KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 264 trường hợp ung thư vú
được thực hiện cả hai phương pháp HMMD và
FISH chúng tôi có kết luận như sau:
Mức độ tương hợp kết quả giữa hai phương
pháp là trung bình theo thống kê Cramer’s
V=0,94 với p=0,001.
Mặc dù có sự tương hợp cao trong nhóm
HMMD (-) và HMMD 3 (+), nhưng vẫn còn
khoảng 3,8% có HMMD (-) nhưng FISH có
khuếch đại (thuộc nhóm khuếch đại giáp biên
và thấp) và nguyên nhân được cho là do dung
dịch cố định và thời gian cố định không đúng.
Nhóm HMMD 3 (+) nhưng FISH không khuếch
đại có hai trường hợp, do dương tính giả và do
ảnh hưởng của đa bội nhiễm sắc thể 17.
Nhóm HMMD 2 (+) luôn luôn là nhóm thách
thức, và với tình hình hiện tại chúng ta nên thực
hiện FISH để xác định có khuếch đại hay không
giúp cho bệnh nhân hưởng lợi ích từ các liệu
pháp điều trị.
HER2 là một yếu tố tiên lượng xấu(1,20,24) Tăng
nguy cơ ung thư vú tương đối , thời gian sống
còn toàn bộ bị rút ngắn. HER2 là mục tiêu điều
trị nhắm trúng đích phân tử trong ung thư vú và
một mục tiêu tiềm năng điều trị trong bệnh ung
thư buồng trứng, ung thư dạ dày(19) chính vì vậy
chọn lựa phương pháp đánh giá HER2 chính xác
đáp ứng được yêu cầu điều trị là một đòi hỏi cấp
thiết cho các phòng xét nghiệm giải phẫu bệnh.
Bộ môn giải phẫu bệnh được hân hạnh nhận
mẫu từ nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên đó
cũng là một thách thức lớn vì chúng tôi không
thể kiểm soát được dung dịch cố định cũng như
thời gian cố định mẫu. Tùy từng trường hợp,
chúng tôi tối ưu hóa quy trình để có kết quả tốt
nhất cho cả hai phương pháp. Nghiên cứu lâm
sàng bổ sung là cần thiết để làm rõ thêm mối
quan hệ giữa HER2 và ung thư.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh phương pháp hóa mô miễn dịch và lai tại chỗ huỳnh quang đánh giá Her2 trong ung thu vú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 174
SO SÁNH PHƯƠNG PHÁP HÓA MÔ MIỄN DỊCH VÀ LAI TẠI CHỖ
HUỲNH QUANG ĐÁNH GIÁ HER2 TRONG UNG THU VÚ
Đoàn Thị Phương Thảo*, Hứa Thị Ngọc Hà*, Phan Đặng Anh Thư, Nguyễn Thị Hồng Nguyệt*,
Lý Thanh Thiện*, Đặng Hoàng Minh*
TÓM TẮT
Giới thiệu: Ứng dụng các phương pháp HMMD và FISH xác định tình trạng HER2/ ung thư vú nhằm
đưa ra kết quả chính xác nhất để bệnh nhân nhận được phác đồ điều trị thích hợp nhất.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Phương pháp HMMD: thực hiện
trên máy tự động Ventana, sử dụng PATHWAY™ HER2 (clone CB11) là một kháng thể đơn dòng phát hiện
kháng nguyên c-2erbB trong các mẫu ung thư. Đã được FDA chấp thuận. Phương pháp lai tại chỗ huỳnh quang
(FISH): dùng bộ kit Path Vysion, cũng đã được FDA chấp thuận và ASCO and CAP khuyến cáo là “tiêu
chuẩnvàng” cho đánh giá sự khuếch đại gen HER2.
Kết quả: Khảo sát 264 trường hợp thực hiện đồng thời HMMD và FISH -Kết quả HMMD: tỉ lệ dương
tính 3(+) 26,9%, nếu xem cả những trường hợp 2(+) là dương tính thì tỉ lệ HER2 (+) trên HMMD là 39,8%.
