So sánh giữa quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối

Dàn ý bài viết A. Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh . I. Nguồn gốc quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh . II. Quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh . III. So sánh giữa quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối. B. Thực tiễn . I. Nhận thức của Đảng về tư tưởng thân dân . II. Những hoạt động thực tiễn thể hiện tư tưởng thân dân. C. Nhận thức của bản thân. Khai triển tư tưởng. A. Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người con ưu tú của dân tộc ta. Người sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học, khoa cử và được tiếp thu một nền giáo dục Nho học từ người cha, một nhà nho có khí phách là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929). Chính từ đây Người đã chắt lọc những giá trị tốt đẹp về tư tưởng nho học.Một trong những tư tưởng đầy tiến bộ đó là tư tưởng thân dân hay lấy dân làm gốc. I. Nguồn gốc quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh 1.Tư tưởng thân dân trong Nho giáo. Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo với hạt nhân là đường lối “Đức trị”. Tuy nhiên, phải đến Mạnh Tử đường lối “Đức trị” mới được phát triển tương đối hoàn chỉnh và trở thành đường lối nhân chính (chính trị nhân nghĩa). Khổng Tử quan niệm: “ Làm chính trị( trị dân) mà dung đức( để cảm hóa dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả(tức thiên hạ về theo). Tư tưởng “Đức trị” biểu hiện ở quan niệm coi nhẹ chính hình và giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Dưỡng dân, theo Khổng Tử trước hết là phai làm cho dân no đủ. Ông coi trọng việc dưỡng dân hơn cả việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hóa dân nữa. Dưỡng dân còn phải biết “sử dân dĩ thời” tức là khiến dân làm việc phải hợp thời cụ thể. Có thể khẳng định đường lối “Đức trị” của Khổng Tử là “lấy nhân đạo làm gốc, lấy hiếu-đễ, lễ- nhạc làm cơ bản cho sự giáo hóa, lấy việc thực hiện chính sách “thân dân” làm cơ sở nhằm tạo ra một xã hội phong kiến theo điển chế có tôn ti, trật tự. Đến thời đại của Mạnh Tử là thời chiến quốc, một thời đại mà mọi tư tưởng được giải phóng mạnh mẽ. Có thể khẳng định với Mạnh Tử, học thuyết của Nho gia do Khổng Tử sang lập đã phát triển nâng lên một tầm mức mới trở thành Nho giáo Khổng Mạnh. Đó là đường lối “nhân chính” của Mạnh Tử. Nếu Khổng Tử hết sức coi trọng “dân tín”, coi đó là điều quan trọng nhất không thể bỏ được trong phép trị nước, , thì Mạnh Tử nhận thức một cách sâu sắc rằng: "Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử ấy vì mất dân chúng . hễ được dân chúng tự nhiên sẽ được thiên hạ . hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được dân chúng". Ông nói: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" nghĩa là trong nước nhân dân là quan trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc) vua là thứ bậc xem nhẹ nhất. Bởi dân vốn là gốc nước, có dân mới có nước, có nước mới có vua, ý dân là ý trời. Từ đó Mạnh Tử chủ trương thi hành một chế độ "báo dân" và khuyến cáo các bậc vua chúa: "Nếu người bực trên mà vui với sự vui của dân thì dân cũng vui với sự vui của mình; nếu mình buồn với sự buồn của dân, thì dân cũng buồn với sự buồn của mình. Bực quốc trưởng mà chia vui với thiên hạ, chia buồn với thiên hạ thì thế nào nền cai trị của mình cũng có bề hưng vượng đó". Với các nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ có một phương pháp nên theo: "Dân muốn việc chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ".

doc20 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2933 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh giữa quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dàn ý bài viết A. Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh . I. Nguồn gốc quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh . II. Quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh . III. So sánh giữa quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối. B. Thực tiễn . I. Nhận thức của Đảng về tư tưởng thân dân . II. Những hoạt động thực tiễn thể hiện tư tưởng thân dân. C. Nhận thức của bản thân. Khai triển tư tưởng. Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người con ưu tú của dân tộc ta. Người sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học, khoa cử và được tiếp thu một nền giáo dục Nho học từ người cha, một nhà nho có khí phách là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929). Chính từ đây Người đã chắt lọc những giá trị tốt đẹp về tư tưởng nho học.Một trong những tư tưởng đầy tiến bộ đó là tư tưởng thân dân hay lấy dân làm gốc. I. Nguồn gốc quan điểm thân dân của Hồ Chí Minh 1.Tư tưởng thân dân trong Nho giáo. Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo với hạt nhân là đường lối “Đức trị”. Tuy nhiên, phải đến Mạnh Tử đường lối “Đức trị” mới được phát triển tương đối hoàn chỉnh và trở thành đường lối nhân chính (chính trị nhân nghĩa). Khổng Tử quan niệm: “ Làm chính trị( trị dân) mà dung đức( để cảm hóa dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả(tức thiên hạ về theo). Tư tưởng “Đức trị” biểu hiện ở quan niệm coi nhẹ chính hình và giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Dưỡng dân, theo Khổng Tử trước hết là phai làm cho dân no đủ. Ông coi trọng việc dưỡng dân hơn cả việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hóa dân nữa. Dưỡng dân còn phải biết “sử dân dĩ thời” tức là khiến dân làm việc phải hợp thời cụ thể. Có thể khẳng định đường lối “Đức trị” của Khổng Tử là “lấy nhân đạo làm gốc, lấy hiếu-đễ, lễ- nhạc làm cơ bản cho sự giáo hóa, lấy việc thực hiện chính sách “thân dân” làm cơ sở … nhằm tạo ra một xã hội phong kiến theo điển chế có tôn ti, trật tự. Đến thời đại của Mạnh Tử là thời chiến quốc, một thời đại mà mọi tư tưởng được giải phóng mạnh mẽ. Có thể khẳng định với Mạnh Tử, học thuyết của Nho gia do Khổng Tử sang lập đã phát triển nâng lên một tầm mức mới trở thành Nho giáo Khổng Mạnh. Đó là đường lối “nhân chính” của Mạnh Tử. Nếu Khổng Tử hết sức coi trọng “dân tín”, coi đó là điều quan trọng nhất không thể bỏ được trong phép trị nước, , thì Mạnh