Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, trên
EEG ban ngày bình thường chiếm tỉ lệ 57,7 %,
bất thường chiếm tỉ lệ 42,3% trong đó bất thường
có phóng điện dạng động kinh là 37,2%; đối với
EEG ban đêm, số bản ghi bất thường tăng lên
đến 78,8%; bất thường có phóng điện dạng động
kinh là 69,2%. Thực hiện phép kiểm 2McNemar
cho thấy phóng điện dạng động kinh giữa 2 thời
điểm khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001,
RR = 1,84. Ngoài ra bản ghi trong khi EEG ban
ngày có tỉ lệ bản ghi phóng điện dạng động kinh
riêng ở vùng trán thấp hơn đáng kể so với vùng
thái dương, thì EEG ban đêm đã ghi nhận sự
chênh lệch về vị trí phóng điện dạng động kinh
giữa 2 vùng này là không đáng kể.
Khảo sát sự phù hợp về vị trí tổn thương
trên EEG và trên hình ảnh học trên những
trường hợp bất thường ở cả 2 kĩ thuật này cho
thấy sự phù hợp đối với EEG ban ngày là 62,5%
và tăng lên đến 73,3% khi thực hiện EEG ban
đêm. Ngoài ra còn quan sát thấy đối với EEG
ban ngày có sự liên quan giữa khả năng xuất
hiện EDs trên EEG với thời gian bị động kinh
cũng như với tần suất cơn động kinh trong
tháng, kết quả này giống với; trong khi đó bản
ghi ban đêm lại cho thấy có sự liên quan giữa
khả năng xuất hiện EDs trên EEG với tình trạng
bất thường thần kinh và/hoặc tình trạng chậm
phát triển, với tần suất cơn động kinh, và với
thời gian tính từ lúc có cơn động cuối đến lúc đo
điện não; kết quả này tương đối giống tác giả
King MA(6), cũng như phần nào giống với tác giả
tác giả Janszky(5) và tác giả Đỗ Quốc Hùng(2). Có
thể nhận thấy với cỡ mẫu khác nhau, cách thiết
kế nghiên cứu khác nhau nên mối liên hệ giữa
khả năng ghi nhận EDs với các yếu tố khác cũng
không giống nhau giữa các nghiên cứu.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh điện não đồ ban ngày và ban đêm trên bệnh nhân động kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 207
SO SÁNH ĐIỆN NÃO ĐỒ BAN NGÀY VÀ BAN ĐÊM TRÊN BỆNH NHÂN
ĐỘNG KINH
Trần Quang Tuyến*, Lê Văn Tuấn**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Xác định tỉ lệ phóng điện dạng động kinh của điện não đồ có vai trò quan trọng trong chẩn
đoán. Tỉ lệ phóng điện dạng động kinh có thể thay đổi theo chu kỳ ngày đêm đêm trên bệnh nhân động kinh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tại Bệnh viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế, chúng
tôi tiến hành 2 bản ghi điện não (EEG) trên 52 bệnh nhân động kinh đang hoặc chưa điều trị từ tháng 10/2013
đến 4/2014, bản ghi thứ nhất thực hiện vào ban ngày trong khoảng thời gian khoảng 15-20 phút, bản ghi thứ hai
thực hiện vào ban đêm với khoảng thời gian từ 7-10 giờ tùy vào sinh hoạt và giấc ngủ của bệnh nhân.
Kết quả: Trên EEG ban ngày, tỉ lệ bản ghi xuất hiện phóng điện dạng động kinh là 32,7%, trong đó phóng
điện dạng động kinh vùng thái dương chiếm 11,5%, vùng trán đơn độc chiếm 3,9%, vùng trán và các vùng
chung quanh chiếm 13,5%. Trên EEG ban đêm tỉ lệ bản ghi xuất hiện phóng điện dạng động kinh là 69,2%,
trong đó phóng điện dạng động kinh vùng thái dương chiếm 23,1%, vùng trán đơn độc chiếm 21,2%, vùng trán
và các vùng chung quanh chiếm 34,6%. Phân tích thống kê bằng phép kiểm Chi bình phương, EEG ban đêm có tỉ
lệ phóng điện dạng động kinh cao gấp 1,84 lần so với EEG ban ngày.
