KẾT LUẬN
- Thông qua so sánh chương trình GDTC dành cho
HS THCS của Trung Quốc và Việt Nam phản ánh có
sự khác biệt khá lớn về nội dung, thành phần, thời
lượng môn học cũng như thời gian 1 tiết học của hai
nước.
- Thông qua chương trình GDTC cải cách của
Trung Quốc thấy được một số điểm khác biệt, qua đó
có thể gợi ý cho quá trình xây dựng, đổi mới chương
trình GDTC ở Việt Nam như sau:
+ Tăng quyền tự quyết cho các tỉnh, thành phố,
các trường học và giáo viên.
+ Trú trọng các môn thể thao dân gian, truyền
thống của dân tộc, đưa Võ thuật vào nội dung bắt
buộc, thông qua quá trình học tập giáo dục cho HS
lòng yêu nước, phát huy truyền thống anh hùng, tinh
thần dân tộc.
+ Tăng thời lượng giảng dạy nội dung kiến thức
rèn luyện thân thể và chăm sóc sức khỏe vào chương
trình giảng dạy cho HS.
+ Mở rộng cho HS quyền tự chọn môn học mình
yêu thích, cũng như làm phong phú và đa dạng các
nội dung môn học ở phần tự chọn cho HS.
+Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
đảm bảo đáp ứng yêu cầu phục vụ cho công tác
GDTC và thể thao trong trường học.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh nội dung chương trình giáo dục thể chất của học sinh Trung học Cơ sở Việt Nam và Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC THỂ THAOSỐ 2/2020
60 THỂ DỤC THỂ THAO QUẦN CHÚNGVÀ TRƯỜNG HỌC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 1949 đến nay Trung Quốc trải qua 8
lần cải cách Chương trình GDTC cho HS THCS. Sau
đổi mới năm 1976, Trung Quốc không ngừng tiếp thu
nền giáo dục tiên tiến trên thế giới nhưng vẫn chú
trọng và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc.
Đặc biệt từ năm 2000 đến nay, GDTC Trung Quốc
đạt được nhiều thành tựu về quản lý, đổi mới chương
trình, đổi mới phương pháp giảng dạy v.v.. vậy nên,
nghiên cứu, so sánh chương trình GDTC cho HS
THCS của Việt Nam và Trung Quốc có ý nghĩa lý
luận khoa học cho tham khảo và vận dụng sáng tạo
vào quá trình cải cách chương trình GDTC nước ta.
Quá trình nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau: phân tích và tổng hợp tài liệu, phỏng
vấn tọa đàm, toán học thống kê, phân tích lịch sử.
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. So sánh tổng thể nội dung chương trình
GDTC cho HS TGCS của Việt Nam và Trung Quốc
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thường qui,
tiến hành so sánh tổng thể chương trình GDTC Việt
Nam-Trung Quốc. Kết quả được trình bày tại bảng 1:
Qua bảng 1 cho thấy: Sự khác biệt của tổng thể
nội dung Chương trình GDTC cho HS THCS của Việt
Nam và Trung Quốc như sau:
Thứ nhất: Về thời gian 1 tiết học của Việt Nam
được qui định có thời lượng 45 phút, còn 1 tiết học
của Trung Quốc có thời lượng chỉ có 40 phút (Thực tế
trước năm 2005 Bộ giáo dục Trung Quốc quy định 1
tiết học vẫn có thời lượng là 45 phút).
Thứ hai: Về số tiết học môn học trong một tuần có
So sánh nội dung chương trình giáo dục
thể chất của học sinh Trung học cơ sở
Việt Nam và Trung Quốc
TS. Trương Minh Toàn Q
TÓM TẮT:
Thông qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn,
chúng tôi xác định được sự khác biệt về nội dung
tổng thể, nội dung cụ thể chương trình giáo dục
thể chất (GDTC), cũng như điều kiện cơ sở vật
chất phục vụ công tác GDTC và thể thao trường
học (TTTH) cho học sinh (HS) Trung học cơ sở
(THCS) của Việt Nam và Trung Quốc, qua đó làm
tư liệu tham khảo cho quá trình đổi mới chương
trình GDTC ở Việt Nam.
Từ khóa: Nội dung, chương trình, giáo dục
thể chất, Học sinh Trung học cơ sở, Việt Nam,
Trung Quốc.