Tử nhận thức một cách sâu sắc rằng: "Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử ấy vì mất dân chúng... hễ được dân chúng tự nhiên sẽ được thiên hạ... hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được dân chúng". Ông nói: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" nghĩa là trong nước nhân dân là quan trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc) vua là thứ bậc xem nhẹ nhất. Bởi dân vốn là gốc nước, có dân mới có nước, có nước mới có vua, ý dân là ý trời. Từ đó Mạnh Tử chủ trương thi hành một chế độ "báo dân" và khuyến cáo các bậc vua chúa: "Nếu người bực trên mà vui với sự vui của dân thì dân cũng vui với sự vui của mình; nếu mình buồn với sự buồn của dân, thì dân cũng buồn với sự buồn của mình. Bực quốc trưởng mà chia vui với thiên hạ, chia buồn với thiên hạ thì thế nào nền cai trị của mình cũng có bề hưng vượng đó". Với các nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ có một phương pháp nên theo: "Dân muốn việc chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ". Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng "sử dân dĩ thời" của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đề xuất một đường hướng kinh tế khá hoàn chỉnh nhằm hướng đến cải thiện đời sống của dân, "nếu bậc quốc trưởng làm cho việc ruộng nương được dễ dàng (đừng bắt họ làm xâu lúc cày cấy gặt hái) và bớt thuế má cho dân, thì dân trở nên phú túc... bực thánh nhân cai trị thiên hạ, khiến ai nấy đều có đủ ruộng và lúa, cũng như họ có đủ nước và lửa vậy. Nếu dân chúng có bề phú túc về đậu và lúa cũng như họ có đủ về nước và lửa thì họ còn ăn ở bất nhân làm chi". Với Mạnh Tử giảm bớt tô thuế không chỉ là việc làm có ý nghĩa đối với dân chúng mà còn là một trong những tiêu chuẩn của người trị dân theo đường lối nhân chính. Trong đường lối nhân chính ngoài việc lấy nhân nghĩa làm gốc, coi “dân là quý” , thi hành chế đọ điền địa và thuế khóa công bằng, Mạnh Tử còn chủ trương phải giảm nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hóa dân. Tóm lại, đường lối “Đức trị” trong Nho giáo từ Khổng Tử đến Mạnh Tử lấy nhân nghĩa làm gốc, coi trọng vai trò của dân. Học thuyết này chứa đụng hầu hết các giá trị tinh hoa của Nho giáo tiên Tần và ngày nay vẫn rất cần được chúng ta tiếp tục nghiên cứu. 2.Tư tưởng thân dân trong các triều đại Việt Nam Tư tưởng tiến bộ này không chỉ có trong nền Nho học, mà tư tưởng này còn được thể hiện ở rất nhiều bậc đi trước. Nếu đọc lại Chiếu dời đô, ta thấy Lý Công Uẩn đã trình bày trước đại chúng về đạo quản lý đất nước của nhà cầm quyền. Đó là việc triều đình luôn nhằm mục đích vì nước vì dân, vì lợi ích lâu dài của đất nước, của dân tộc. Di chúc Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh "khoan thư sức dân". Nhà cầm quyền thời bình, nhiệm vụ quan trọng nhất là phải lo cho đời sống của dân, cấm kỵ nhất là làm cho dân thêm khổ cực, có như vậy thì vào thời chiến mới đủ người, đủ của, đủ ý chí để bảo vệ biên cương. Cho nên, khi chiến thắng rồi các triều Lý - Trần không bắt dân lên núi xẻ đá, vào rừng đẵn gỗ, xuống biển mò ngọc để xây dựng cung điện, đền đài, lăng tẩm... Bởi Việt Nam không có cái kiểu văn minh dùng xương máu của dân để xây lên những cung điện, đền đài nguy nga vĩ đại. Điều này được minh chứng rất rõ khi vua Lý Nhân Tông lúc sắp lâm chung vẫn không thôi lo lắng cho quốc gia, dân tộc, cảm thông với dân. Di chiếu Người để lại: "Trẫm nhắm mắt, việc tang chế trong ba ngày phải bỏ áo chở, thôi hẳn xót thương, việc chôn cất cứ theo lối tằn tiện, không nên xây lăng mộ riêng". Các triều đại Việt Nam độc lập trong lịch sử đều "Lấy dân làm gốc" trong việcban hành các chủ trương, chính sách, từ kinh tế, xã hội, văn hoá, luật pháp đến an ninh,quốc phòng, ngoại giao... Triều Khúc Thừa Dụ có chính sách "Khoan, giản, an, lạc"; triềuLý có chính sách "Ngụ binh ư nông"; triều Trần có "Khoan, thư sức dân" , "Chúng chí thành thành" và nổi tiếng với Hội nghị Diên Hồng; triều Lê quan niệm "Dân như nước có thể đẩy thuyền, lật thuyền", nên vai trò, vị trí người dân được luật hoá trong Bộ luật Hồng Đức. Trong tập "Nước Việt Nam từ cội nguồn xa xưa đến ngày nay" của Giáo sư, Tiến sĩ Pi-e Ri-sa Fe-ray, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và sưu tầm về Á Đông ngày nay (CERAC) của nước Pháp, trong chương I nhan đề " Nước Việt Nam cổ xưa hay sự chinh phục của tính cách Việt Nam" có một đoạn viết khá hấp dẫn về nhà Lê và nhà văn hoá Nguyễn Trãi:" Triều đại nhà Lê (Lê sơ, 1428 -1527) do một chủ đất bình thường là Lê Lợi sáng lập. Ông trở thành Hoàng đế dưới danh hiệu Lê Thái Tổ (1428-1433), được một nhà nho, nhà văn, nhà chiến lược, nhà chính khách tài ba là Nguyễn Trãi giúp đỡ. Lê Lợi đã điều hành một cuộc chiến tranh giải phóng quốc gia thật mẫu mực, cho đến ngày nay, triều đại ông lập nên vẫn còn là một trong những triều đại được hâm mộ và có tiếng tăm lừng lẫy nhất. Nhưng các vua Lê còn làm được những việc hơn thế nữa, bằng Bộ luật Hồng Đức do vua Lê Thánh Tông (1470 - 1497) soạn thảo, các vua Lê đã thể nghiệm và xác định được vị trí "con người Việt" trong tổng thể các mối quan hệ xã hội". Cụ thể, Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện sâu sắc tư tưởng "Lấy dân làm gốc" của dân tộc ta, trong "Điều 294: Trong kinh thành và phường ngõ, làng xóm có kẻ ốm đau mà không ai nuôi, nằm ở đường xá, cầu điếm, chùa quán thì xã quan ở đó phải dựng lều lên mà chăm sóc họ cơm cháo, thuốc men, cốt sao cứu sống họ. Nếu không may mà họ chết thì phải trình quan trên và tổ chức chôn cất, không được để lộ thi hài. Nếu phạm tội này thì quan làng xã bị tội biếm hay bãi chức". Tính chất nhân đạo - "Lấy dân làm gốc" được nêu trong điều này của Bộ luật Hồng Đức chỉ xuất hiện ở châu Âu mấy thế kỷ sau đó, khi nổ ra cách mạng tư sản . Đỉnh cao của tư tưởng coi trọng nhân dân trong thời kì phong kiến phải kể đến Nguyễn Trãi. Tư tưởng coi trọng nhân dân của ông được thể hiện qua tư tưởng nhân nghĩa. Là một trong những lãnh tụ hàng đầu của nghĩa quân Lam Sơn và sau đó giữ các chức quan đầu triều của nhà Lê sơ, Nguyễn Trãi cần phải có quan niệm về vai trò của con người, cách khai thác, phát huy nguồn lực con người để có thể tiến hành thắng lợi nhiệm vụ chính