Kết quả âm tính 60,2%. -Kết quả FISH: không khuếch đại là 67% và khuếch đại là 33%. Tỉ lệ HER2/CEP17 ≥
2,0 là ngưỡng để đánh giá có khuếch đại. Khuếch đại giáp biên 6,1%, khuếch đại thấp 9,5%, khuếch đại cao
17,4%. Trong nghiên cứu này, thống kê Cramer’s V = 0,94 với p=0,001, cho thấy mối quan hệ giữa hai phương
pháp này tương quan mạnh và giữa hai phương pháp có sự khác biệt nhỏ, đặc biệt là nhóm HMMD 2(+).
Từ khóa: Hóa mô miễn dịch, Lai tại chỗ huỳnh quang, HER2
ABSTRACT
COMPARISON METHODS IMMUNOHISTOCHEMISTRY AND FLUORESCENT IN SITU
HYBRIDIZATION ASSESSMENT HER2 GENE IN BREAST CANCER
Doan Thi Phuong Thao, Hua Thi Ngoc Ha, Nguyen Thi Hong Nguyet, Ly Thanh Thien,
Dang Hoang Minh, * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 174 - 181
Introduction: Application of IHC and FISH methods to determine HER2 status in breast cancer in order to
provide the most accurate results for patients receiving treatment most appropriate
Methods: IHC: Immunohistochemical analysis was performed as specified by the autoimmunostainer using
the Pathway kit. The slides then were placed on an autoimmunostainer using the primary monoclonal antibody
and polymer detection system supplied by Ventana. FISH: FISH was performed as specified by the manufacturer,
with a guideline to improve the accuracy of HER2 testing in invasive breast cancer of ASCO and CAP. The
PathVysion kit includes a Spectrum Orange-labeled DNA probe specific for the HER2 gene locus and a
Spectrum Green-labeled probe specific for the alpha satellite DNA sequence at the centromeric region of
chromosome 17 (CEP17). FISH and IHC results were compared with each other by means of Cramer's V
statistics.
Result: 264 cases performed simultaneously IHC and FISH. IHC: HER2 3(+) 26.9%, HER2 2(+) 12.9%,
HER(-): 60.2% FISH: Non Amplified: 67.0%; Border Amplified: 6.1%; Low-Copy Amplified: 9.5%; High-Copy
amplified: 17.4%; Correlation between IHC and FISH assays: IHC (-) cases : Non Amplified: 153/159 (96.2%);
∗Bộ Môn Giải Phẫu Bệnh – Đại Học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Đoàn Thị Phương Thảo ĐT: 0938008418 Email: thaodoanthiphuong@ymail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 175
Border Amplified: 4/159 (2.5%); Low-Copy Amplified: 2/159 (1.3%); High-Copy amplified: Non. IHC2+ cases:
Non Amplified: 22/34 (64.7%); Border Amplified: 8/34 (23.5%); Low-Copy Amplified: 2/34 (5.9%); High-Copy
amplified: 2/34 (5.9%). IHC 3+ cases: Non Amplified: 2/71 (2.8%); Border Amplified: 4/71 (5.6%); Low-Copy
Amplified : 21/71 (29.6%); High-Copy amplified: 44/71 (62.0%). Cramer's V statistics = 0.94 with p=0.001
Conclusions: Correlation between IHC and FISH assays is intermediate. FISH should be done for all
patients in need of treatment with Trastuzumab.
Key words: IHC, FISH, HER2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú có 18% đến 30%(25,29), biểu hiện
quá mức của HER2. Sự khuếch đại gen và/hoặc
biểu hiện quá mức của thụ thể HER2 là yếu tố
tiên lượng cho cả các trường hợp đã di căn hoặc
chưa, tiên đoán đáp ứng hóa trị liệu và không
đáp ứng nội tiết và là chỉ định cho điều trị kháng
thể đơn dòng trastuzumab(6,15). Tầm quan trọng
của tình trạng HER2 trong việc đưa ra quyết
định điều trị, những bệnh nhân có kết quả
dương tính giả sẽ không hưởng lợi từ các liệu
pháp điều trị .nguy cơ gây độc cho cơ tim khi
điều trị kháng thể đơn dòng(26) đã khiến các nhà
nghiên cứu tập trung chú ý vào độ nhạy và độ
đặc hiệu của các xét nghiệm khác nhau dùng để
xác định tình trạng HER2. Các xét nghiệm đánh
giá HER2 phải là định lượng hoặc bán định
lượng, có khả năng lặp lại và phải là xét nghiệm
phân biệt rõ ràng giữa các tế bào u có hoặc
không khuếch đại/biểu hiện quá mức HER2(12,16).
