồn
cho các đoàn chuyên nghiệp. Một số địa phương
có phong trào văn hoá - văn nghệ Khmer phát triển
và một số địa phương khác có các nghệ nhân sân
khấu Dù kê lão thành rất muốn khôi phục câu lạc
bộ, đội, nhóm hát sân khấu Dù kê để biểu diễn tại
địa phương trong các dịp lễ hội Khmer trong năm,
nhưng chưa có nơi đào tạo để bổ sung nhạc công,
diễn viên sân khấu Dù kê phù hợp với thời gian
học tập của học viên; hoặc có gia đình nghệ nhân
khi phát hiện có con, cháu còn nhỏ tuổi rất có năng
khiếu về biểu diễn sân khấu Dù kê, nhưng chưa
có nơi nào đào tạo chuyên nghiệp dài hạn để sau
này các con, cháu có thể theo nghề lâu dài. Thời
gian vừa qua, khu vực Nam Bộ chưa có nơi nào
tổ chức tuyển sinh đào tạo các chuyên ngành diễn
viên, nhạc công sân khấu Dù kê do thiếu đội ngũ
giáo viên, giảng viên cơ hữu và đạt chuẩn. Đến
cuối năm 2012, Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ
thuật tỉnh Trà Vinh phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh Trà Vinh tổ chức thực hiện Đề án
đào tạo, bổ sung đội ngũ diễn viên cho Đoàn Nghệ
thuật Khmer Ánh Bình Minh Trà Vinh, đây là đơn
vị đầu tiên khu vực Nam Bộ đăng ký Sở Giáo dục
& Đào tạo tỉnh Trà Vinh mở mã ngành mới và
tổ chức tuyển sinh lớp trung cấp chuyên nghiệp,
ngành “Nghệ thuật biểu diễn kịch múa (Ca kịch
Dù kê)”, hệ chính quy, khóa học 2012-2015, đối
tượng tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp trung học
cơ sở trong địa bàn tỉnh Trà Vinh, đã trúng tuyển
26 học sinh. Tuy nhiên, chỉ tuyển các thí sinh trong
địa bàn tỉnh Trà Vinh thì chưa thể đáp ứng nhu
cầu học tập và bổ sung đội ngũ diễn viên trẻ sân
khấu cho các đoàn nghệ thuật Khmer trong khu
vực Nam Bộ. Thiếu sự giới thiệu, quảng bá loại
hình văn hoá - nghệ thuật Khmer và sân khấu Dù
kê trong các tour du lịch khách đến tham quan và
có nghỉ đêm tại tỉnh Trà Vinh.
Mặc khác, hiện nay, có một số nghệ nhân
Khmer tài năng xuất sắc, lưu giữ nhiều bài ca
Bassac cổ xưa, có công phổ biến, truyền dạy nghề
cho thế hệ trẻ, được đồng nghiệp và quần chúng
kính trọng, đủ tiêu chuẩn phong tặng “Nghệ nhân
ưu tú”, nhưng chưa được Nhà nước ghi nhận.
Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển,
phương tiện tuyên truyền hiện đại, sự du nhập ồ ạt
những băng, đĩa hình và sản phẩm phi văn hóa từ
bên ngoài, phần nào đó đã làm phai mờ và lệch lạc
đi nghệ thuật truyền thống tốt đẹp của dân tộc vốn
có từ lâu đời. Một điều rất cần quan tâm là qua trao
đổi, phỏng vấn một bộ phận thanh niên dân tộc
Khmer, có nhiều thanh niên không biết về nguồn
gốc, xuất xứ nghệ thuật sân khấu Dù kê, thậm chí
các thanh niên này cho rằng không quan tâm đến
sân khấu Dù kê, mà chỉ quan tâm đến các loại hình
âm nhạc hiện đại.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Việc bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ, vừa mang tính
truyền thống, đạo lý, văn hoá vừa mang tính đoàn
kết của các dân tộc (Kinh, Khmer, Hoa) đã cùng
nhau chung sức phát triển nên loại hình sân khấu
độc đáo này là việc làm hết sức cần thiết, đòi hỏi
sự quan tâm của các cấp và cộng đồng.
Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến nghệ thuật sân
khấu Dù kê Khmer Nam Bộ rộng rãi, bằng nhiều
hình thức trong cộng đồng dân cư, nhất là giới trẻ
Khmer sẽ giúp cho thế hệ trẻ hiểu được việc bảo
tồn và phát huy vốn văn hoá độc đáo của dân tộc
mình là điều cần thiết.
Đào tạo chuyên ngành “Nghệ thuật biểu diễn
kịch múa (Ca kịch Dù kê)” cần được nâng cấp lên
bậc cao đẳng, đại học, để chính những học sinh,
sinh viên này là những người được đào tạo một
cách chuyên nghiệp; cũng là người giữ gìn, truyền
đạt những kiến thức, văn hoá cội nguồn của dân tộc
và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc Khmer
một cách tốt nhất. Đây sẽ là lực lượng diễn viên,
nhạc công trẻ cung cấp cho các đoàn nghệ thuật
Khmer từ tỉnh đến cơ sở trong khu vực Nam Bộ và
sẽ là nguồn đào tạo đội ngũ giảng viên, soạn giả,
đạo diễn sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trong
tương lai.
3.2. Kiến nghị
Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển sân
khấu Dù kê Nam Bộ một cách bền vững, như sau:
Định kỳ mở lớp bồi dưỡng ngắn hạn đào tạo
diễn viên sân khấu Dù kê và nhạc cụ dân tộc Khmer
nhằm tạo phong trào trong công chúng Khmer và
tạo nguồn đào tạo các lớp sân khấu Dù kê hệ chính
quy, dài hạn.
Mở mới ngành đào tạo bậc Trung cấp Chuyên
nghiệp “Diễn viên sân khấu kịch hát- ca kich Dù
kê ” - hệ Chính quy, thời gian đào tạo 3 năm, đối
tượng tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp trung học
cơ sở.
Mở mới mã ngành đào tạo bậc cao đẳng, đại
học chuyên ngành “Diễn viên sân khấu Khmer
Nam Bộ” hoặc “Diễn viên sân khấu kịch hát – ca
kịch/sân khấu Dù kê” - hệ chính quy, đối tượng
tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp Trung cấp Chuyên
nghiệp ngành “Diễn viên sân khấu kịch hát - ca
kịch Dù kê ”.
Mở rộng quy mô và đối tượng tuyển sinh khu
vực Nam Bộ và có chính sách, đãi ngộ đối với
học sinh, sinh viên học chuyên ngành Nghệ thuật
Khmer Nam Bộ;
Đào tạo hoặc liên kết đào tạo cán bộ trình độ
đại học các ngành: Biên kịch sân khấu, sáng tác
âm nhạc, đạo diễn sân khấu, biên đạo múa, đối
tượng tuyển chọn là học sinh tốt nghiệp các lớp
Trung cấp Chuyên nghiệp khối ngành nghệ thuật
Khmer Nam Bộ;
Định kỳ mở trại sáng tác kịch bản hoặc tổ chức
thi sáng tác kịch bản sân khấu Dù kê Khmer Nam
Bộ, khuyến khích các đề tài xã hội đương đại để
cung cấp kịch bản sân khấu Dù kê mới, đảm bảo
chất lượng và sẽ phong phú đề tài cho các Đoàn
Dù kê chuyên và không chuyên nghiệp lựa chọn,
sao cho đề tài kịch bản phù hợp với tình hình địa
phương mình;
Định kỳ tổ chức liên hoan, hội thi, hội diễn
sân khấu Dù kê cấp tỉnh và cấp toàn quốc, để
các nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công, kỹ thuật viên
các đoàn có dịp giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau;
Định hướng xây dựng “Nhà hát nghệ thuật sân
khấu Khmer Nam Bộ” trong tương lai, đây sẽ là nơi
tập hợp các nghệ nhân, nghệ sĩ ưu tú, các chuyên
gia am hiểu lĩnh vực nghệ thuật sân khấu Khmer
Nam Bộ; khai thác và học tập vốn cổ trong nghệ
thuật ca Bassac; tổ chức nghiên cứu học thuật lĩnh
vực sân khấu Dù kê và biểu diễn đúng phong cách
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ chính
thống. Trên cơ sở đó, “Nhà hát nghệ thuật sân khấu
Khmer Nam Bộ” sẽ là nơi phục hồi, chỉnh lí, cải
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014144 Soá 13, thaùng 3/2014 145
biên những vở diễn Dù kê truyền thống, tiêu biểu
và cũng là nơi phát hiện các hạt nhân nghệ thuật và
tạo nguồn đào tạo các lớp nghệ thuật sân khấu Dù
kê - hệ chính quy.