trị đặt ra. Tư tưởng của ông về vấn đề này thể hiện trên mấy điểm chủ yếu như xem dân là gốc của nước, tôn trọng cộng đồng, bồi, dưỡng tư tưởng cộng đồng. Nguyễn Trãi nhận thức rất rõ vai trò vả sức mạnh của dân. Dân là số đông, là lực lượng có vai trò quyết định đối với thắng lợi của kháng chiến, đối với sự tồn tại hay bị phế truất của một triều đại. Trong Chiếu răn bảo Thái tử, thay lời vua Lê, ông viết: "Mến người cố nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân", "Thuyền bị lật mới tin rằng dân như nước". Từ đó, Nguyễn Trãi cho rằng mọi chủ trương, đường lối, mọi quan hệ đối xử của triều đình đều phải căn cứ vào lòng dân. Dân đồng lòng thì có sức mạnh. Vì vậy, việc gì hợp lòng dân thì làm, việc gì không được dân ủng hộ thì bỏ, không được trái lòng dân. Để dân đồng lòng, theo Nguyễn Trãi, cần phải cố kết họ lại bằng tình thương, bằng đối xử công bằng về quyền lợi, chăm lo đến nguyện vọng, lợi ích chính đáng của họ. Đây là quan niệm rất đúng đắn của Nguyễn Trãi, mặc dù ông chưa đặt ra được vấn đề mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư tưởng vì dân và an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”. Như vậy, nhân nghĩa chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu cao, một hoài bão lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt tới. Trước Nguyễn Trãi hàng nghìn năm, nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử triết học Trung Quốc như Mạnh Tử… đã từng nêu rõ vai trò quan trọng của dân, sức mạnh của dân, tai mắt và trí óc sáng suốt của dân. Ở Việt Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo lý vào thời Lý – Trần. Trong thời kỳ đó, những tư tưởng về thân dân, khoan dân, huệ dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp phần tích cực vào việc làm cho thời đại Lý – Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi, quan điểm về an dân đã được ông tiếp thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kỳ hoạt động của mình. An dân có nghĩa là chấm dứt, là loại trừ những hành động tàn ác, bạo ngược đối với dân. An dân còn là sự bảo đảm cho nhân dân có được một cuộc sống yên bình. An dân là không được nhũng nhiễu “phiền hà” dân. Với tư tưởng an dân, Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an dân”, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến, có tính trường tồn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tiếp sau đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Kế thừa tư tưởng nhân đạo của các thế hệ nhà Nho đi trước, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương một đường lối vương đạo cho phép khai thác nguồn lực xã hội từ đội ngũ những người cầm quyền đến sức mạnh dân chúng. Đặc điểm lớn trong đường lối vương đạo Khiêm là đường lối đó dựa vào nhân nghĩa, lấy nhân nghĩa để cảm hóa, tập hợp mọi lực lượng xã hội chứ không dựa cả vào Tam cương, Ngũ thường để ràng buộc con người. Đường lối nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm có lập trường thân dân, coi dân là gốc của nước. Kế thừa tư tưởng của người xưa ông viết: "Trời sinh ra chúng dân, sự ấm no ai cũng có lòng mong muốn cả" (Duy thiên sinh chúng dân, Bão noãn các hữu dục). "Xưa nay nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ được nước, cất phải được lòng dân" (Cổ lai quốc dĩ dân vi bản. Đắc quốc ưng tri tại đắc dân - Cảm hứng). Làm thế nào để có dân làm gốc, để được lòng dân là vấn đề không đơn giản, không phải lúc nào người cầm quyền cũng có thể thực hiện được. Dưới chế độ tư hữu phong kiến, lợi ích vật chất gắn liền với địa vị, điều đó dễ làm cho các bậc vua chúa, quan lại lợi dụng chức quyền vơ vét của cải để làm giàu. Kế thừa tư tưởng người xưa về nguyên lý "tài tụ, nhân tán" Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên những người cầm quyền rằng muốn có bình trị thì không được tham lam, đừng vì tiền bạc mà mất đi lòng nhân nghĩa vì không có nhân nghĩa sẽ mất lòng dân: "Người xưa câu ví đâu có lầm, lấy thuở dương mà biết thuở âm. Yên bách tính thì yên trị đạo, thất thiên kim chớ thất nhân tâm". Mặt khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm yêu cầu nhà cầm quyền phải chăm lo đến đời sống của nhân dân, nhất là dân nghèo. Trong bài Cảm hứng ông viết: "Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân". II.Nội dung cơ bản tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh Thân dân; là nhìn thấy cả cái thực tại và vạch ra được viễn cảnh (tương lai) đúng đắn cho dân phát triển; là biết Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân. Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Chính vì vậy, cả cuộc đời của Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Về thực chất, đây cũng chính là tư tưởng thân dân. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết, là thân dân. Vậy thì vì sao ta phải “Thân dân”? Hồ Chí Minh giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy. Thân dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân nghe, làm được cho dân tin, là nhận biết được những nhu cầu của họ, biết được họ đang suy nghĩ gì, trăn trở cái gì? Họ mong muốn những gì? Và họ đang mong đợi gì ở người khác, nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi suy nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản ánh đúng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của dân. Tháng 10-1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “...Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì... Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Người yêu cầu cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân. Theo Người: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”. Từ thực tế, Bác đã thẳng thắn phê phán nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, khi xuống cấp dưới triển khai công việc thì khệnh khạng như “ông quan” và nội dung truyền đạt thì rất đại khái, hình thức, vì vậy mà quần chúng không hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, không phải vì lợi ích của quần chúng. Việc đặt ra chương trình làm việc, kế hoạch hành động, tuyên truyền, nhiều cán bộ cũng không hỏi xem quần chúng cần cái gì, muốn nghe, muốn biết cái gì, “chỉ mấy ông cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà viết, cứ tưởng những cái mình làm ra là đúng, mình viết là hay. Nào có biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ chắp cằm bà kia”, không ăn thua, không thấm thía, không lợi ích gì cả”. Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Theo Người: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Cán bộ, đảng viên phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh không bao giờ đối lập vai trò người lãnh đạo với người đày tớ của nhân dân trong bản thân người cán bộ của Đảng và Nhà nước, mà trái lại Người yêu cầu phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Là lãnh đạo không có nghĩa là đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Bởi vì: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”. Trong Nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là “công bộc” của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ này. Chính những tư tưởng của Người về vấn đề thân dân đã chỉ đạo cho hoạt động cách mạng của chúng ta trong việc huy động sức mạnh vật chất và tinh thần phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng mối quan hệ đoàn kết toàn dân. Hiện nay, đại đa số cán bộ, đảng viên ta đã nhận thức và làm tốt việc coi trọng nhân dân, vì nhân dân phục vụ, làm cho kinh tế, văn hóa và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện... III.So sánh quan điểm “thân dân” của Hồ Chí Minh với các bậc tiền bối Tìm hiểu quan điểm “thân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy có những điểm tương tự với quan điểm trên đây của Nho gia. Điều đó cũng dễ hiểu, vì Người được tiếp thu một nền giáo dục Nho học từ người cha, một nhà nho có khí phách là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929). Nhưng so với tư tưởng của Nho gia thì quan điểm “than dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều điểm khác về căn bản. Trước hết nói về những điểm gặp nhau giữa Nho gia và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan điểm “thân dân”.  Điểm thứ nhất là thái độ quý trọng dân, thấy được sức mạnh to lớn của dân. Về điều này, Mạnh Tử đã có câu nói lịch sử: “Dân là quý, sau mới đến xã tắc, vua thì xem nhẹ” (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Tuân Tử cũng có câu nói rất nổi tiếng: “Vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền, nước cũng lật thuyền” (Quân giả chu dã, thứ dân giả thủy dã, thủy tắc tải chu, thủy tắc phúc chu). Từ đó, Nho gia thấy được một điểm hết sức quan trọng là: “Dân là gốc nước, gốc vững, nước yên” (Dân duy bang bản, bản cố, bang ninh). Điều đó được nói trong sách Kinh Thi. Hoặc: “Đường lối được dân chúng thì được nước, mất dân chúng thì mất nước” (Đạo đắc chúng tắc đắc quốc, thất chúng tắc thất quốc). Điều đó được nói trong sách Đại Học. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có quan điểm tương tự như Nho gia, khi Người nói: “Trong bầu trời không có gì quý hơn bằng nhân dân. Trong thế gian không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Điểm thứ hai: quan tâm đến đời sống của dân. Nho gia yêu cầu các bậc trị quốc phải bảo đảm cho người dân có đời sống tối thiểu để họ: “ngẩng lên đủ để phụng dưỡng cha mẹ, cúi xuống đủ để nuôi sống vợ con” (sử ngưỡng túc dĩ sự phụ mẫu, phủ cập, dĩ sức thê tử). Muốn vậy, người dân phải có “thu nhập ổn định” (hằng sản) đủ để sống. Nếu trên nét mặt người dân có sắc đói là trách nhiệm của kẻ cầm quyền. Đó là quan điểm tiến bộ của Mạnh Tử. Đây cũng là quan điểm cơ bản trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi người xác định trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trong việc đề ra và thực hiện các chính sách: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm, Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”. Điểm thứ ba: phải gần dân, đối xử đúng mức với dân. Kinh Thư viết: “Đối với dân nên gần, không nên coi là thấp hèn” (dân khả cận, bất khả hạ). Khổng Tử nhắc nhở những người cầm quyền: “Sai khiến dân phải cẩn thận như điều hành một cuộc tế lễ lớn” (Sử dân như thừa đại lễ). Tác phong gần gũi nhân dân là nét tính cách tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Bác hay đi thăm hỏi đồng bào, tìm hiểu đời sống của nhân dân ở nhiều địa phương. Tác phong gần dân của Bác còn thể hiện ở cuộc sống giản dị của Người. Là Chủ tịch nước, nhưng từ chỗ ở đến cách ăn mặc và sinh hoạt hằng ngày của Người không có sự khác biệt bao nhiêu so với người dân bình thường. Bác luôn giáo dục cán bộ, đảng viên không được có tác phong quan liêu, cuộc sống quan cách xa rời nhân dân. Điểm thứ tư: lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Đây là một phương châm sống cao thượng của những nhà nho chân chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện quan điểm này trong toàn bộ hoạt động cũng như đời sống của Người. Bác chăm lo cho tất cả mọi người nhưng không bao giờ đòi hỏi đãi ngộ cho riêng mình. Làm việc gì, sống như thế nào, bao giờ Bác cũng nghĩ đến dân trước hết. Trên đây là mấy nét tạm gọi là điểm chung giữa Nho gia và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan điểm “thân dân”. Sau đây xin đề cập đến những điểm khác nhau. Điểm thứ nhất: thái độ đối với người dân, nhất là người lao động chân tay và cách sống gần dân. Nho gia miệt thị người dân lao động. Về trí tuệ, họ xếp con người thành hai loại: thượng trí và hạ ngu. Thượng trí là bọn cầm quyền, bọn “quân tử”. Hạ ngu là người dân lao động. Họ cho rằng hai loại người này do số phận an bài nên không bao giờ thay đổi (Duy thượng trí hạ ngu bất di). Trong xã hội, họ phân biệt nghề sang, nghề hèn. Họ đề cao lao động trí óc bằng quan điểm: “Vạn cái nghề đều thấp hèn, duy chỉ có đọc sách là cao cả” (vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao). Ngược lại với quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tôn trọng nhân dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn học hỏi nhân dân, học tập kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, coi nhân dân là người thầy của mình. Người tôn trọng tất cả mọi người, tất cả các nghề trong xã hội. Người nói: “Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kỹ sư, nếu làm tròn trách nhiệm cũng vẻ vang như nhau”. Nho gia khuyên những người cầm quyền “nới nhẹ sức dân”, “thương dân”. Điều đó có thể là tích cực, nhưng vẫn thuộc cử chỉ của người trên, của người “chăn dân”, của những ông “quan phụ mẫu”. Về điều này, sách Kinh Thi viết: “Vui thay bậc quân tử là cha mẹ dân” (Lạc chi quân tử, dân chi phụ mẫu). Sách Đại Học viết: “Dân thích điều gì, người thích điều ấy; dân ghét điều gì, người ghét điều ấy, thế mới là cha mẹ dân” (Dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi, thử chi vị dân chi phụ mẫu). Sách Trung Dung cũng cho rằng: “Thương dân như con thì khuyến khích được trăm họ” (Tử thứ dân tắc bách tính khuyến). Ngược lại với quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại cho rằng, những người cầm quyền trong xã hội là “người đầy tớ của nhân dân”. Người nói: “Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là sự phân công làm đầy tớ cho dân. Đó là vinh dự cao nhất” . Trong Di chúc, Người viết: “Phải gìn giữ Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Người còn cho rằng: cán bộ, đảng viên thương dân chưa đủ mà còn phải hiếu với dân, như con cái giữ tròn chữ hiếu đối với cha mẹ. Về cách sống “gần dân”, Nho gia nói “dân khả cận”. Nhưng vua chúa, quan lại phong kiến sống trong lầu son gác tía, mấy khi người dân đen thấy “mặt rồng”, mặt “quan phụ mẫu”. Chúng sống một cuộc đời vương giả đầy nhung lụa và yến tiệc. Trong khi đó người dân sống trong bần hàn, cơ cực. Ngược lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với mọi người như người cha, người bác, người anh gần gũi. Bác ở trong căn nhà sàn giản dị, Bác cũng dùng món ăn dân dã trong bữa cơm, Bác đi dép cao su như mọi người dân lúc đó. Bác thường mặc bộ ka ki bạc màu khi đi công tác, kể cả đi nước ngoài, mặc áo nâu như một lão nông khi ở nhà. Có lúc Bác mặc áo vá. Một lần, mấy cán bộ gần Bác băn khoăn về chuyện này, Bác nói: “Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mà mặc áo vá vai như thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”. Câu nói thật sâu sắc và cảm động. Không biết hiện nay “cái phúc ấy” còn bao nhiêu cán bộ lãnh đạo giữ lại được để cho dân nhờ? Tất nhiên, hiện nay đời sống của nhân dân đã được cải thiện nhiều thì cán bộ không nhất thiết cứ phải mặc áo vá. Điều Bác muốn nói là: cán bộ lãnh đạo mà biết sống giản dị, tiết kiệm, trong sạch, biết nghĩ đến dân và vì dân mà sống thì đó là cái phúc của dân. Điểm thứ hai: mục đích “thân dân”. Mục đích của Nho gia là để làm dịu mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và tầng lớp bị trị, nhất là ở thời đại nhà Chu mâu thuẫn giữa dân và giai cấp quý tộc rất gay gắt. Giai cấp thống trị mong muốn, nếu người dân được “bề trên” “quan tâm” thì yên bề ở vị trí nô lệ của mình, không đụng chạm đến quyền lợi, địa vị của chúng. Ngược lại, mục đích thực hiện quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là để giải phóng người dân thoát khỏi tình trạng bị nô lệ về chính trị, bị kiệt quệ về kinh tế, bị tối tăm về tinh thần, tư tưởng, văn hóa, giáo dục do xã hội cũ gây nên. Người nói: “Tôi chỉ có ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” . Điểm thứ ba: sự hiện thực hóa quan điểm “thân dân”. Quan điểm của Nho gia chủ yếu có ý nghĩa trên diễn đàn, học thuật, không được giới cầm quyền đương thời thi hành, vì đụng chạm đến quyền lợi của chúng. Về mặt vật chất, người dân vẫn sống trong bần hàn, đói rách, vì bị bóc lột thậm tệ. Họ đâu có được “hằng sản” (thu nhập ổn định) đủ để sống, như Mạnh Tử mong muốn. Về tinh thần, tuyệt đại bộ phận người dân sống trong ngu dốt. Hưởng thụ văn hóa, giáo dục là đặc quyền, đặc lợi của giai cấp thống trị. Đâu có như Khổng Tử mong muốn là “hữu giáo vô loại” (có một nền giáo dục không phân biệt đẳng cấp). Ngược lại, quan điểm “thân dân” hay lý tưởng sống vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện bằng chính hoạt động của Người. Người không chỉ nói mà còn làm. Người suốt đời phấn đấu không ngừng cho lý tưởng đó. Người đã tổ chức, lãnh đạo nhằm phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân trong các giai đoạn của cách mạng và đã đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đời sống chính trị cũng như đời sống kinh tế và văn hóa - giáo dục của nhân dân ta không ngừng được cải thiện và nâng cao. Trên đây là một số điểm cơ bản về quan điểm “thân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà tôi đã nêu lên trong sự so sánh tương đối với tư tưởng của Nho gia. Từ những suy nghĩ trên đây, tôi mong muốn một điều là: phương thức để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là thi tìm hiểu có tính chất sách vở, hoặc thi kể chuyện về Người, mà chủ yếu là bằng hành động cụ thể của mỗi người. B. Thực tiễn áp dụng tư tưởng “ Thân dân”. I. Nhận thức của Đảng về tư tưởng thân dân . Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính người dân là người làm nên thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay phần mở đầu đã nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng”. Trang Di chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta và nhân dân ta, Người đặc biệt nhấn mạnh, tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân: "Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan niệm sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người không chỉ khẳng định dân là gốc của nước, mà còn tôn vinh nhân dân: ''Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đòan kết của nhân dân''. Người còn nói, nhân dân là người xây dựng, là người đổi mới, làm nên sự nghiệp lớn, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nhân dân. Quán triệt Điều lệ Đảng và thấm nhuần sâu sắc Tư tưởng Hồ Chí Minh về ''thân dân”, chúng ta càng thấm thía rằng: Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, nếu Đảng xa dân, tách khỏi dân thì Đảng không thể tồn tại được. Không có sự tham gia giám sát của nhân dân thì cán bộ, đảng viên dễ trở thành "ông quan'', ''bà quan" cách mạng chứ khó trở lên ''Người lãnh đạo, Người đầy tớ trung thành của nhân dân". Không có sự giám sát chặt chẽ của quần chúng nhân dân thì tổ chức Đảng khó tránh khỏi tệ quan liêu - một trong những nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền, biến sứ mệnh cầm quyền cao cả của Đảng thành ''Đảng lạm quyền", thậm