Để xác định tình trạng HER2, những phương
pháp dựa vào hình ảnh mô học như Hóa mô
miễn dịch (IHC), lai tại chỗ huỳnh quang (FISH)
đã thay thế được các phương pháp khác như
Southern blot, xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên
kết men (enzyme-linked immunosorbent assay),
và PCR, những xét nghiệm này đòi hỏi phải sử
dụng mô tươi, ly giải toàn bộ mẫu mô nên kết
quả có thể không chính xác do sự trộn lẫn giữa
mô ung thư và mô lành(18,13).
Mục tiêu nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm
- Xác định tỉ lệ khuếch đại HER2 trong ung
thư vú.
- Đánh giá mức độ tương hợp giữa hai
phương pháp Hóa Mô Miễn Dịch và Lai Tại Chỗ
Huỳnh Quang.
ĐỐI TƯỢNG -- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán ung thư
vú tại Bộ môn Giải phẫu bệnh Đại Học Y Dược
TP. Hồ Chí Minh trong năm 2009.
Được thực hiện đồng thời hóa mô miễn dịch
và FISH.
Hóa Mô Miễn Dịch
Thực hiện trên máy tự động Ventana, sử
dụng PATHWAY™ HER2 (clone CB11) là một
kháng thể đơn dòng phát hiện kháng nguyên c-
2erbB trong các mẫu ung thư. Đã được FDA
(Food and Drug Administration) chấp thuận(4).
Người khảo sát HMMD độc lập với người
khảo sát FISH
Chúng tôi cho điểm theo thang điểm khuyến
cáo của nhà sản xuất
0: màng tế bào ung thư xâm lấn hoàn toàn
không bắt màu
1(+): màng tế bào ung thư xâm lấn bắt màu
rãi rác, nhạt.
2(+): màng tế bào ung thư xâm lấn bắt màu
hoàn toàn, mỏng, nhạt ≥30%.
3(+): màng tế bào ung thư xâm lấn bắt màu
hoàn toàn, dày, đậm, ≥30%.
Tất cả những trường hợp nhuộm bào tương
đều được nhuộm lại.
Lai tại chỗ huỳnh quang (FISH)(30)
FISH được thực hiện theo quy trình của nhà
sản xuất. Bộ kit bao gồm đoạn dò PathVysion
DNA Spectrum Orange-đặc hiệu cho gen HER2 và
đoạn dò Spectrum Green đặc hiệu cho các trình tự
DNA tại tâm động của nhiễm sắc thể 17 (CEP17).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 176
Luôn luôn cắt hai tiêu bản song song,
nhuộm H&E và làm FISH.
Trên tiêu bản H&E xác định chính xác vùng
tế bào ung thư xâm lấn, đối chiếu với tiêu bản
thực hiện FISH.
Mẫu được cắt mỏng 4-μm, gắn lên tiêu bản
đã được tráng organosilane.
Khử sáp.
Pretreate trong axit Clohydric 0.2N và natri
thiocyanate theo quy định.
Khử protein màng nhân trong dung dịch
protease ở 37°C trong 6-7’, tùy mẫu (thay vì 10’,
theo quy định trong bao bì).
Sau khi rửa, các tiêu bản được cố định trong
formalin đệm trung tính 10’.
Rửa sạch, sấy khô.
Lai với hỗn hợp đoạn dò kép HER2/CEP17
trong vòng 18 giờ.
Rửa sau lai, sấy khô, nhuộm tương phản nền
với DAPI.
Bảo quản tiêu bản ở -20°C và được khảo sát
trong vòng 24 giờ.
Cách đánh giá tiêu bản FISH
Chúng tôi khảo sát FISH theo hướng dẫn
của nhà sản xuất. Tín hiệu Spectrum Orange và
Spectrum Green được đếm trong 20 nhân tế bào
ung thư xâm lấn không chồng chất, trường hợp
tỉ lệ chưa phân định được khuếch đại hay không
hoặc giáp biên, chúng tôi đếm 40 nhân, 60 nhân
ung thư. Tổng số tín hiệu màu cam (HER2) và
tín hiệu màu xanh lá cây (CEP17) được ghi nhận
và tính tỷ lệ HER2/CEP17.
-Tỉ lệ HER2/CEP17 < 2,0: không khuếch đại.