ABSTRACT:
Based on researching theoretically and practi-
cally, the research has identified the general and
specific differences in contents of the physical
education program as well as facility using for
physical education and sport activities for middle
school students in Viet Nam and China. There
fore, we can use those references in order to inno-
vate physical education syllabus in Vietnam.
Keywords: Physical Education, middle school
student, Viet Nam, China.
(Ảnh minh họa)
KHOA HỌC THỂ THAO SỐ 2/2020
61THỂ DỤC THỂ THAO QUẦN CHÚNGVÀ TRƯỜNG HỌC
sự khác biệt rõ ràng. Việt Nam qui định 2 tiết/tuần,
Trung Quốc qui định 3 tiết/tuần cho HS của tất cả các
khối lớp. Hơn nữa, trong quá trình nghiên cứu chúng
tôi có tham gia đề án “Điều tra thực tế thực hiện
chương trình cải cách GDTC và TTTH của Thành phố
Thượng Hải giai đoạn 2014 - 2016”. Kết quả khảo sát
phản ánh thực tế các trường đều xây dựng cho HS các
khối lớp từ 4 - 5 tiết/tuần, cá biệt có những trường áp
dụng 6 - 7 tiết/tuần. Ngoài ra các trường còn có rất
nhiều hoạt động thể thao do Thành phố và Chính phủ
phát động. Kết quả trên có thể là do sự khác biệt về
quan điểm nhận thức, ý nghĩa, tác dụng hoặc sự phát
triển tâm sinh lý đối với lứa tuổi HS cụ thể tại mỗi
nước... của các nhà khoa học, những người làm trong
ngành giáo dục đối với môn học GDTC.
Qua đó có thể thấy Trung Quốc đặc biệt coi trọng
môn học GDTC cho HS THCS. Với quan điểm xuyên
suốt quá trình cải cách “Sức khỏe là số 1”, Trung
Quốc coi GDTC là tiền đề cho HS học tập có hiệu
quả các môn học khác.
Thứ ba: Về tỉ lệ phân chia của chương trình cho
môn học có sự khác biệt rất lớn. Việt Nam qui định
tỉ lệ học các môn bắt buộc cho tất cả các khối lớp
là 80%, tỉ lệ học các môn tự chọn là 20%. Trung
Quốc mở rộng hơn cho các em có quyền lựa chọn
môn học mình yêu thích (Trung Quốc các em được
chọn 50%, và như vậy tỉ lệ đối với nội dung bắt
buộc chỉ còn là 50%).
Thứ tư: Về phân loại nội dung môn học, có thể
thấy HS tất cả các khối lớp của Trung Quốc đều được
trang bị kiến thức khoa học cơ bản về giáo dục chăm
sóc sức khỏe, rèn luyện GDTC. Môn Võ thuật được
đưa vào nội dung bắt buộc của chương trình, các trò
chơi dân gian, các môn thể thao truyền thống dân tộc
được trú trọng phát triển. Điều đó cho thấy Trung
Quốc trú trọng trang bị, huấn luyện các kỹ năng thực
dụng trong cuộc sống cho các em ngay từ lứa tuổi HS,
qua đó giáo dục cho HS lòng tự hào dân tộc, phát huy
sức mạnh truyền thống của dân tộc, khai thác được
tiềm năng cũng như phẩm chất, ý chí của các em
ngay từ nhỏ.
Thứ năm: Về nội dung tự chọn. Trung Quốc không
những mở rộng hơn (50% so với 20%), mà nội dung
tự chọn cũng phong phú và đa dạng hơn của Việt
Nam, điều đó tăng sự lựa chọn, cũng như tăng khả
năng phát hiện ra các em có năng khiếu ở các môn
Thể thao khác nhau.
2.2. So sánh nội dung cụ thể chương trình
GDTC cho HS Trung học cơ sở của Việt Nam và
Trung Quốc
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thường qui
tiến hành so sánh nội dung cụ thể chương trình GDTC
Việt Nam - Trung Quốc. Kết quả được trình bày tại
bảng 2:
Qua bảng 2 cho thấy: Nội dung cụ thể chương
Bảng 1. So sánh tổng thể chương trình GDTC Việt Nam - Trung Quốc
Việt Nam Trung Quốc
Đối tượng (lớp) 6 7 8 9 6 7 8 9
1 tiết (phút) 45 45 45 45 40 40 40 40
Số tiết/tuần 2 2 2 2 3 3 3 3
Bắt buộc 80 80 80 80 50 50 50 50 Tỉ lệ
(%) Tự chọn 20 20 20 20 50 50 50 50
Bắt buộc Kiến thức cơ bản, điền kinh, các môn thể dục
cơ bản, đá cầu
Kiến thức cơ bản, điền kinh, các môn thể dục
cơ bản, võ thuật, các bài tập phát triển các tố
chất thể lực
Phân
loại
Tự chọn Bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, cầu lông, Bơi Các môn bóng, cầu lông, âm nhạc vũ đạo,
khiêu vũ, bơi lội, các trò chơi dân gian, thể
thao dân tộc....
