This paper presents the results of comparisons the foF2 and TEC observed over Ho Chi Minh City with the values
calculated according to the International Reference Ionosphere IRI-2007 in order to evaluate the applicability of the
model in forecasting for the equatorial region of Vietnam. The results show a quite consistent of the critical frequency
foF2 and total electron content TEC in some periods. IRI foF2 values fit well with the observed data for the years before
2007. The standard deviation in these years is about 15%. Only at few of maximum and minimum, the deviations are
about 20%. In the years with low solar activities, the IRI foF2 are almost higher than the observed foF2 data. The IRI
foF2 values for the first half of 24th solar cycle are bigger than observed foF2, especially during evening. For this period,
the adjustment of IRI foF2 must reduce in the range of 25 to 30%. The comparison of the total electron content TEC
shows that the phenomenon of decline in the TEC at noon observed over Ho Chi Minh City is highly weak. This
phenomenon appeared only in the summer, when the ionization is high. In Solar minimum period, the average minimum
TEC observed over Ho Chi Minh City is about 5 tecu, while the IRI TEC value is smaller than 2. Thus, in the period from
0 to 7 pm local time, the IRI TEC value should be calibrated.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 547 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh các thông số điện ly quan trắc tại tp. Hồ Chí Minh với mô hình IRI-2007, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
258
35(3), 258-264 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 9-2013
SO SÁNH CÁC THÔNG SỐ ĐIỆN LY QUAN TRẮC
TẠI TP. HỒ CHÍ MINH VỚI MÔ HÌNH IRI-2007
ĐÀO NGỌC HẠNH TÂM, HOÀNG THÁI LAN, DƯƠNG VĂN VINH
E-mail: hanhtamdao@gmail.com
Viện Vật Lý Tp. HCM, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 30 - 12 - 2012
1. Mở đầu
Mô hình IRI (International Reference
Ionosphere) được khởi xướng bởi Ủy ban Nghiên
cứu Vũ trụ COSPAR (Committee on Space
Research) và Hiệp hội Khoa học Vô tuyến Quốc tế
URSI (International Union of Radio Science) vào
cuối những năm 1960 với mục tiêu thiết lập một
tiêu chuẩn quốc tế cho các thông số cơ bản của
tầng điện ly dựa trên những số liệu đã được quan
trắc tại mặt đất ở nhiều nơi trên thế giới và các số
liệu quan sát bằng vệ tinh. COSPAR và URSI đặc
biệt yêu cầu về một mô hình thực nghiệm để giải
quyết những vấn đề còn chưa được hiếu biết một
cách chắc chắn trong quá trình phát triển lý thuyết
về tầng điện ly và những cơ chế kết nối giữa các
tầng khí quyển. Mối quan tâm chính của COSPAR
là bức tranh mô tả chung về tầng điện ly như là
một phần của môi trường không gian để đánh giá
tác động môi trường lên các con tàu vũ trụ và các
thí nghiệm trong không gian. Mối quan tâm chính
của URSI là nồng độ điện tử của tầng Điện ly để
xác định trạng thái điện ly phục vụ cho truyền sóng
vô tuyến và các ứng dụng khác. Để hoàn thành các
mục tiêu này, một nhóm làm việc chung đã được
thành lập vào năm 1969 với nhiệm vụ phát triển
một mô hình thực nghiệm về tầng điện ly. Trong
những năm qua, thành viên của nhóm nghiên cứu
này đã tăng đến gần 60 chuyên gia, gồm những nhà
khoa học có kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới.