-Tỉ lệ HER2/CEP17 ≥ 2,0: khuếch đại.
-2,0 ≤ Tỉ lệ HER2/CEP17 < 2,5: khuếch đại
GIÁP BIÊN.
-2,5 < Tỉ lệ HER2/CEP17 < 5: khuếch đại
THẤP.
-Tỉ lệ HER2/CEP17 ≥ 5: khuếch đại CAO.
Số tín hiệu màu xanh lá cây sẽ xác định số
lượng nhiễm sắc thể 17 tùy theo số lượng là 1, 2
và 3 hoặc nhiều hơn tương ứng nhiễm sắc thể 17
đơn bội, lưỡng bội, và đa bội.
Phương pháp thông kê
Sử dụng phần mềm SPSS 17.0.
KẾT QUẢ
Sau khi loại bỏ những trường hợp không
đạt yêu cầu (tín hiệu huỳnh quang không rõ
ràng), chúng tôi khảo sát 264 mẫu ung thư vú
được làm đồng thời HMMD và FISH, được kết
quả như sau:
Các đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Tuổi: tuổi trung bình 50,8 ± 11,1, trung vị 50
tuổi
Nhóm tuổi Số ca Tỉ lệ %
20-29 4 1,5
30-39 32 12,1
40-49 86 32,6
50-59 94 35,6
60-69 26 9,8
70-79 18 6,8
>80 4 1,5
Tổng cộng 264 100,0
Loại Số ca Tỉ lệ
NOS 244 92,4
Tiểu thùy 6 2,3
Nhú 4 1,5
Bã khô 4 1,5
Nhầy 6 2,3
Tổng cộng 264 100,0
Phân độ mô học ung thư
Phân độ mô học: trong nhóm 244 ca NOS
được đánh giá độ mô học theo bảng sau:
Độ mô học Số ca Tỉ lệ
NOS độ1 2 ,8
NOS độ 2 90 36,9
NOS độ 3 152 62,3
Tổng cộng 244 100,0
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 177
Kết quả hóa mô miễn dịch
Bảng 1: Kết quả hóa mô miễn dịch
HMMD Số trường hợp Tỉ lệ %
Âm tính 159 60,2
2+ 34 12,9
3+ 71 26,9
Tổng cộng 264 100
Tỉ lệ dương tính 3(+) là 71 trường hợp
(26,9%), nếu xem cả những trường hợp 2(+) là
dương tính thì tỉ lệ HER2 (+) trên HMMD là
39,8%.
Kết quả FISH
Bảng 2. Kết quả FISH
Kết quả FISH Số trường hợp Tỉ lệ %
Không khuếch đại 177 67,0
Khuếch đại giáp biên 16 6,1
Khuếch đại thấp 25 9,5
Khuếch đại cao 46 17,4
Tổng cộng 264 100,0
Không khuếch đại gen HER2 là 67% và
khuếch đại là 33%.
Tỉ lệ HER2/CEP17 = 2,0 là ngưỡng để đánh giá
có khuếch đại.
Khuếch đại giáp biên 16 trường hợp (6,1%).
Khuếch đại thấp 25 trường hợp (9,5%).
Khuếch đại cao 46 trường hợp (17,4%).
Tương hợp giữa hai kết quả
Kết quả FISH
Không khuếch đại Khuếch đại giáp biên
Khuếch đại
thấp
Khuếch đại
cao
Tổng cộng
Số ca 153 4 2 0 159
Âm tính
% IHC 96,2 2,5 1,3 0 100
Số ca 22 8 2 2 34
2+
% IHC 64,7 23,5 5,9 5,9 100
Số ca 2 4 21 44 71
Kết quả
HMMD
3+
% IHC 2,8 5,6 29,6 62,0 100
Số ca 177 16 25 46 264
Tổng cộng
% IHC 67,0 6,1 9,5 17,4 100
Cramer’s V = 0,649 với p= 0,001
Đánh giá sự tương quan giữa hai kết quả của
hai phương pháp HMMD và FISH, chúng tôi
dùng phép thống kê Cramer’s V là phương
pháp thông kê đánh giá mức độ quan hệ mật
thiết của hai mẫu. Thống kê Cramer’s V có hai
giá trị 0 và 1, giá trị 0 cho biết không có mối
quan hệ nào và giá trị 1 cho biết mối quan hệ
giữa hai phương pháp là hoàn hảo.