Kết luận: EEG ban đêm là kĩ thuật có giá trị cao trong khảo sát phóng điện dạng động kinh trên bệnh nhân
động kinh.
Từ khóa: điện não đồ, phóng điện dạng động kinh.
ABSTRACT
COMPARING DAY-TIME AND NIGHT-TIME ELECTROENCEPHALOGRAM
IN EPILEPTIC PATIENTS
Tran Quang Tuyen, Le Van Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 207 - 211
Objectives: To determine and compare the frequency of epileptiform discharges (Eds) between day-time
electroencephalogram (EEG) and night-time EEG among epileptic patients.
Backgroud: Electroencephalogram is one of the most important technique in supporting diagnostic epilepsy.
However, the sensitivity of day-time EEG is limited. It can be increased by prolonging the duration of EEG. On
the other hand, the impaction of sleep also increases the frequency of EDs. For these reasons, we performed EEG in
night-time period with many hours to evaluate epileptic patients.
Methods: This was a case series study of 52 epileptic patients at International Neurosurgery Hospital from
Oct 2013 to Apr 2014. Two EEG recordings of every patient in which the first EEG was day-time EEG in 15-20
minutes and the second one was night-time EEG in 7-10 hours.
Results: On day-time EEG, the frequency of EDs was 32.7%; EDs from temporal regions, frontal regions,
total frontal and related regions were 11.5%, 3.9% and 13.5%, respectively. On night-time EEG, the frequency of
EDs was 69.2%; EDs from temporal regions, frontal regions, total frontal and related regions were 23.1%, 21.2%
and 34.6%, respectively. Night-time EEG, as compared with day-time EEG, was associated with higher frequency
of EDs (RR = 1.84).
* Bệnh viện Chuyên khoa Ngoại Thần kinh Quốc tế ** Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Trần Quang Tuyến ĐT: 0909181636 Email: tranquangtuyen1420@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 208
Conclusion: Prolonged night-time EEG is an useful technique in determining epileptiform discharges in
epileptic patients.
Key words: electroencephalogram, epileptiform discharges.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là bệnh lý thần kinh phổ biến
không chỉ ở nước ta mà còn ở các nước khác trên
thế giới. Trong quản lý động kinh thì chẩn đoán
đúng và điều trị sớm là yêu cầu thiết yếu; tuy
nhiên trên lâm sàng không phải lúc nào cũng
phân biệt được biểu hiện bất thường của bệnh
nhân liên quan tới bệnh động kinh hay những
bệnh lý khác(11). Từ đó sự ra đời của EEG là một
bước tiến lớn trong việc hỗ trợ chẩn đoán và
theo dõi điều trị bệnh động kinh. Một số nghiệm
pháp như kéo dài thời gian đo, gây thiếu ngủ và
đo trong giấc ngủ đã được thực hiện nghiên cứu
và ứng dụng nhằm làm tăng khả năng ghi nhận
phóng điện dạng động kinh trên EEG. Tuy nhiên
tại Việt Nam có rất ít trung tâm thực hiện EEG
kéo dài nhiều giờ và chưa có nghiên cứu nào về
giá trị EEG ban đêm trên bệnh nhân động kinh.
Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm xác định và so sánh tỉ lệ phóng điện dạng
động kinh của điện não đồ ban ngày và ban đêm
trên bệnh nhân động kinh.