Giải quyết những mâu thuẫn giữa các kết quả
từ những kỹ thuật đo đạc khác nhau và điều chỉnh
để có được độ tin cậy của các nguồn dữ liệu là
nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của đề án. Mô hình
IRI đã được nâng cấp liên tục bởi các dữ liệu quan
trắc và các phương pháp tiếp cận mô hình mới [3-
6, 14, 15], phát triển từ một tập hợp các điều kiện
điển hình thành một mô hình toàn cầu cho tất cả
các giai đoạn của một chu kỳ Mặt Trời. Mỗi năm
IRI đều có hội thảo để phối hợp cải tiến và phát
triển mô hình. Thông qua đề án IRI, các thành viên
có thể truy cập hầu như toàn bộ nguồn số liệu điện
ly mặt đất và vệ tinh của quốc gia và quốc tế. Mô
hình IRI đã trở thành một mô hình khí hậu điện ly
được sử dụng rộng rãi nhất. Các phiên bản online
và các mã nguồn mở được nâng cấp và truy cập
miễn phí.
Mô hình IRI mô tả các giá trị trung bình hàng
tháng của mật độ điện tử, nhiệt độ điện tử, ion, các
thành phần ion (O+, H+, N+, He+, O2+, NO+, ), và
dịch chuyển ion trong phạm vi từ 50 đến 1500km
[5, 6]. IRI là một mô hình bán thực nghiệm và dựa
trên dữ liệu. Tính chính xác của mô hình trong một
khu vực cụ thể phụ thuộc vào độ tin cậy của dữ
liệu thu thập được của khu vực đó. Một trong
những nguồn dữ liệu quan trọng nhất của IRI là
mạng lưới các đài thăm dò điện ly toàn cầu. IRI dự
đoán chính xác nhất cho vùng vỹ độ trung bình của
Bắc bán cầu vì ở vùng này có mật độ trạm quan
trắc dày đặc. Ở vùng vỹ độ cao và xích đạo, các
thông số điện ly ít chính xác hơn vì các trạm quan
trắc ở những vùng này thưa thớt.
Các nghiên cứu trước đây về so sánh mô hình
IRI-2001 với dữ liệu quan trắc tại các khu vực xích
đạo được tiến hành bởi nhiều tác giả như
Ologunleko A.O. và cộng sự [12] với dữ liệu quan
trắc tại trạm xích đạo Ibanda (7.4°N, 3.9°E), De
Medeiros RT. và cộng sự [7] quan trắc tại Natal
(5.2°S, 36°W) trong khoảng gần chu kỳ cực đại
của Mặt Trời với IRI trong điều kiện từ yên tĩnh và
nhiễu loạn. Bhuyan P.K. và cộng sự [2] tính tổng
nồng độ điện tử TEC (Total electron content) sử
259
dụng các máy thu tại 18 điểm ở Ấn Độ trong các
năm 2003 và 2004 để nghiên cứu các biến thiên
theo ngày, mùa và các biến đổi hàng năm của TEC
và so sánh với mô hình IRI-2001. Các kết quả
nghiên cứu đã được cập nhật vào phiên bản sau đó
là IRI-2007.
Để xác định mức độ chính xác của mô hình IRI
đối với khu vực xích đạo từ Việt Nam và hướng tới
mục tiêu lựa chọn giải pháp cho phù hợp với nhu
cầu ứng dụng tại Việt Nam, bài báo này trình bày
kết quả so sánh các giá trị quan trắc tại Đài quan
trắc khí quyển Hóc Môn (Tp. Hồ Chí Minh) và các
giá trị tính từ mô hình IRI-2007 (website
Kết quả so sánh cho phép ta xem xét mức độ phù
hợp của mô hình đối với khu vực Tp. Hồ Chí Minh
nói riêng và khu vực vùng xích đạo từ Việt Nam
nói chung.
2. Số liệu
Thời gian được lựa chọn trong nghiên cứu này
là giai đoạn 2003 - 2012. Số vết đen Mặt Trời
(Sunspot Number: SSN) trung bình của các năm
trên như sau: 2003 = 63,7; 2004 = 40,4; 2005 =
29,8; 2006 = 15,2; 2007 = 7,5; 2008 = 2,9; 2009 =
3,1; 2010 = 16,5; 2011 = 55,7; 2012 = 55,7. Như
vậy, thời điểm Mặt Trời hoạt động tương đối mạnh
vào các năm 2003, 2004, 2011, 2012; hoạt động
trung bình vào các năm 2005, 2006, 2010 và ở mức
độ cực tiểu vào các năm 2007, 2008, 2009 (hình 1).