Bảng 2. So sánh nội dung cụ thể chương trình GDTC Việt Nam - Trung Quốc
Kiến thức cơ
bản
Điền kinh Các môn TD
cơ bản
Cầu lông,
bóng
Võ thuật Tự chọn
Tiết % Tiết % Tiết % Tiết % Tiết % Tiết %
Việt
Nam
2 2.8 10 - 12 15 - 17 7 - 8 10 - 11 Không qui
định
0 0 Các
Lớp
20
Trung
Quốc
Các
khối
Lớp
8,10
10,10
Các
khối
Lớp
17
15
15
15
Các
khối
Lớp
17
15
15
15
Không qui
định
Bắt buộc các khối
lớp:
8%,10%,
10%,10%
Các
khối
Lớp
50
KHOA HỌC THỂ THAOSỐ 2/2020
62 THỂ DỤC THỂ THAO QUẦN CHÚNGVÀ TRƯỜNG HỌC
trình GDTC của Việt Nam và Trung Quốc có những
điểm như sau:
Thứ nhất: nội dung kiến thức cơ bản về chăm sóc
sức khỏe và rèn luyện thân thể đối với HS rất quan
trọng, thông qua môn học trang bị cho các em kiến
thức cơ bản trong cuộc sống hằng. Tuy nhiên Việt
Nam dành thời lượng rất ít cho nội dung này (chỉ
chiếm 2,8% của chương trình giảng dạy), trong khi đó
Trung Quốc dành thời lượng cho tất cả các lớp lớn
hơn, chiếm tỉ lệ 10% chương trình giảng dạy. Trên
thực tế trong quá trình thực hiện chương trình nội
dung này đều được các trường tăng tỉ lệ chương trình
(cụ thể như thành phố Thượng Hải tỉ lệ chiếm khoảng
16 - 18%).
Thứ hai: Trung Quốc đưa Võ thuật vào phần bắt
buộc của chương trình giảng dạy cho HS của tất cả
các khối lớp, qua đó cho thấy Trung Quốc rất coi
trọng nội dung này, còn Việt Nam trong cả chương
trình Võ thuật là môn thể thao truyền thống dân tộc
tuy nhiên lại không được triển khai.
Thứ ba: Có sự tương đồng về nội dung môn học
giữa Trung Quốc và Việt Nam ở nội dung bắt buộc,
cả hai nước đều áp dụng các môn Điền kinh và các
môn thể thao cơ bản vào nội dung bắt buộc cho HS,
tuy nhiên chiếm tỉ lệ không cao trong thời lượng
chương trình.
2.3. So sánh điều kiện cơ sở vật chất phục vụ
công tác GDTC cho HS THCS của Việt Nam và
Trung Quốc
2.3.1. So sánh quy định về cơ sở vật chất của Việt
Nam và Trung Quốc
Chúng tôi tiến hành so sánh quy định về cơ sở vật
chất của Việt Nam và Trung Quốc. Kết quả được
trình bày tại bảng 3:
Qua bảng 3 cho thấy: Quy định tiêu chuẩn về cơ
sở vật chất của Việt Nam và Trung Quốc cho HS bậc
THCS có thể thấy một số điểm khác biệt cơ bản như
sau:
Thứ nhất: Việt Nam phân chia điều kiện tiêu
chuẩn theo 3 thứ bậc từ thấp đến cao, gồm: điều
kiện tiêu chuẩn tối thiểu cần đạt, điều kiện tiêu
chuẩn mức độ 1 và điều kiện tiêu chuẩn mức độ 2.
Trong khi đó Trung Quốc phân loại tiêu chuẩn theo
qui mô cấp trường, mỗi trường khác nhau có các
tiêu chuẩn cụ thể khác nhau, bao gồm cả về số
lượng và diện tích phục vụ cho nội dung học cụ thể
(cụ thể tại bảng 3).