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu trên 52 bệnh
nhân động kinh đến khám và điều trị tại Bệnh
Viện Chuyên Khoa Ngoại Thần Kinh Quốc Tế từ
tháng 10/2013 đến 4/2014. Bệnh nhân đồng ý
tham gia nghiên cứu được thu thập các thông tin
như tuổi, giới, tiền căn bệnh lý, thời gian mắc
bệnh, chẩn đoán cơn trên lâm sàng, đặc điểm
cơn động kinh, kết quả khám thần kinh, kết quả
hình ảnh học. Sau đó bệnh nhân được thực hiện
2 bản ghi điện não bằng máy điện não vi tính 21
kênh hiệu Nicolet, điện cực được đặt theo hệ
thống quốc tế 10-20, phòng đo được thiết kế
riêng với ánh sáng mờ, yên tĩnh, có máy điều
hòa nhiệt độ, có micro để liên lạc với bên ngoài
khi cần. Bản ghi EEG thứ nhất thực hiện vào ban
ngày theo qui trình đo EEG thường qui với
khoảng thời gian kéo dài từ 15-20 phút; bản ghi
thứ hai thực hiện vào ban đêm với khoảng thời
gian kéo dài từ 7-10 giờ (đêm trước khi thực hiện
bản ghi thứ hai bệnh nhân được yêu cầu ngủ tối
đa 5 giờ (≤ 16 tuổi) hoặc tối đa 3 giờ (>16 tuổi) và
không ngủ trong ngày cho đến khi đo EEG ban
đêm. Kết quả điện não đồ của hai bản ghi được
đánh giá theo tiêu chí: bình thường, bất thường
(có hoặc không có phóng điện dạng động kinh,
đặc điểm sóng bất thường).
Kết quả nghiên cứu được phân tích bằng
phương pháp phân tích đơn biến sử dụng phép
kiểm Chi bình phương.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu gồm 52 bệnh nhân động kinh, có
28 nam (53,9%) và 24 nữ (46,1%). Tuổi trung bình
là 25,12 (từ 6 đến 84 tuổi) trong đó ≤ 16 tuổi
chiếm 48,1%, 17-64 tuổi chiếm 46,2%, ≥ 65 tuổi
chiếm 5,8%. Bệnh nhân có tiền căn bình thường
chiếm 55,8%, trong số 44,2% bệnh nhân có tiền
căn bệnh lý thì thường gặp nhất là tiền căn co
giật do sốt và/hoặc chậm phát triển tâm thần
chiếm tỉ lệ cao với 19,2%. Khoảng thời gian bị
động kinh trung bình là 4,96 năm với thời gian
ngắn nhất là dưới 1 năm và dài nhất là 38 năm.
Khoảng thời gian trung bình tính từ cơn động
kinh cuối cho đến lúc đo điện não ban đêm
trung bình là 11,56 ngày; trong đó số bệnh nhân
có cơn trong vòng 3 ngày trước khi đo EEG giấc
ngủ đêm chiếm tỉ lệ cao nhất là 42,6%, khoảng từ
4 – 7 ngày và 8 - 30 ngày chiếm tỉ lệ lần lượt là
19,2% và 29,6%; ≥30 ngày chiếm 7,7%. Có 28
bệnh nhân có trên 10 cơn trong 1 tháng gần đây
chiếm 53,8%. Bệnh nhân có bất thường về thần
kinh hay chậm phát triển khi khám chiếm 26,9%.
Chẩn đoán lâm sàng về loại cơn động kinh
có kết quả cơn động kinh cục bộ chiếm đến 41
trường hợp trong khi đó cơn toàn thể chỉ có 11
trường hợp; trong cơn cục bộ, thường gặp nhất
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 209
là động kinh cục bộ toàn thể hóa thứ phát với
67,3%; trong cơn toàn thể thì cơn co cứng co giật
chiếm tỉ lệ cao với 17,3%.