Hình 1. Biểu đồ số vết đen Mặt Trời quan trắc 2003 - 2012
(Nguồn:
Dữ liệu quan trắc gồm số liệu thăm dò thẳng
đứng điện ly trên máy CADI và số liệu vệ tinh trên
máy thu tín hiệu vệ tinh GPS-400B đặt tại Đài
quan trắc Hóc Môn. Số liệu thăm dò thẳng đứng
quan trắc từ năm 2003 đến 2012 (trừ năm 2007 và
2008 máy dừng để sửa chữa và nâng cấp) được xử
lý từ điện ly đồ 15 phút/lần và tính trung bình giờ
hàng ngày cho tần số tới hạn đặc trưng của lớp
điện ly F2 [9]. Số liệu vệ tinh từ 2005 đến 2012
được tính nồng độ điện tử tổng cộng thẳng đứng
(vTEC), trung bình giờ hàng ngày theo giờ địa
phương [11, 10].
Mô hình IRI-2007 được sử dụng với dữ liệu
đầu vào gồm: tọa độ địa lý của đài Hóc Môn
(10°51N, 106°33E); chọn mốc thời gian địa
phương (LT); số vết đen Mặt Trời (trung bình hàng
tháng được lấy từ trung tâm dữ liệu Mặt Trời SIDC
của Bỉ tại website
data/; lấy giá trị biên trên của khí quyển cho dữ
liệu TEC là 2000km, các mô hình đi kèm được
mặc định, chẳng hạn như dùng NeQuick cho biên
trên của nồng độ điện tử, mô hình của USRI cho
đỉnh lớp F, mô hình có nhiễu loạn từ, v.v... Dữ liệu
đầu ra tính theo từng giờ mỗi ngày từ năm 2003
đến năm 2012.
3. Phương pháp phân tích
Các tham số dùng để phân tích mức độ phù hợp
giữa hai bộ số liệu được tính từ các công thức sau:
Hệ số tương quan biểu diễn mức độ phù hợp
cao hay thấp của hai dữ liệu quan trắc và mô hình.
Mức độ tương quan của hai dữ liệu càng cao khi
giá trị R càng gần bằng 1.
∑ ∑
∑
= =
=
−−
−−
=
n
i
n
i
ii
n
i
ii
yyxx
yyxx
R
1 1
22
1
)()(
))((
(1)
Hệ số góc k của đường hồi quy tuyến tính được
lấy từ đường thẳng tuyến tính y = kx + b của các
giá trị quan trắc và mô hình. Hai dữ liệu càng phù
hợp khi giá trị k ≈ 1 (k >1 thể hiện các giá trị
tính theo mô hình cao hơn số liệu quan trắc và
ngược lại).
∑
∑
=
=
−
−−
= n
i
n
i
ii
xix
yyxx
k
1
2
1
)(
))((
(2)
b= y - k x (3)
Trong đó:
- n là số các giá trị dữ liệu của mô hình và quan
trắc được đưa vào so sánh.
- x và y tượng trưng lần lượt cho dữ liệu CADI
và IRI.
260
- x và y là các giá trị trung bình của x và y.
4. Kết quả
4.1. So sánh kết quả quan trắc tần số thăm dò
thẳng đứng với mô hình IRI
Trên hình 2, các đường liền nét biểu diễn giá trị
tần số tới hạn tính trung bình giờ của lớp điện ly F2
quan trắc bằng máy thăm dò thẳng đứng CADI và
các đường chấm biểu diễn các tần số tới hạn tương
ứng tính từ mô hình IRI.