Tổ chức nghiên cứu khoa học, sưu tầm các bài
ca Bassac, các kịch bản sân khấu Dù kê Khmer
Nam Bộ, đặc biệt là biên soạn sách song ngữ
Khmer - Việt, Khmer – Anh về nghệ thuật sân
khấu Dù kê Khmer Nam Bộ để thuận tiện giới
thiệu và quảng bá rộng rãi loại hình nghệ thuật này
đến công chúng trong và ngoài nước.
Mạnh dạn bổ sung vào chương trình tour du
lịch khách đến tham quan có nghỉ đêm tại tỉnh Trà
Vinh chương trình biểu diễn ca, múa, nhạc Khmer
và trích đoạn sân khấu Dù kê, nhằm giới thiệu,
quảng bá loại hình sân khấu Dù kê Khmer Nam
Bộ với bạn bè trong nước và quốc tế. Đây cũng sẽ
là đầu ra của học sinh, sinh viên các lớp đào tạo hệ
chính quy ngành Diễn viên Sân khấu Khmer Nam
Bộ trong tương lai.
Đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu
“Nghệ nhân ưu tú” cho các nghệ nhân sân khấu Dù
kê Khmer Nam Bộ đủ tiêu chuẩn theo quy định.
Tài liệu tham khảo
Đặng Vũ Thị Thảo. 1988. Sân khấu truyền thống của người Khmer ĐBSCL. NXB Tổng hợp
Hậu Giang.
Định Văn Linh. 1988. Văn hoá Khmer trong quá trình giao lưu và phát triển ở ĐBSCL. NXB Tổng
hợp Hậu Giang.
Hoàng Túc. 1988. Tìm hiểu vốn văn hoá dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang.
Kim Thịnh. 2003. Báo cáo Tổng kết kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh
Bình Minh Trà Vinh (14/4/1963-14/4/2003).
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII (1998) về “ Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Phan An. 2009. Dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
Phạm Thị Phương Hạnh. 2011. Văn hoá Khmer Nam Bộ - Nét đẹp trong bản sắc văn hoá Việt Nam.
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Hà Nội.
Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng
giai đoạn 1920-2000. Hội Văn học Nghệ thuật Sóc Trăng.
Trần Văn Bổn. 2012. Sân khấu dân gian. NXB Văn hoá Dân tộc.
Trường Lưu (chủ biên). 1993. Văn hoá người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hoá
Dân tộc - Nghệ thuật.
KHAI THÁC DI SẢN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ
TRONG PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH TRÀ VINH
Ngô Hoàng Đại Long1
Nguyễn Văn Cần2
TÓM TẮT
Sản phẩm văn hóa là sản phẩm của lịch sử và luôn mang dấu ấn của thời đại. Hiện nay, nhiều sản
phẩm văn hóa mới ra đời phục vụ cuộc sống và phát triển hoạt động du lịch. Hoạt động du lịch sẽ tạo
nên các sản phẩm du lịch. Việc tạo nên các sản phẩm du lịch từ văn hóa chính là thành quả của “văn
hóa du lịch và nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer chính là bản sắc vùng đất Trà Vinh”. Bài viết dưới đây
sẽ làm rõ nội dung này.