Thứ hai: Trong tiêu chuẩn phân loại về cơ sở vật
chất ở bậc cao nhất (mức độ 2) Việt Nam qui định bắt
buộc phải có nhà thi đấu đa năng và bể bơi phục vụ
cho công tác đào tạo, trong khi đó Trung Quốc không
có qui định.
Thứ ba: Qua các hạng mục cụ thể có thể thấy
diện tích sử dụng bình quân cần đạt cho 1 HS trong
công tác GDTC của Trung Quốc là vượt trội so với
Việt Nam (6,7 m2 - 9,5m2/1hs so với 2m2/1hs). Mặt
khác Trung Quốc còn qui định cụ thể ở một số nội
dung như: trong sân điền kinh phải có từ 1 - 2 hố cát
với chiều dài từ 5m - 6m, rộng 2,75m - 4m, cùng với
đó đường chạy đà phải dài từ 25m - 45m; các trường
trong quá trình xây dựng thiết kế cần bố trí theo qui
định là 6 lớp học thiết lập 1 khu tập luyện bóng rổ
và 1 khu tập luyện bóng chuyền theo tỉ lệ sân bóng
rổ : sân bóng chuyền = 2:1, và không làm trong sân
điền kinh.
Thứ tư: Quy định của Việt Nam và Trung Quốc
đều linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho các trường
triển khai đó là đối với những địa phương do điều
kiện địa lý có hạn không đạt tiêu chuẩn có thể căn cứ
vào điều kiện cụ thể của trường để tự xây dựng khu
tập luyện sao cho đáp ứng yêu cầu phục vụ đào tạo.
2.3.2 Thực trạng cơ sở vật chất trong công tác
GDTC cho HS THCS của Việt Nam và Trung Quốc
* Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ công tác
GDTC ở Việt Nam
Ở nước ta công tác GDTC thời gian qua mặc dù
được các địa phương, nhà trường quan tâm thực hiện
và đạt một số kết quả nhất định, nhưng còn gặp nhiều
khó khăn, hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu điều
kiện cho công tác GDTC và TTTH, cũng như chưa
đáp ứng được việc thực hiện đổi mới chương trình, đổi
mới phương pháp dạy và học hiện nay.
Bảng 3. Tiêu chuẩn cơ sở vật chất của Trung Quốc
18L = 900 h/s 24L = 1200 h/s 30L = 1500 h/s 36L = 1800 h/s
Tên
Số lượng m2 Số lượng m2 Số lượng m2 Số lượng m2
Sân ĐK 250m 7031 300m 9150 300m 9150 300m 9150
Sân BR 2 1216 3 1824 3 1824 4 2432
Sân BC 1 286 1 286 2 572 2 572
khu BB ngoài
trời
8
10
12
14
Tổng 8533 11260 11546 12154
KHOA HỌC THỂ THAO SỐ 2/2020
63THỂ DỤC THỂ THAO QUẦN CHÚNGVÀ TRƯỜNG HỌC
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hệ
thống cơ sở vật chất vẫn còn nhiều khó khăn khi cấp
Trung học cơ sở có 12% số trường có nhà tập thể dục
thể thao, 15% số trường có sân tập thể dục thể thao.
Như vậy, cả nước hiện có 80% số trường THCS thiếu
nhà tập; 99,6% số trường thiếu bể bơi.Trong khi đó,
mục tiêu mà đề án phát triển GDTC và TTTH giai
đoạn 2016-2020 đặt ra là có ít nhất 85% trường trung
học cơ sở có sân tập; 70% trường có nhà tập đa năng
được trang bị đủ tiêu chuẩn. Qua đó có thể thấy thực
trạng cơ sở vật chất cho các trường hiện nay còn thiếu
trầm trọng, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra cho công tác
GDTC và TTTH. Theo TS Nguyễn Duy Quyết, Hiệu
trưởng trường ĐH Sư phạm TDTT Hà Nội đánh giá
một trong những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng
đến công tác GDTC và TTTH đó là “cơ sở vật chất
cho đào tạo còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ
các điều kiện về sân tập, nhà tập, bể bơi, trang thiết
bị dạy học hiện đại... Từ đó, việc lựa chọn nội dung
các môn học trong chương trình đào tạo ở các trường,
các địa phương chưa đáp ứng yêu cầu của môn học”.