Các số liệu so sánh biến thiên trung bình giờ
hàng ngày của các năm 2003-2011 cho thấy mức
độ phù hợp của chúng trong các năm giai đoạn
2003-2006 khá cao với sai số trong phạm vi dưới
15%. Mức độ chênh lệch cao trong giai đoạn này
tập trung ở một số thời điểm cực tiểu và cực đại
trong ngày của foF2 vào khoảng 20%. Trong giai
đoạn 2009 đến 2012 thì kết quả so sánh có sự phù
hợp cao trong khoảng thời gian buổi sáng trước khi
tần số tới hạn đạt cực đại nhỏ lúc 10 giờ, sai số ở
mức 10% (trừ năm 2012 có sự chênh lệch lớn từ 0
đến 6 giờ). Từ sau cực đại nhỏ, giá trị IRI không
ngừng tăng cao và chênh lệch khá lớn, vào khoảng
25 đến 30%, và mức độ chênh lệch này có xu
hướng ngày càng cao. Đặc biệt năm 2012 các số
liệu mô hình dự đoán cao hơn hẳn so với số liệu
quan trắc thực (hình 2).
Hình 2. Biến thiên thông số foF2 giữa IRI - 2007 và giá trị
quan trắc tại Tp. HCM
Hình 3 hiển thị độ chênh lệch giữa 2 số liệu
theo mùa ở các thời điểm Xuân, Thu phân (tháng 4,
10) và Đông, Hạ chí (tháng 1, 7). Số liệu cho ta
thấy rằng giá trị foF2 cao vào các tháng phân, thấp
vào các tháng chí, và biến thiên theo độ hoạt động
của Mặt Trời. Độ chênh lệch cao thấp giữa hai dữ
kiện hầu như không có sự phụ thuộc theo mùa mà
có sự phù hợp tốt trong giai đoạn nửa sau chu kỳ
23 và dữ liệu mô hình cao hơn hẳn vào giai đoạn
nửa đầu chu kỳ 24. Nguyên nhân của sự chênh lệch
này một phần chính là phiên bản IRI-2007 đã có sự
hiệu chỉnh bởi dữ liệu quan trắc ở một vài trạm
trên thế giới ở các năm trước nên kết quả mô hình
phù hợp hơn với số liệu quan trắc tại khu vực Tp.
HCM. Với sự chênh lệch lớn trong chu kỳ 24 này
cho thấy rằng số liệu IRI đã có những ước đoán
quá cao và cần hiệu chỉnh giảm cho phù hợp với
trạng thái điện ly thực tế quan trắc được tại khu
vực này.
Hình 3. Biến thiên thông số foF2 các mùa trong năm quan trắc
2003 - 2012
Hình 4 biểu diễn tổng quát tất cả các giá trị trung
bình hàng giờ của foF2 quan trắc và mô hình cho các
năm. Trục x biểu diễn các giá trị quan trắc CADI, trục
y biểu diễn giá trị mô hình IRI. Trên tiêu đề mỗi hình
có ghi năm và giá trị hệ số góc k của đường hồi qui
tuyến tính và hệ số tương quan R. Các kết quả thể
hiện trên hình 4 cho thấy rằng, có sự phù hợp khá tốt
giữa số liệu quan trắc và mô hình với k ≥ 0,8.
Hình 4. Biểu đồ so sánh dữ liệu giữa CADI và IRI
261
Kết quả cũng cho ta thấy một điều khá thú vị
trong mối quan hệ nghịch giữa độ hoạt động của
Mặt Trời và hệ số k (hình 5). Trong các năm độ
hoạt động Mặt Trời thấp với chỉ số vết đen nhỏ
hơn 40 (như các năm từ 2006 đến 2010) thì hệ số k
> 1, điều này cho thấy giá trị tính theo mô hình cao
hơn số liệu quan trắc. Các năm số vết đen cao hơn
(như 2003, 2004, 2005, 2011 và 2012) thì k < 1
cho thấy giá trị tính theo mô hình thấp hơn số liệu
quan trắc.