chí còn dẫn đến thoái hóa, biến chất. Do vậy, sự giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng của nhân dân trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay đang trở nên bức bách và có ý nghĩa sống còn của Đảng ta. Đó là bài học ''thân dân" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Quán triệt tư tưởng trên của Bác, hiện nay chúng ta cần thể hiện tốt 5 phong cách của người cán bộ công chức cách mạng mà Đảng đã nêu ra là: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, và 3 phương châm: “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Để thiết thực học tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức của Bác, thiết nghĩ, mỗi ngành, mỗi cơ quan cũng nên tiêu chí hoá một cách cụ thể một số cái “không” và cái “phải” cho riêng đội ngũ cán bộ công chức của mình trong công việc và trong mối quan hệ đối với nhân dân. II. Những hoạt động thực tiễn thể hiện tư tưởng thân dân. Đến mùa thu năm 2010 này - một năm trọng đại trong lịch sử dân tộc khi đất nước ở trên “điểm hội tụ vàng lịch sử” với nhiều ngày kỷ niệm lớn - công cuộc đổi mới đã trải qua chặng đường một phần tư thế kỷ đầy thách thức và sáng tạo. Đổi mới không phải là một khẩu hiệu chính trị khô khan, mà đã trở thành cây đời ăn sâu bén rễ trong lòng người. Đổi mới đang trở thành sức mạnh lan tỏa, được nhân lên và cộng hưởng trong cộng đồng dân tộc. Cách đây hai năm, khi GDP tính theo đầu người vượt qua ngưỡng 1.000USD, nước ta đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo có thu nhập thấp. Điều quan trọng là, trong khi vốn tích lũy của ta chưa nhiều nhưng dân ta vẫn được hưởng ngay trái ngọt đầu mùa của công cuộc đổi mới. Quan điểm vì dân, vì chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân được thể hiện rất rõ ràng trong mọi quyết sách. Chúng ta không chủ trương tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Phát triển bền vững là hướng đi không thể khác. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia thành công nhất trong trận chiến xóa đói giảm nghèo, giải quyết khá hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Đó trước hết là vì Đảng ta luôn thấm nhuần tư tưởng lấy dân làm gốc, “khoan sức dân” làm kế lâu bền. Đó là minh chứng rõ ràng nhất của quan điểm lớn xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.  Chưa bao giờ thế và lực của đất nước ta mạnh như ngày nay. Đó thực sự là một kỳ tích! Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cuối những năm 80 của thế kỷ trước, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ và Việt Nam phải tự đứng vững và tìm lấy con đường đi tới CNXH của mình, phù hợp với hoàn cảnh mới. Nhìn lại chặng đường 20 năm thực hiện Cương lĩnh của Đảng - một cương lĩnh ra đời trong thời điểm thử thách hết sức hiểm nghèo - chúng ta càng thấy rõ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng vượt khó của toàn dân tộc dưới sự chèo lái của Đảng Cộng sản Việt Nam.  Thế nước đang lên!  Để mọi quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân thì vấn đề nhân dân thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước là một vấn đề rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, trong điều kiện Đảng Cộng sản độc tôn lãnh đạo, nếu kết hợp tốt giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt trận thì sẽ làm phong phú thêm sinh hoạt dân chủ trong xã hội, làm phong phú thêm nền dân chủ ở nước ta. Hiện nay, trong quá trình tiến hành Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, không chỉ đảng viên, mà mọi thành phần xã hội đều được nghiên cứu, thảo luận, góp ý các văn kiện quan trọng của Đảng. Nhiều ý kiến đóng góp xác đáng của nhân dân, trong đó có các nhân sĩ, trí thức, đã được đưa vào văn kiện chính thức của Đảng. Rõ ràng, đây là một sự khảo nghiệm, phản biện và đóng góp trí tuệ rộng rãi và dân chủ. Có một thực trạng là không ít những người nắm quyền lực thường dễ rơi vào tình trạng “không muốn nghe lời ngược”. Vì thế, ngoài quy chế dân chủ ở cơ sở đang thực hiện, hiện nay việc xây dựng đề án phản biện xã hội của MTTQ là nhằm tạo ra một cơ chế hiệu lực đối với các cấp có quyền lực. Khi đã có một cơ chế phản biện rõ ràng thì MTTQ và các đoàn thể đủ điều kiện để phản biện lại trước các quyết định không phù hợp, đưa ra những chứng lý có sức thuyết phục cao. Như thế cũng có nghĩa là không phải đợi khi chính sách đã đưa vào cuộc sống, thấy sai rồi mới phản biện. Chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải bao hàm cả việc xây dựng và thực hiện cơ chế phản biện xã hội. Tư tưởng dân làm gốc phải bắt đầu từ việc hoạch định chính sách, tiếp đến là đề ra các biện pháp thực hiện, cuối cùng là kiểm tra, giám sát quá trình và hiệu quả thực hiện. Mặt khác, cần hết sức lưu ý một thực trạng nữa không kém phần nghiêm trọng là trong khi “mở rộng dân chủ” thì nhiều nơi lại kéo theo sự buông lỏng quản lý, coi thường kỷ cương, phép nước. Để khắc phục điều này, có thể thấy, một trong những nét nổi bật nhất trong phong cách lãnh đạo mới ngày càng rõ nét là việc chọn đúng những khâu, những việc trọng điểm, cần kíp nhất; thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; rồi tổ chức thực hiện kiên quyết, dứt khoát; có kiểm tra, giám sát, uốn nắn kịp thời. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, địa bàn mà gần đây là tại Thủ đô. Nếu không theo phong cách đó thì Hà Nội khó lòng mà xử lý dứt điểm và triệt để các vụ việc phức tạp và bức xúc. Đồng thời lãnh đạo Hà Nội cũng tỏ rõ thái độ cầu thị, lắng nghe dư luận xã hội, cân nhắc thận trọng cách thức xử lý các vấn đề nóng, nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân.  Quốc hội là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, trí tuệ, sức mạnh của nhân dân. Kỳ họp Quốc hội mới đây đã quyết định chưa phê chuẩn Dự án Đường sắt cao tốc Bắc - Nam với số vốn đầu tư lên tới 56 tỷ USD. Quyết định cẩn trọng và đầy trách nhiệm này của Quốc hội được các tầng lớp nhân dân đánh giá cao vì nó hợp lòng dân, phù hợp với hoàn cảnh hiện thời của đất nước.   