Có 45/52 bệnh nhân được thực hiện hình ảnh
học (CT scan hoặc MRI). Khảo sát tiêu chí sự phù
hợp về vị trí tổn thương hình ảnh học (nếu có)
với vị trí phóng điện dạng động kinh trên EEG,
tỉ lệ phù hợp đối với EEG ban ngày là 62,5%,
EEG ban đêm là 73,3%.
Bảng 1: Đặc điểm của các sóng bất thường trên EEG
ban ngày và ban đêm
EEG ban ngày EEG ban đêm
Bình thường 30 (57,7%) 11(21,2%)
Bất thường không có
dạng động kinh
5 (9,6%) 5 (9,6%)
Phóng điện dạng
động kinh
17 (32,7%) 36 (69,2%)
Nhận xét: Trên EEG ban ngày số trường hợp
ghi nhận có sự xuất hiện phóng điện dạng động
kinh chiếm tỉ lệ 32,7%. Khi thực hiện EEG ban
đêm, ghi nhận thêm 19 trường hợp có bất
thường này, nâng tổng số bản ghi có xuất hiện
phóng điện động kinh lên 36 trường hợp chiếm
tỉ lệ 69,2%.
Sử dụng phép kiểm 2 McNemar cho kết quả
xác suất xuất hiện các phóng điện dạng động của
nhóm thực hiện EEG ban đêm cao gấp 1,84 lần
so với nhóm thực hiện EEG ban ngày.
Bảng 2: Vị trí của các phóng điện dạng động kinh
trên bản ghi EEG
EEG ban ngày EEG ban đêm
EDs trán đơn độc 2 (3,9%) 11(21,2%)
EDs trán + vùng xung
quanh
5 (9,6%) 7 (13,5%)
EDs thái dương 6 (11,5%) 12 (23,1%)
EDs vùng khác 4 (7,7%) 6 (11,5%)
Không có EDs 35(67,3%) 16 (30,8%)
Tổng 52 (100%) 52 (100%)
Nhận xét: Trên EEG ban ngày, vị trí thường
gặp nhất của các phóng điện dạng động kinh là
vùng thái dương chiếm 35,3%, vùng trán đơn
độc chiếm tỉ lệ không cao, tuy nhiên nếu tính
gộp cả vùng trán và vùng trán đi kèm với các
vùng lân cận thì chiếm đến 41,2%; ít gặp nhất là
phóng điện dạng động kinh toàn thể ngay từ
đầu. Trong các bản ghi EEG ban đêm bất thường
có dạng động kinh, vị trí thường gặp nhất của
các phóng điện dạng động kinh vẫn là vùng thái
dương với tỉ lệ 33,3%, tuy nhiên phóng điện
dạng động kinh vùng trán đơn độc tăng lên
đáng kể. Nếu gộp vùng trán và các vùng liên
quan vùng trán thì tỉ lệ đạt đến 50%. Ít gặp nhất
vẫn là phóng điện dạng toàn thể ngay từ đầu.
Bảng 3: Liên hệ giữa khả năng ghi nhận EDs trên
EEG với một số yếu tố khác
Giá trị P
EEG ban ngày EEG ban đêm
Giới 0,08 0,82
Nhóm tuổi 0,22 0,92
Thời gian bị động kinh 0,04 0,07
Số cơn động kinh
trong tháng
0,04 0,029
Khoảng thời gian từ cơn
cuối đến lúc đo
0,029
Dấu thần kinh khu
trú/chậm phát triển
0,34 0,025
Nhận xét: Trên EEG ban ngày, quan sát thấy
có mối liên quan giữa phóng điện dạng động
kinh trên EEG ban ngày với thời gian bị động
kinh (p=0,04) và số cơn động kinh trong tháng
(p=0,04). EEG ban đêm thì không ghi nhận sự
liên quan giữa phóng điện dạng động kinh với
thời gian bị bệnh động kinh (p=0,07); tuy nhiên
ngoài sự liên quan với số cơn động kinh trong
tháng (p = 0,029), còn ghi nhận sự liên quan giữa
phóng điện dạng động kinh trên EEG ban đêm
với thời gian từ lúc xuất hiện cơn cuối cùng đến
lúc đo điện não (p = 0,029) và với dấu thần kinh
khu trú/chậm phát triển (p = 0,025).