Hình 5. Biểu đồ biến thiên của thông số k, R và SSN theo thời gian
Biến thiên R có chiều hướng thấp dần trong các
năm gần đây cho thấy trạng thái điện ly quan trắc
trong các năm gần đây tại Tp. HCM có phần thay
đổi dần khác xa với dự đoán trong mô hình. Điều
này chứng tỏ cần có sự quan trắc theo dõi và điều
chỉnh mô hình cho phù hợp.
4.2. So sánh tổng nồng độ điện tử quan trắc theo
đường truyền thẳng đứng (vTEC) và mô hình IRI
Trên hình 6, các số liệu vTEC (đơn vị tecu =
1016 electron/m2) quan trắc và mô hình được tính
hàng ngày và lấy trung bình hàng tháng của 3 năm
tượng trưng là 2006, 2009 và 2011 biểu diễn ở
khung hình trên, khung hình dưới biểu diễn % sai
lệch của hai giá trị vTEC.
Phân bố mùa tại khu vực Tp. HCM vào các
tháng như sau: mùa xuân (tháng 3, 4, 5), mùa hạ
(6, 7, 8), mùa thu (9, 10, 11) và mùa đông (12, 1,
2). Kết quả quan trắc và mô hình IRI đều cho thấy
rằng tổng nồng độ điện tử cao vào các tháng phân
(Xuân và Thu) và thấp vào các tháng chí (Đông và
Hạ). Phân tích số liệu cho thấy sự chênh lệch giữa
GPS TEC và IRI TEC nhiều vào các giờ buổi sáng
sớm, từ 0 giờ đến 7 giờ địa phương, với mức độ
chênh lệch hơn 50%. Ở các thời điểm này trong các
năm Mặt Trời hoạt động yếu, giá trị tính theo mô
hình thường ở 0,5 đến 2 tecu, trong khi giá trị quan
trắc trung bình vào khoảng 5 tecu. Kết quả này phù
hợp với kết quả của Adewale A.O và cộng sự so
sánh các giá trị TEC thu nhận tại Lagos, Nigeria
(6.5°N và 3.4°E), phân tích trong năm 2009 cho 4
mùa Xuân Hạ Thu Đông theo điểm phân và chí [1],
và Kenpankho P. và cộng sự [8] với máy thu đặt tại
Chumphon, Thái Lan (10.72°N, 99.37°E) tiến hành
so sánh trong giai đoạn 2004 - 2006.
Hình 6. Biến thiên TEC của dữ liệu vệ tinh thu nhận tại Tp. HCM
và mô hình IRI-2007
Kết quả thống kê cũng cho thấy rằng, các năm
Mặt Trời hoạt động yếu như 2007, 2008, 2009 thì
IRI TEC thường thấp hơn GPS TEC, trong khoảng
thời gian từ 0 giờ đến 15 giờ địa phương. Các giờ
buổi chiều tối thì IRI TEC có cao hơn GPS TEC
một chút. Các năm Mặt trời hoạt động trung bình
và mạnh 2005, 2006, 2010, 2011, 2012 thì hầu như
GPS TEC cao hơn hẳn IRI TEC trong hầu hết các
khoảng thời gian trong ngày. Kết quả này ngược
với nghiên cứu của Olwendo O.J. và cộng sự khi
so sánh các mùa trong giai đoạn 2004-2006 tại
trạm Malindi (2.9°S, 40.1°E) [13]. Số liệu quan
trắc trong một số tháng cho thấy, hình thái biến
thiên của TEC chỉ có một đỉnh vào giữa trưa,
không có dạng một đỉnh thấp vào ~10 giờ sáng và
đỉnh cao vào ~ 13 giờ buổi chiều như mô hình.