Khi tốc độ hội nhập của đất nước ngày càng tăng lên thì toàn thể hệ thống cần được nâng cấp lên trình độ mới. Hiệu quả và năng lực cạnh tranh ngày càng phụ thuộc vào sự vận hành nhịp nhàng của từng bộ phận trong toàn bộ guồng máy: Từ giáo dục, đào tạo, tổ chức đến sử dụng để đất nước có  một đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, có bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm. Những “công bộc” này cần thấm nhuần tư tưởng lấy dân làm gốc, làm đúng theo lời dạy của Bác Hồ: Những gì có lợi cho dân thì phải gắng sức làm, những gì có hại cho dân  thì phải hết sức tránh.  Ví dụ thực tế: Là một xã thuần nông của huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế, do vậy vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cải tạo, quy hoạch vườn tạp..., để phát triển kinh tế luôn được lãnh đạo nơi đây trăn trở. Năm 2003, Phú Sơn đã đưa 92,85% diện tích gieo cấy giống lúa cấp 1 vào đồng ruộng; trồng 34,5 ha sắn kết hợp với 6,5 ha lạc; lập 20,5 ha vườn trồng xoài, nhãn... Bên cạnh đó, với kế hoạch chuyển diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả sang đào ao thả cá, toàn xã hiện có 15 hồ nuôi với diện tích 1,2 ha, giúp bà con cải thiện bữa ăn, gia đình có thêm nguồn thu. Đời sống của nhân dân Phú Sơn đang ngày được cải thiện rõ rệt. Tính đến đầu năm 2004, toàn xã đã không còn hộ đói, hộ nghèo giảm từ 41% (2002) còn 31,5 %; 80% hộ có nhà kiên cố và bán kiên cố; 95,55% hộ có điện thắp sáng; Công tác giáo dục được quan tâm và đang từng bước được nâng lên ở cả chất lượng đào tạo và điều kiện trường lớp, trang thiết bị dạy học. Tình hình trật tự trị an trên địa bàn xã cũng được giữ vững, ổn định... Từ một xã nghèo, lãnh đạo xã Phú Sơn đã biết khơi dậy và phát huy sức mạnh tinh thần đoàn kết của người dân để cùng xây dựng quê hương ngày một vững mạnh. Trong những năm qua, chi bộ Đảng Phú Sơn đã rất chú trọng và nỗ lực trong công tác xây dựng Đảng, coi công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh là động lực quan trọng nhất để phát triển xã nhà trên mọi lĩnh vực. Chi bộ Phú Sơn một mặt đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để các đảng viên không ngừng học tập, bồi dưỡng thêm trình độ lý luận chính trị, làm tốt công tác tư tưởng; mặt khác yêu cầu thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo niềm tin trong lòng dân. Hiện tại, trong chi bộ có 5 đồng chí đang theo học lớp quản lý nông nghiệp, kế toán (hệ đại học). Trong công tác phát triển đảng viên, năm qua, có 9 quần chúng ưu tú được xã gởi đi bồi dưỡng chính trị và trong số đó đã kết nạp được 3 đồng chí vào hàng ngũ của Đảng, xóa được tình trạng thôn ''trắng''về đảng viên. ''Chúng tôi lấy dân làm gốc để xây dựng Đảng vững mạnh" là khẳng định của đồng chí Phan Viết Giáo - Bí thư chi bộ xã Phú Sơn. Thực hiện đúng nội dung Quy chế dân chủ tại cơ sở; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người dân đều được chi bộ công khai trước dân, từ mức đóng góp cho cácnguồn quỹ AN-QP, quỹ đền đáp, góp công của cho các công trình xây dựng cơ bản...đến việc phân cấp đất đai cho các hộ gia đình... Ngay cả trong quá trình phát triển đảng viên, chi bộ phải thông qua ý kiến ủng hộ quần chúng ưu tú của đa số nhân dân sở tại. Để hiểu được những tâm tư, nguyện vọng của bà con, chi bộ xã Phú Sơn đã thành lập Ban Dân vận với thành viên là những đảng viên ưu tú. Định kỳ, Ban Dân vận có những buổi tham gia sinh hoạt trực tiếp với dân, để vừa phổ biến nội dung những chủ trương, chính sách của Đảng đến bà con, vừa lắng nghe sự phản ánh từ phía nhân dân, kịp thời sửa đổi những bất cập trong chỉ đạo, chấn chỉnh tư cách những đảng viên chưa gương mẫu...Nhờ vậy, những chương trình hành động của Phú Sơn trong mọi lĩnh vực đều thống nhất với tinh thần tự nguyện của bà con rất cao. Trong một tương lai không xa, trên nền tảng đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân, Phú Sơn sẽ thoát khỏi sự nghèo khó, tiến lên lớn mạnh mọi mặt. Trong những ngày Thu 2010 đầy cảm xúc đặc biệt đón mừng 65 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, thế hệ chúng ta lại sắp có diễm phúc lớn là được chứng kiến thời khắc Thăng Long - Hà Nội tròn 1000 năm tuổi. Một thiên niên kỷ Thăng Long đã hội kết, khắc tạc nên những phẩm giá cao quý nhất của dân tộc Việt Nam, để rồi lan tỏa ra mọi nẻo của giang sơn này, hun đúc ý chí, khát vọng và sức mạnh của con dân nước Việt.  65 năm xây dựng Nhà nước XHCN, 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, đó là cột mốc vàng rạng rỡ sừng sững hiện lên trong lịch sử đầy biến cố thăng trầm và vô cùng oanh liệt của dân tộc ta. Nó lung linh tỏa sáng - một nguồn sáng đặc biệt rọi chiếu từ trong thẳm sâu của lịch sử tới mai sau. Nó giúp chúng ta nhìn rõ hơn bản thân mình, biết rõ hơn hành trang mình đang có, thấy rõ hơn cuộc hành trình dân tộc đang đi. Ở mọi triều đại, trong mọi thời kỳ lịch sử, bài học lấy dân làm gốc luôn là điều cốt tử! C.Nhận thức bản thân, bài học và kinh nghiệm qua tư tưởng “ thân dân” . Chính những tư tưởng của Người về vấn đề thân dân đã chỉ đạo cho hoạt động cách mạng của chúng ta trong việc huy động sức mạnh vật chất và tinh thần phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng mối quan hệ đoàn kết toàn dân. Hiện nay, đại đa số cán bộ, đảng viên ta đã nhận thức và làm tốt việc coi trọng nhân dân, vì nhân dân phục vụ, làm cho kinh tế, văn hóa và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện... Tuy nhiên, dưới tác động mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập cùng những thiếu sót, khuyết điểm chủ quan của chúng ta trong lãnh đạo, quản lý cũng như trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước nên thời gian qua ở nước ta, các hiện tượng tiêu cực xã hội phát triển, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống. Tệ tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, có nguy cơ làm biến chất Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước và chế độ, làm giảm sút mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, gây nguy hại cho sự nghiệp cách mạng. Trong quan hệ giữa Đảng với nhân dân, những biểu hiện như quan liêu, cửa quyền, vô cảm với nhân dân, xa dân, sách nhiễu dân đang có nguy cơ phát triển. Sự tha hóa của một bộ phận cán bộ có chiều hướng phát triển, thể hiện ở xa dân, sách nhiễu dân, tệ quan liêu, tham nhũng… Cán bộ lãnh đạo một số nơi còn lúng túng trước