BÀN LUẬN
Bên cạnh biểu hiện lâm sàng thì điện não đồ
được xem như phương tiện quan trọng bậc nhất
trong việc hỗ trợ chẩn đoán động kinh. Tuy
nhiên vì thời gian khảo sát ngắn nên độ nhạy
của bản ghi EEG ban ngày thường không cao(13).
Do đó kéo dài thời gian đo được xem như một
trong những biện pháp hữu ích nhằm nâng cao
vai trò của EEG(15). Tác giả Faulkner thực hiện
điện não đồ lưu động trên bệnh nhân động kinh
nhận thấy thời gian đo càng dài thì khả năng ghi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 210
nhận sóng động kinh càng tăng(3). Ngoài ra do
sinh lý giấc ngủ với cơ chế sinh bệnh của cơn
động kinh có mối quan hệ chặt chẽ mà cả giấc
ngủ lẫn sự thiếu ngủ đều làm tăng tần suất của
phóng điện dạng động kinh trên điện não đồ
cũng như khả năng xuất hiện cơn động kinh trên
lâm sàng. Shinnar và cộng sự ghi nhận nhiều
trường hợp chỉ trong giấc ngủ mới ghi nhận
được hoạt động dạng gai nhọn trên điện não
đồ(7). Vì vậy bản ghi điện não trong giấc ngủ
nhiều giờ vào ban đêm thường được sử dụng để
khảo sát bệnh động kinh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số lượng
bệnh nhân nam lớn hơn bệnh nhân nữ, tuy
nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p=0,58), điều này khá phù hợp với một số
nghiên cứu khác về tỉ lệ nam/nữ trong nhiều
nghiên cứu khác(1,8); từ đó góp phần thể hiện
phân bố giới tính của bệnh động kinh trong cộng
đồng dân số chung(4).
Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là
25,12 .Trong đó nhóm trẻ em và người trưởng
thành chiếm đa số và tương đương nhau, do
nghiên cứu chúng tôi được thực hiện ở bệnh
viện chuyên khoa về thần kinh nên đối tượng đa
dạng hơn nhiều nghiên cứu khác(8,9). Cũng vì lý
do đó mà nhóm bệnh nhân có tiền căn bệnh lý
thường gặp trên động kinh ở người lớn như
chấn thương sọ não, tai biến mạch máu não
không chiếm tỉ lệ cao; ngược lại nhóm nguyên
nhân co giật do sốt và chậm phát triển lại chiếm
ưu thế.
Thời gian mắc bệnh động kinh trong mẫu
nghiên cứu trung bình là 4,96 năm, có 51,9%
bệnh nhân trong nghiên cứu xuất hiện cơn đầu
tiên trong 1 năm tính đến ngày ghi EEG. Thởi
gian này cao hơn tác giả Đỗ Quốc Hùng(2) và
thấp hơn tác giả Jozsef Janszky(5). Sự khác nhau
giữa các nghiên cứu có lẽ đến từ tiêu chí chọn
mẫu: Đỗ Quốc Hùng chọn bệnh nhân động kinh
chưa được điều trị, trong khi Jozsef Janszky lại
chọn bệnh nhân động kinh cục bộ phức tạp
kháng trị để đưa vào nghiên cứu.