Giữa số liệu quan trắc và mô hình có hình thái biến
thiên phù hợp nhất là năm độ hoạt động Mặt Trời
cực tiểu.
262
Hình 7 biểu diễn biến thiên ngày đêm và theo
mùa của GPS TEC và IRI TEC. Trục x biểu diễn
các tháng dữ liệu trong năm, từ năm 2006 đến
2012. Trục y biểu diễn 24 giờ trong ngày theo giờ
địa phương. Các giá trị mô hình và quan trắc đều
cho thấy các cực đại xuất hiện vào các tháng chí
(tháng 3 đến 5 và tháng 9 đến 11). Một điểm khác
biệt rõ giữa hai dữ liệu là đỉnh của GPS TEC cao
vào lúc 10 giờ đến 20 giờ địa phương thay vì từ 15
đến 20 giờ như mô hình. Sự biến thiên của vTEC
theo mức độ hoạt động Mặt Trời cũng được thể
hiện trên số liệu, tuy nhiên, biến thiên theo mô hình
có sự thay đổi chậm hơn.
Hình 7. Biến thiên ngày đêm và theo mùa của dữ liệu vTEC theo
mô hình IRI-2007 và số liệu thu GPS tại Tp. HCM
Hình 8 biểu diễn vTEC mô hình và quan trắc
trong các năm từ 2006 đến 2012. Ta thấy rằng, với
giá trị hệ số góc của đường thẳng tuyến tính k > 0.8
trong các năm từ 2006 đến 2010 thì hai bộ dữ liệu
này biến thiên khá phù hợp nhau. Riêng năm 2011
và 2012, giá trị hệ số k này trong khoảng 0.61 đến
0.66 cho thấy rằng giá trị GPS TEC khá lớn so với
mô hình. Độ chênh lệch này tập trung vào các tháng
3, 4, 9, 10, 11, 12 năm 2011 quan sát trong hình 6.
Nguyên nhân chính của sự chênh lệch này có thể là
do độ hoạt động của Mặt Trời ở các tháng này tăng
cao (hình 1) dẫn đến tổng nồng độ điện tử TEC thu
nhận được rất cao mà mô hình chưa có sự hiệu
chỉnh tương ứng. Vào các năm cực tiểu của hoạt
động Mặt Trời (2007, 2008, 2009), hầu hết các giá
trị quan trắc và giá trị mô hình phù hợp với nhau
hơn; như vậy, vào thời gian có sự ion hoá thấp thì
các giá trị thực nghiệm và mô hình chênh lệch ít hơn
những thời gian có sự ion hoá cao. Kết quả này phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Scidá, L.A.và cộng
sự [16] tổng kết cho toàn bộ vùng Nam Mỹ về tính
khả thi của IRI-2007 áp dụng trong tính toán TEC.
Hình 8. Biểu đồ tổng hợp so sánh vTEC giữa mô hình IRI-2007 và
số liệu thu nhận tại Tp. HCM
4. Kết luận
Kết quả so sánh số liệu quan trắc với mô hình
IRI-2007 cho thấy:
- Giai đoạn 2003-2006 cho thấy mức độ phù
hợp tốt của thông số foF2 giữa số liệu quan trắc và
dữ liệu theo mô hình với sai số trong phạm vi dưới
15%. Mức độ chênh lệch cao trong giai đoạn này
chỉ tập trung ở một số thời điểm cực tiểu và cực đại
của foF2 với khoảng 20%. Trong giai đoạn 2009
đến 2012 thì có sự phù hợp cao vào thời gian buổi
sáng trước khi tần số tới hạn đạt cực đại thứ nhất
lúc 10 giờ, sai số ở mức 10% (trừ năm 2012 có sự
chênh lệch lớn từ 0 đến 6 giờ). Từ sau cực đại thứ
nhất, giá trị IRI tăng cao và độ chênh lệch khá lớn,
vào khoảng 25 đến 30%. Mức độ chênh lệch này
có xu hướng ngày càng cao, đặc biệt là năm 2012
các số liệu mô hình cao hơn hẳn so với số liệu quan
trắc thực.