PGS.TS Vũ Đức Thu, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục
thể chất (Bộ GD-ĐT), chỉ ra khó khăn của công tác
giáo dục thể chất trong các nhà trường: “Cơ sở vật
chất thì quá thiếu thốn, còn có việc né tránh đầu tư”.
Còn PGS Châu Vĩnh Huy, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư
phạm Thể dục thể thao TP HCM cho rằng trong khi,
đa số các trường ở thành thị thì thiếu quỹ đất, ở nông
thôn lại thiếu kinh phí đầu tư xây dựng các công trình
TDTT. “Thực tế trong trường học phổ thông, năng lực
giáo viên GDTC chưa thực sự được khai thác tối đa,
vướng mắc chính ở đây là điều kiện về cơ sở vật chất.
Đặc thù của GDTC và thể thao học đường đòi hỏi
điều kiện sân bãi, thiết bị dụng cụ phải đáp ứng được
nhu cầu tập luyện từ cơ bản đến nâng cao. Nhưng các
trường học hiện nay, hầu hết không đảm bảo không
gian hoạt động, cơ sở để triển khai học tập và tập
luyện các môn thể TDTT theo xu hướng mở”. Tại
Huế tình trạng tương tự cũng xảy ra, TS Nguyễn
Gắng (Trưởng khoa Giáo dục thể chất, ĐH Huế) cũng
cho rằng “Hiện nay trong TP Huế rất nhiều trường
THCS không có khuôn viên. Vì không có sân chơi,
HS muốn tập thể dục, chơi thể thao phải ra công viên
tìm chỗ”.
* Thực trạng cơ sở vật chất trong công tác GDTC
ở Trung Quốc
Đánh giá thực trạng cơ sở vật chất cho công tác
GDTC và TTTH, năm 2010 Bộ Giáo dục Trung Quốc
thực hiện điều tra thực trạng cơ sở vật chất cho công
tác GDTC cho hơn 55000 trường Tiểu học và Trung
học trên toàn quốc, kết quả cho thấy tại Trung Quốc
các trường chưa đáp ứng yêu cầu đầy đủ so với “Quy
định tiêu chuẩn về cơ sở vật chất” theo tiêu chuẩn
của Bộ Giáo dục đề ra. Cụ thể ở cả ba cấp học (cấp
Tiểu học, Trung học Cơ sở, Trung học phổ thông) số
lượng trường đạt tiêu chuẩn qui định về cơ sở vật chất
cho GDTC và TTTH chiếm chưa đến 50%. Bên cạnh
đó việc trang bị trang thiết bị dụng cụ giảng dạy cũng
chưa đạt yêu cầu, cụ thể đối với bậc Tiểu học chỉ có
50% số trường có đầy đủ trang thiết bị theo yêu cầu,
cả hai bậc Trung học cơ sở và THPT có 66% số
trường đạt yêu cầu theo qui định.
Đến năm 2015 - 2016 Trung Quốc tiến hành khảo
sát một số khu vực vùng miền trong cả nước, kết quả
cho thấy có sự tiến triển rõ rệt: ở cấp bậc Tiểu học số
trường đạt “Tiêu chuẩn quy định” chiếm hơn 60%, ở
cấp THCS và THPTsố trường đạt chiếm gần 65%.
Tuy nhiên tỉ lệ đạt tiêu chuẩn giữa các vùng có nhiều
khác biệt. Ví dụ ở các nội dung sân bóng bàn, sân
bóng rổ các trường trên các vùng đạt tiêu chuẩn với
tỉ lệ cao (thành phố Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng
Châu, Sơn Đông... sân bóng rổ, bóng bàn đều đạt gần
100%, ở các vung núi và đồng bằng cũng đạt tới hơn
80%), nhưng ở nội dung nhà thi đấu thể thao thì ở
vùng núi và đồng bằng có chỉ chiếm tỉ lệ 2,8%. Số
lượng các trường có bể bơi cho HS tập luyện chiếm tỉ
lệ thấp chỉ đạt chưa đến 15%. Giải thích cho sự phân
bố không đồng đều này theo GS.TS Thái Thịnh
Phương chuyên gia cải cách GDTC Thượng Hải cho
rằng, tại các thành phố lớn các trường có diện tích
mặt bằng không nhiều, nhưng nhà trường xây dựng
rất nhiều các phòng tập, từ phòng tập thể dục dụng
cụ, đến phòng tập các môn thể thao giải trí, phòng tập
các môn Bóng cũng được xây dựng tối đa, đặc biệt ở
những nơi có không gian mở đều được đặt bàn Bóng
bàn tạo điều kiện thuận lợi cho HS vui chơi tập luyện.