nhiệm vụ đặt ra, hội họp nhiều nhưng giải quyết công việc chưa hiệu quả, không sâu sát thực tế... Đối thoại giữa chính quyền và người dân chưa thường xuyên. Còn đùn đẩy, né tránh trách nhiệm nên giải quyết khiếu nại, tố cáo chậm. Bệnh che giấu khuyết điểm, nơi này đổ lỗi cho nơi kia còn khá phổ biến...Tình trạng hành dân, khinh dân, thậm chí lợi dụng quyền hành để bắt dân cống nạp, vẫn xảy ra ở nơi này nơi kia trong bộ máy chính quyền các cấp, kể cả cấp cơ sở, ở các vùng nghèo, vùng sâu. Nhiều cơ quan công quyền thường có thói quen ra những mệnh lệnh, những quyết định bắt người dân phải thi hành mà không tham khảo ý kiến của nhân dân. Ở nhiều địa phương việc xây dựng Quy chế dân chủ còn hình thức, trên thực tế người dân chưa được thực hiện quyền chính đáng của mình. Chính quyền một số nơi, nhất là ở cơ sở, nơi trực tiếp với nhân dân nhưng lại xa dân, ít quan tâm đến đời sống của nhân dân, không chú ý tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc và tâm tư, nguyện vọng của dân, phong cách chỉ đạo, quản lý nặng về quan liêu, mệnh lệnh, vô cảm trước khó khăn, vất vả của dân. Những chủ trương liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi của dân không được đưa ra bàn bạc, thảo luận, lấy ý kiến của nhân dân hoặc giải thích cho nhân dân hiểu rõ để nhân dân tự giác chấp hành. Vì vậy, một số quyết định của chính quyền cấp cơ sở không được nhân dân đồng tình, có nơi khiến nhân dân bất bình, là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng khiếu kiện vượt cấp, kéo dài. Để khắc phục được tình trạng đó, đòi hỏi những “đày tớ”, “công bộc” của dân, có bổn phận phục vụ nhân dân, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của dân giao, chịu sự kiểm soát của dân và sẽ bị tước quyền nếu đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Để phục vụ nhân dân, người cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, nêu gương, bền bỉ, kiên định, rèn luyện trong thực tiễn. Để làm được điều đó thì phải có giác ngộ sâu sắc về mục đích sống, mục đích hành động và việc làm của mỗi người. Tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân chỉ có được khi cán bộ, đảng viên thực sự thân dân. Thời đại Hồ Chí Minh, những giá trị văn hóa chính trị yêu nước, thương dân, lấy dân là gốc được soi sáng và phát triển rực rỡ, trở thành chân lý khoa học, kim chỉ nam cho hành động. Thân dân, luôn coi dân là gốc là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự đặt mình vào địa vị của người dân mà mình đại diệnđể hiểu, suy xét, chia sẻ tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị, đề xuất , mong muốn của họ. Có lắng nghe, thấu hiểu nguyện vọng chính đáng của dân thì đại biểu dân cử mới thực hiện tốt việc “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại đến cho dân ta phải hết sức tránh”. Bởi, ta có yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Thân dân biểu hiện ở việc cán bộ, đảng viên thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi do pháp luật quy định. Tức là, phải trung thành với mục tiêu lý tưởng, với chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải hướng đến một nền hành chính, một tổ chức, một bộ máy phục vụ nhân dân; luôn gương mẫu hoàn thành kế hoạch được giao và nếu có chức vụ phải biết sử dụng quyền lực để giao việc, kiểm tra, theo dõi, đánh giá, phê bình, khen thưởng một cách công minh chính trực; phải lắng nghe và dựa vào quần chúng nơi cơ quan để xây dựng quy chế làm việc, quy chế dân chủ cơ sở, quy chế chi tiêu tài chính, các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, làm cho cơ quan đoàn kết nhất trí; không xu nịnh, không ưa nịnh, không chia bè chia cánh, cục bộ, bản vị; phải luôn đề cao trách nhiệm vì dân để giải quyết nhanh chóng, kịp thời những chế độ, chính sách liên quan đến người dân; phải thận trọng trong việc xem xét, quyết định các vấn đề hệ trọng có ảnh hưởng đến quyền bình đẳng, quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Khi nhân dân có ý kiến, khiếu nại, tố cáo, kể cả tố cáo cá nhân mình, thì phải biết bình tĩnh lắng nghe, phân tích và có thái độ kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, nếu quyết định của mình chưa đúng. Không né tránh, đùn đẩy, gây phiền hà và khó khăn, tốn kém cho dân… Nói và thực hành “Thân dân” trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay càng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải gần dân, sát dân, luôn luôn lắng nghe và thấu hiểu mọi tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của dân, nhằm giải quyết kịp thời những nhu cầu và lợi ích chính đáng, thiết thực và cụ thể của quần chúng; phải từ trong dân, từ ý chí và tâm trạng của dân để phục vụ nhân dân. Những lời dạy của Bác Hồ: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng...", "Cán bộ, đảng viên là người đầy tớ trung thành của nhân dân..." là một tư tưởng lớn của Bác Hồ về trọng dân xuyên suốt từ ngày thành lập Đảng đến nay. Tư tưởng yêu nước, thương dân, trọng dân, suốt đời vì cách mạng, vì nhân dân mà hy sinh phấn đấu, không ham danh lợi, với một lối sống chân thực, giản dị, khiêm nhường của Bác Hồ là tấm gương đạo đức vô cùng trong sáng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chúng ta học tập và noi theo. "Thân dân " là một truyền thống văn hóa chính trị, chính vì thế việc nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, từ Trung ương đến cơ sở, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị... là điều kiện tiên quyết trong việc kế thừa và phát huy truyền thống này một cách có hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, vào nhiệm vụ xây dựng, củng cố nền quốc. D.phụ lục danh mục và các tài liệu tham khảo Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Con Người Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Nxb Quân đội nhân dân 2008 Đạo Đức Trong Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nxb Công an nhân dân 2008 Một Số Vấn Đề Trong Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Đảng Cộng Sản Việt Nam Nxb Lao động 2005 Đại học, Trung Dung, Nho Giáo, Nxb KHXH, Hà Nội, 1991 Nguồn web: Tusach.thuvienkhoahoc.com Tailieu.vn Diendankienthuc.net

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBX517.DOC