- Vào những năm Mặt Trời hoạt động yếu (với
SSN<40), giá trị foF2 tính theo mô hình cao hơn số
liệu quan trắc, và ngược lại vào những năm số vết
đen SSN>40 thì số liệu quan trắc có giá trị cao hơn
giá trị tính theo mô hình. Đây cũng là một lưu ý
trong việc hiệu chỉnh mô hình điện ly quan trắc tại
khu vực này.
- Hiện tượng lõm giữa trưa của các giá trị TEC
không thể hiện rõ trên số liệu quan trắc tại khu vực
Tp. HCM. Hiện tượng này chỉ quan sát được ở một
vài tháng từ tháng 4 đến tháng 9 so với kết quả
IRI TEC.
263
- Giá trị cao nhất của GPS TEC tại Tp. HCM
quan trắc được vào khoảng 14 giờ địa phương.
Thời gian đạt nồng độ điện tử cao kéo dài hơn so
với mô hình, từ khoảng 10 đến 20 giờ địa phương
vào thời gian Mặt Trời hoạt động mạnh và từ
khoảng 15 đến 19 giờ địa phương ở giai đoạn Mặt
Trời hoạt động yếu. Giá trị IRI TEC vào các giờ
buổi sáng sai lệch khá lớn, vì vậy cần có sự hiệu
chỉnh lại.
Chúng tôi hy vọng rằng những kết quả này và
những công việc liên quan trong tương lai sẽ cung
cấp thông tin hữu ích cho việc xây dựng một mô
hình IRI sử dụng phù hợp cho khu vực Việt Nam.
Bài báo được hoàn thành với sự hỗ trợ kinh phí
của Chương trình “Hỗ trợ cán bộ nghiên cứu trẻ”
năm 2012 của Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Adewale A.O., Oyeyemi E.O., Adeniyi J.O.,
Adeloye A.B., Oladibo O.A., 2011: Comparision of
total electron content predicted using IRI-2007
model with GPS observations over Lagos, Nigeria,
Indian Journal of Radio and Space Physics,
Volume 40, 21-25.
[2] Bhuyan P.K., Rashmi Rekha Borah, 2006:
TEC derived from GPS network in India and
comparison with the IRI, Advances in space
Research 39, 830-840.
[3] Bilitza D., Rawer K., 1996: International
Reference Ionosphere in the Upper Atmosphere -
Data Analysis and Interpretation. Springer-Verlag,
Berlin, Heidelberg, pp. 735-772.
[4] Bilitza D., 2001: International reference
ionosphere 2000, Radio Science. 36(2), 261-276
[5] Bilitza D., 2006: The International
Reference Inosphere - Climatological Standar for
the Ionosphere, Meeting proceedings RTO-MP-
IST-056, PP 32, Neuilly-sur-Seine, France.
[6] Bilitza D., Reinisch B.W., 2008:
International Reference Ionosphere 2007:
Improvements and new parameters, Advances in
Space Research 42, pp. 599-609.
[7] De Medeiros RT., Souza J.R., Abdu M.A,
Batista I.S., Sobral J.H.A., and Borba G.L., 2003:
Comparisions of IRI model and electron Density
Data for the Sub-equatorial station, NaTal,
Advance of Science Research, Vol.31, No.3,
557-561.
[8] Kenpankho P., Watthanasangmechai K.,
Supnithi P., Tsugawa T., Maruyama T., 2011:
Comparison of GPS TEC measurements with IRI
TEC prediction at the equatorial latitude station,
Chumphon, Thailand, Earth Planets and Space,
Volume 63, Issue 4, 365-370.