Từ khoá: sản phẩm du lịch, Dù kê, sản phẩm văn hoá, văn hoá du lịch, Trà Vinh
ABSTRACT
Culture closely connects to history and bears contemporary stamp. Nowadays, many cultural
products are for serving spiritual life and tourism development. Tourism will bring about its product.
The tourism product made from culture is the result of tourism culture and Khmer Du ke theatre is a
character of Tra Vinh. This article will analyze clearly this content.
Keywords: tourism product, Du ke, cultural products, tourism culture, Tra Vinh
1 Trung tâm Nghiên cứu Biển & Đảo, ĐH KHXH&NV TP. HCM
2 Khoa Du lịch & Việt Nam học, ĐH Nguyễn Tất Thành
1. DẪN NHẬP
Trà Vinh là tỉnh duyên hải Đồng bằng sông
Cửu Long, diện tích 2.288.09 km2 với dân số là
1.012.648 người (theo Cục Thống kê tỉnh Trà Vinh
năm 2011), bao gồm một thành phố trực thuộc tỉnh
và bảy huyện, phía Đông giáp Biển Đông, phía
Tây giáp Vĩnh Long, phía Nam giáp Sóc Trăng,
phía Bắc giáp tỉnh Bến Tre, có 65 km bờ biển. Trà
Vinh cách thành phố Hồ Chí Minh 200 km đi bằng
quốc lộ 53, khoảng cách chỉ còn 130 km nếu đi
bằng quốc lộ 60, cách thành phố Cần Thơ 95 km.
Tỉnh Trà Vinh là vùng địa lý cộng cư của ba dân
tộc chính là Kinh, Khmer, Hoa và một số ít các dân
tộc khác. Trong đó, người Kinh có tỷ lệ cao nhất
trong cơ cấu dân số của tỉnh với 684.119 người
chiếm 67,5% dân số của tỉnh. Đồng bào Khmer ở
Trà Vinh có 320.292 người (chiếm 31,63%), đông
thứ hai cả nước sau tỉnh Sóc Trăng
Đây là một vùng văn hóa với những đặc trưng
độc đáo và khác biệt so với các tiểu vùng văn hóa
khác trong vùng văn hóa Tây Nam Bộ. Vì khi
nhắc vùng đất Trà Vinh, người ta nghĩ ngay đến
những ngôi chùa Khmer độc đáo đậm chất huyền
bí, bên cạnh đó là những lễ hội truyền thống: Chol
Chnam Thmay, Ok Om Bok, Dolta và ẩm thực
đa sắc màu như: chính sự cộng cư của ba dân tộc
Kinh – Hoa – Khmer đã tạo nên vùng đất Trà Vinh
rất phong phú và đặc trưng. Nhưng có lẽ, điều đặc
biệt vẫn sinh tồn và phát triển một cách bền bỉ với
thời gian và không gian của người Khmer nơi đây,
đó chính là: nghệ thuật sân khấu Dù kê, múa Lâm
Thol, vũ điệu Apsara với dàn nhạc ngũ âm của họ.
Đặc biệt, Dù kê - nghệ thuật sân khấu độc đáo của
đồng bào dân tộc Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu
Long nói chung và vùng đất Trà vinh nói riêng.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế như hiện nay thì vấn đề bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa dân tộc, cũng như các giá trị
văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer là một
yêu cầu cấp thiết. Đồng thời, đây cũng là thời điểm
cần phát huy hơn nữa những giá trị văn hóa ra bên
ngoài, quảng bá hơn nữa tính sự đa dạng, độc đáo
và bản sắc văn hóa của Trà Vinh nói riêng và Việt
Nam nói chung ra ngoài phạm vi vùng, khu vực
và thế giới.
Hoạt động du lịch và xây dựng các sản phẩm
du lịch đặc trưng, độc đáo của vùng chính là kênh
văn hóa quan trọng để chuyển tải những nét độc
đáo ra bên ngoài, đồng thời thông qua du lịch sẽ
góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- san_khau_du_ke_khmer_nam_bo_bao_ton_va_phat_trien.pdf