Cơn động kinh toàn thể chỉ chiếm 21,1%
trong nghiên cứu của chúng tôi với đa số là cơn
co cứng co giật. Cơn cục bộ chiếm tỉ lệ cao lên
đến 78,9% cơn cục bộ toàn thể hóa thứ phát
chiếm tỉ lệ cao nhất 67,3%. Kết quả này tương
đối giống một số nghiên cứu khác. Theo nghiên
cứu trên 183 bệnh nhân động kinh tại Bệnh viện
Chợ Rẫy của tác giả Lê Văn Tuấn vào năm 2007
thì cơn toàn thể là 22,3%, cơn cục bộ 72,1%(10);
trên nhóm bệnh nhân trẻ em trong nghiên cứu
của tác giả Lê Thị Khánh Vân thì cơn toàn thể
chiếm 30,9%, cơn cục bộ chiếm 61,1%, cơn không
xác định 6,2%, hội chứng đặc biệt 1,8%(8).
Thời gian bệnh nhân được đo EEG giấc ngủ
đêm sau cơn động kinh cuối trung bình là 11,56
ngày, trong đó đo trong vòng 3 ngày chiếm đến
46,2%. Thởi điểm này phụ thuộc vào từng thiết
kế nghiên cứu, ví như tác giả Đỗ Quốc Hùng
hoàn thành các bản ghi EEG trong vòng 48 giờ
tính từ cơn động kinh cuối(2), còn tác giả Võ Phan
Kim Ngân thực hiện ghi điện não đồ trên bệnh
nhân động kinh trẻ em trong vòng 24 giờ sau
cơn động kinh(14).
Cũng do cách thiết kế nghiên cứu khác nhau
mà số cơn động kinh trong vòng một tháng cũng
không giống nhau, chúng tôi có số bệnh nhân có
từ 10 cơn động kinh trở lên trong tháng là 53,8%;
dưới 10 cơn chiếm 46,2%. Nghiên cứu của tác giả
Provini thực hiện trên 100 bệnh nhân động kinh
thùy trán cũng có đến 61% trường hợp có trên 15
cơn động kinh trong tháng(12). Theo tác giả Đỗ
Quốc Hùng thì bệnh nhân có dưới 10 cơn động
kinh đã xảy ra trước khi đo điện não, chiếm tỷ lệ
72%, từ 10 cơn trở lên chiếm tỷ lệ 28%(2).
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, trên
EEG ban ngày bình thường chiếm tỉ lệ 57,7 %,
bất thường chiếm tỉ lệ 42,3% trong đó bất thường
có phóng điện dạng động kinh là 37,2%; đối với
EEG ban đêm, số bản ghi bất thường tăng lên
đến 78,8%; bất thường có phóng điện dạng động
kinh là 69,2%. Thực hiện phép kiểm 2 McNemar
cho thấy phóng điện dạng động kinh giữa 2 thời
điểm khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001,
RR = 1,84. Ngoài ra bản ghi trong khi EEG ban
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 211
ngày có tỉ lệ bản ghi phóng điện dạng động kinh
riêng ở vùng trán thấp hơn đáng kể so với vùng
thái dương, thì EEG ban đêm đã ghi nhận sự
chênh lệch về vị trí phóng điện dạng động kinh
giữa 2 vùng này là không đáng kể.
Khảo sát sự phù hợp về vị trí tổn thương
trên EEG và trên hình ảnh học trên những
trường hợp bất thường ở cả 2 kĩ thuật này cho
thấy sự phù hợp đối với EEG ban ngày là 62,5%
và tăng lên đến 73,3% khi thực hiện EEG ban
đêm. Ngoài ra còn quan sát thấy đối với EEG
ban ngày có sự liên quan giữa khả năng xuất
hiện EDs trên EEG với thời gian bị động kinh
cũng như với tần suất cơn động kinh trong
tháng, kết quả này giống với; trong khi đó bản
ghi ban đêm lại cho thấy có sự liên quan giữa
khả năng xuất hiện EDs trên EEG với tình trạng
bất thường thần kinh và/hoặc tình trạng chậm
phát triển, với tần suất cơn động kinh, và với
thời gian tính từ lúc có cơn động cuối đến lúc đo
điện não; kết quả này tương đối giống tác giả
King MA(6), cũng như phần nào giống với tác giả
tác giả Janszky(5) và tác giả Đỗ Quốc Hùng(2). Có
thể nhận thấy với cỡ mẫu khác nhau, cách thiết
kế nghiên cứu khác nhau nên mối liên hệ giữa
khả năng ghi nhận EDs với các yếu tố khác cũng
không giống nhau giữa các nghiên cứu.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ ghi nhận phóng điện dạng động kinh
trên EEG ban ngày là 32,7%.