[9] Hoàng Thái Lan, Vĩnh Hào, Dương Văn
Vinh, Đào Ngọc Hạnh Tâm, 2012: Dự báo foF2
điện ly xích đạo từ Việt Nam và ứng dụng cho
truyền sóng vô tuyến HF. Tuyển tập báo cáo hội
nghị Khoa học quốc tế Vật lý Địa cầu, hợp tác và
phát triển bền vững, Nxb. KH Tự nhiên và Công
nghệ, 63-69.
[10] Trần Thị Lan, Lê Huy Minh, 2010: Biến
thiên theo thời gian của nồng độ điện tử tổng cộng
và nhấp nháy điện ly theo số liệu GPS liên tục ở
Việt Nam. Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất,
T.33, 4, 681-689.
[11] Lê Huy Minh, Bourdillon A., Duchesne
P.L., Fleury R., Nguyễn Chiến Thắng, Trần Thị
Lan, Ngô Văn Quân, Lê Trường Thanh, Trần Ngọc
Nam, Hoàng Thái Lan, 2006: Xác định nồng độ
điện tử tổng cộng tầng điện ly ở Việt Nam qua số
liệu các trạm thu tín hiệu vệ tinh GPS, Tạp chí Địa
chất, A. 296, 54-62.
[12] Ologunleko A.O. and Kolawole L.B.,
2000: Low Latitude Model Electron Density
Profiles Using the IRI and CCIR Models, Nigeria
Journal of Pure and Applied Physics, Vol.1, 33-36.
[13] Olwendo O. J., Baki P., Cilliers P. J., Mito
C., Doherty P., 2011: Comparison of GPS TEC
measurements with IRI-2007 TEC prediction over
the Kenyan region during the descending phase of
solar cycle 23, Advances in Space Research,
Volume 49, Issue 5, 914-921.
[14] Rawer K., Bilitza D., 1990: International
Reference Ionosphere - Plasma Densities,
Advances in Space Research, 10, 8, pp. 5-14.
[15] Rawer K., Bilitza D., Ramakrishnan S.,
Sheikh M., 1978: Intentions and buildup of the
International Reference Ionosphere in: Operational
Modeling of the Aerospace Propagation
Environment, AGARD Conf. Proc. vol. 238, 1-10.
[16] Scidá L. A., Ezquer R. G., Cabrera M. A.,
264
Mosert M., Brunini C., Buresova D., 2011: On the
IRI 2007 performance as a TEC predictor for the
South American sector, Journal of Atmospheric
and Solar-Terrestrial Physics, Volume 81, 50-58.
SUMMARY
A comparison of ionospheric parameters observed over Ho Chi Minh City with IRI-2007 predictions
This paper presents the results of comparisons the foF2 and TEC observed over Ho Chi Minh City with the values
calculated according to the International Reference Ionosphere IRI-2007 in order to evaluate the applicability of the
model in forecasting for the equatorial region of Vietnam. The results show a quite consistent of the critical frequency
foF2 and total electron content TEC in some periods. IRI foF2 values fit well with the observed data for the years before
2007. The standard deviation in these years is about 15%. Only at few of maximum and minimum, the deviations are
about 20%. In the years with low solar activities, the IRI foF2 are almost higher than the observed foF2 data. The IRI
foF2 values for the first half of 24th solar cycle are bigger than observed foF2, especially during evening. For this period,
the adjustment of IRI foF2 must reduce in the range of 25 to 30%. The comparison of the total electron content TEC
shows that the phenomenon of decline in the TEC at noon observed over Ho Chi Minh City is highly weak. This
phenomenon appeared only in the summer, when the ionization is high. In Solar minimum period, the average minimum
TEC observed over Ho Chi Minh City is about 5 tecu, while the IRI TEC value is smaller than 2. Thus, in the period from
0 to 7 pm local time, the IRI TEC value should be calibrated.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3697_12693_1_pb_8366_2107971.pdf