Trong nghiên cứu này, Cramer’s V = 0,649
với p=0,001, cho thấy mối quan hệ giữa hai
phương pháp này tương quan khá và giữa hai
phương pháp có sự khác biệt nhỏ về xác định
tình trạng HER2, đặc biệt là nhóm
HER22(+)/HMMD.
Nhóm HMMD âm tính có 6/159 trường hợp
khuếch đại gen HER2 chiếm 3,8%, trong đó có 2
trường hợp khuếch đại thấp và 4 trường hợp
khuếch đại giáp biên, không có khuếch đại cao.
Nhóm HMMD 3(+) có 2/71 trường hợp
không khuếch đại gen HER2 chiếm 2,8% và
khuếch đại cao 62%.
Nhóm HMMD 2(+) đây là nhóm khó tiên
đoán có khuếch đại gen hay không, bắt buộc
phải làm thêm FISH. Trong nhóm này có 12/34
khuếch đại gen HER2 chiếm 35,3%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 178
So sánh tỉ lệ đa bội nhiễm sắc thể 17 với
HMMD
Bảng 4 So sánh tỉ lệ đa bội nhiễm sắc thể 17 với
HMMD
Số trường hợp Tỉ lệ %
Âm tính 7 58,4
3+ 5 41,6
Tổng cộng 12 100
Tỉ lệ đa bội nhiễm sắc thể 17: 12/264 trường
hợp, chiếm 4,5%.
So sánh trung bình bản sao HER2 với tỉ lệ
HER2/CEP17
Bảng 5 So sánh trung bình tín hiệu HER2 với tỉ lệ
HER2/CEP17
Trung bình bản sao
HER2/nhân
Tổng
cộng
≤4 >4
Số ca 165 12 178 Không
khuếch đại % 92,7% 7,3% 100
Số ca 0 87 86 Khuếch đại
% 0% 100,0% 100
Số ca 165 99 264 Tổng cộng
% 62,4% 37,5% 100
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ sử dụng
bộ kít Path Vysion, đánh giá đồng thời cả HER2
và CEP 17. Mục đích chính của nghiên cứu
không phải là so sánh sự khuếch đại gen giữa
các phương pháp, nhưng chúng tôi cung cấp số
liệu này để cho thấy sự cần thiết phải chọn
những bộ kít có cùng đánh giá CEP 17 và HER2,
Nếu như định nghĩa là số bản sao HER2/nhân ≥ 4
được xem là trị số tuyệt đối(30) có khuếch đại gen
thì trong nghiên cứu này có đến 99 trường hợp.
Sau khi tính tỉ lệ số bản sao HER2/CEP17 thì kết
quả có 13/94 trường hợp là không khuếch đại do
tỉ lệ HER2/CEP17 <2. Cả 12 trường hợp này đều
rơi vào nhóm đa bội nhiễm sắc thể 17.
BÀN LUẬN
Về kết quả HMMD
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và
ngoài nước ứng dụng nhiệu loại kháng thể khác
nhau, thực hiện theo nhiều cách khác nhau công bố
về tỉ lệ biểu hiện quá mức của thụ thể HER2 trong
ung thư vú. Tuy nhiên cho tới hiện nay có hai xét
nghiệm đã được FDA chấp thuận dùng để xác
định biểu hiện quá mức của thụ thể HER2 trên
bệnh nhân ung thư vú: HercepTest
(DakoCytomation, Glostrup, Đan Mạch), Pathway
(Ventana Medical Systems Inc, Tucson, Ariz).
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng bộ
Pathway (Ventana Medical Systems Inc, Tucson,
Ariz) dùng trên máy nhuộm tự động. Qui trình
nhuộm máy đã giảm thiểu được nhuộm nền và
các tình trạng nhuộm không đặc hiệu.
Trong số 264 trường hợp, các các tiêu bản
đều có đủ biểu mô lành tính để đánh giá nhuộm
nền theo một số nghiên cứu của các tác giả
Jacobs và cộng sự(9,13) và Lehr và cộng sự(11,13).