Còn theo GS.TS Thẩm Kiến Hoa thì tại một số các
trường còn có hiện tượng chỉ tập trung vào các môn
thể thao thế mạnh của mình để xây dựng chương trình
đào tạo, nên điều kiện về cơ sở vật chất cho một số
môn thể thao cơ bản chưa được quan tâm đầu tư đúng
mức. Mục tiêu của Trung Quốc đặt ra đến năm 2030:
100% số trường trên toàn quốc đạt tiêu chuẩn qui
định về cơ sở vật chất.
Qua đó có thể thấy thực trạng về điều kiện cơ sở
vật chất tại các trường THCS ở Việt Nam và Trung
Quốc nhìn chung chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu
cho công tác GDTC và TTTH của mình, tuy nhiên
qua số liệu thống kê của Bộ Giáo dục hai nước chỉ ra
có sự khác biệt rõ ràng trong việc xây dựng và trang
bị cơ sở vật chất cho các trường. Trong khi các trường
THCS ở Việt Nam về tổng thể đánh giá chỉ có
khoảng gần 20% các trường đáp ứng theo yêu cầu
của Bộ Giáo dục, thì tại Trung Quốc số trường đạt
KHOA HỌC THỂ THAOSỐ 2/2020
64 THỂ DỤC THỂ THAO QUẦN CHÚNGVÀ TRƯỜNG HỌC
tiêu chuẩn chiếm gần 65%, trong đó các môn thể thao
thế mạnh được các trường ở Trung Quốc đầu tư rất
lớn về cơ sở vật chất, với tỉ lệ đạt tiêu chuẩn xấp xỉ
90%. Bên cạnh đó diện tích bình quân tối thiểu bình
quân dành cho 1 HS của Trung Quốc cũng rất cao (6,7
m2 - 9,5m2/1hs so với 2m2/1hs).
3. KẾT LUẬN
- Thông qua so sánh chương trình GDTC dành cho
HS THCS của Trung Quốc và Việt Nam phản ánh có
sự khác biệt khá lớn về nội dung, thành phần, thời
lượng môn học cũng như thời gian 1 tiết học của hai
nước.
- Thông qua chương trình GDTC cải cách của
Trung Quốc thấy được một số điểm khác biệt, qua đó
có thể gợi ý cho quá trình xây dựng, đổi mới chương
trình GDTC ở Việt Nam như sau:
+ Tăng quyền tự quyết cho các tỉnh, thành phố,
các trường học và giáo viên.
+ Trú trọng các môn thể thao dân gian, truyền
thống của dân tộc, đưa Võ thuật vào nội dung bắt
buộc, thông qua quá trình học tập giáo dục cho HS
lòng yêu nước, phát huy truyền thống anh hùng, tinh
thần dân tộc.
+ Tăng thời lượng giảng dạy nội dung kiến thức
rèn luyện thân thể và chăm sóc sức khỏe vào chương
trình giảng dạy cho HS.
+ Mở rộng cho HS quyền tự chọn môn học mình
yêu thích, cũng như làm phong phú và đa dạng các
nội dung môn học ở phần tự chọn cho HS.
+Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
đảm bảo đáp ứng yêu cầu phục vụ cho công tác
GDTC và thể thao trong trường học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2. Bộ Giáo dục, Chương trình giáo dục Phổ thông môn Thể dục, Nxb Giáo dục Việt Nam 2006.
3. Nghị định số 11/2015/NĐ-CP của Thủ tướng chính phủ, Quy định về Giáo dục thể chất và hoạt động thể
thao trong nhà trường.
Nguồn bái báo: bài báo được trích từ đề tài NCKH: “ ”(Nghiên cứu
so sánh cải cách chương trình GDTC cho HS Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông Việt Nam và
Trung Quốc), Luận án tiến sĩ, Học viện Thể thao Thượng Hải, Trung Quốc, đã nghiệm thu tháng 6 năm 2017.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 6/2/2020; ngày phản biện đánh giá: 24/3/2020; ngày chấp nhận đăng: 21/4/2020)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_noi_dung_chuong_trinh_giao_duc_the_chat_cua_hoc_sinh.pdf