Tỉ lệ ghi nhận phóng điện dạng động kinh
trên EEG ban đêm là 69,2%.
EEG ban đêm ghi nhận phóng điện dạng
động kinh cao gấp 1,84 lần so với EEG ban ngày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Quỳnh Tố Hương (2013). Đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng và điều trị cơn động kinh đầu tiên ở người trưởng thành.
Tạp chí Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 17 (1): 133-137.
2. Đỗ Quốc Hùng (2012). Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần
trong việc phát hiện sóng dạng động kinh. Luận văn chuyên
khoa cấp II, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
3. Faulkner HJ, Arima H, Mohamed A (2012). Latency to first
interictal epileptiform discharge in epilepsy with outpatient
ambulatory EEG. Clin Neurophysiol, 123 (9): 1732-5.
4. Jallon P (1997). Epilepsy in Developing Countries. Epilepsia,
38 (10): 1143-1151.
5. Janszky J, Hoppe M, Clemens Z, et al (2005). Spike frequency
is dependent on epilepsy duration and seizure frequency in
temporal lobe epilepsy. Epileptic Disord, 7 (4): 355-9.
6. King MA, Newton MR, Jackson GD, et al. (1998). Epileptology
of the first-seizure presentation: a clinical,
electroencephalographic, and magnetic resonance imaging
study of 300 consecutive patients. Lancet, 352 (9133): 1007-11.
7. Kotagal P, Yardi N (2008). The relationship between sleep and
epilepsy. Semin Pediatr Neurol, 15 (2): 42-9.
8. Lê Thị Khánh Vân (2011). Phân loại và điều trị động kinh trẻ
em tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 TP Hồ Chí Minh. Luận án Tiến
sĩ, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
9. Lê Văn Tuấn (2003). Đặc điểm lâm sàng, nguyên nhân và điều
trị bệnh nhân động kinh tại khoa thần kinh bệnh viện Chợ
Rẫy. Tạp chí Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 7 (1): 75-80.
10. Lê Văn Tuấn (2007). So sánh phân loại cơn động kinh theo
triệu chứng và theo hiệp hội chống động kinh quốc tế. Tạp chí
Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 11 (1): 342-346.
11. Panayiotopoulos CP (2009). General aspects of epilepsies. In:
Panayiotopoulos CP (ed). A Clinical Guide to Epileptic
Syndromes and their Treatment, 2nd edition, pp. 1-18.
Springer.
12. Provini F, Plazzi G, Tinuper P, et al (1999). Nocturnal frontal
lobe epilepsy: A clinical and polygraphic overview of 100
consecutive cases. Brain, 122 (6): 1017-1031.
13. Tudor M, Tudor L, Tudor KI (2005). Hans Berger (1873-1941) –
the history of electroencephalography. Acta Med Croatica, 59
(4): 307-13.
14. Võ Phan Kim Ngân (2012). Đặc điểm lâm sàng và điện não
sau cơn trên bệnh nhân động kinh trẻ em. Luận văn thạc sĩ,
Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
15. Wirrell EC (2010). Prognostic significance of interictal
epileptiform discharges in newly diagnosed seizure disorders.
J Clin Neurophysiol, 27 (4): 239-48.
Ngày nhận bài báo: 14/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_dien_nao_do_ban_ngay_va_ban_dem_tren_benh_nhan_dong.pdf