Biểu mô bình thường có thể bắt màu ở màng
đáy và màng bên nhưng các bề mặt tế bào biểu
mô và các tế bào cơ biểu mô xung quanh ống
luôn luôn âm tính. Khi xem lại 2 trường hợp
HMMD 3(+), nhưng FISH không khuếch đại. 1
trường hợp có biểu mô ống tuyến vú bình
thường bắt màu toàn bộ màng, cho nên trong
trường hợp này là dương tính giả, nguyên nhân
có thể do mẫu được cố định dài hơn 48giờ. 1
trường hợp khác là đa bội nhiễm sắc thể 17 có số
lượng nhiễm sắc thể 17 trung bình là 8,5 và số
trung bình bản sao HER2 là 15.
Về kết quả FISH
Ứng dụng kỹ thuật FISH để đánh giá sự
khuếch đại gen HER2 đã được Slamon(21) nghiên
cứu thành công và năm 1997. Đặc biệt, đến
tháng 9/1998 một loại kháng thể đơn dòng
kháng HER2 (Trastuzumab) được FDA chấp
thuận cho điều trị ung thư vú giai đoạn trễ. Sau
đó rất nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng kỹ
thuật lai tại chỗ trên mô vùi nến. Hiện nay,
phương pháp được xem là “tiêu chuẩn vàng”
dùng để đánh giá tình trạng HER2 là FISH(30,13).
Chúng tôi dùng bộ kit Path Vysion, đã được
FDA chấp thuận.
Để có kết quả này, chúng tôi đã làm thử
nghiệm khoảng 50 ca, hoàn chỉnh quy trình,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 179
những kinh nghiệm được rút ra đã được báo cáo
trong lần hội thảo giải phẫu bệnh năm 2009.
Phần lớn các trường hợp chúng tôi đều thực
hiện thành công, tuy nhiên có một số trường
hợp chúng tôi phải lặp lại nhiều lần mới đạt kết
quả. Quan trọng nhất là thời gian khử protein
màng nhân phải phù hợp, nếu quá ngắn protein
màng nhân chưa tiêu hết đưa đến đoạn dò
không bắt cặp được nhưng nếu quá dài màng
nhân tan hết sẽ mất hết tín hiệu di truyền(30).
Về mối tương quan giữa hai phương pháp
Phương pháp HMMD đã phát triển hơn 10
năm và FISH từ năm 2009 đến nay, chúng tôi
thực hiện song song HMMD và FISH trên tất cả
bệnh nhân được chỉ định làm HER2/FISH.
Với phép kiểm thông kê Cramer’s V = 0,94,
cho thấy mối tương quan giữa hai phương pháp
là rất mạnh.
Nhóm HMMD (-) và 3(+) tương hợp cao với
các kết quả FISH. Tuy nhiên, trong nhóm HMMD
(-) vẫn có 3,8% có khuếch đại, nhưng nẳm trong
nhóm khuếch đại giáp biên và khuếch đại thấp.
Rà soát lại các mẫu này chúng tôi thấy tất cả các
mẫu đều được gửi từ các phòng GPB có dung
dịch cố định mẫu là formalin 10% nhưng không
đệm trung tính. Có thể các thụ thể HER2 đã hư,
mặc dù đã tối ưu hóa quy trình HMMD chúng tôi
cũng không bộc lộ được thụ thể. Khi thực hiện
FISH trên những trường hợp này chúng tôi cũng
gặp khó khăn, thường là phải lặp lại lần hai để tối
ưu hóa thời gian khử protein màng nhân. Nhóm
HMMD 3(+) có 2/44 trường hợp không khuếch
đại, chiếm 2,8%. Nguyên nhân có thể đã được giải
thích ở trên là ảnh hưởng của dung dịch cố định
và thời gian cố định. Trong nghiên cứu của
Pauletti G(16) cho thấy tỉ lệ phát hiện biểu hiện quá
mức của thụ thể HER2 nhưng không khuếch đại
gen là 3%.
Nhóm HMMD 2(+) đây là nhóm có kết quả
FISH thay đổi, 64,7% không khuếch đại. 12/34
chiếm 35,3% có khuếch đại gen, phân bố từ
khuếch đại giáp biên cho đến cao. Trong nhóm
này có một trường hợp chúng tôi phải thực hiện
phương pháp FISH đến 3 lần, đến lần thứ 3 thì
chúng tôi mới xác định được kết quả là tỉ lệ
HER2/CEP17 = 1,9/40 nhân tế bào, có đa bội
nhiễm sắc thể 17. Sau đó bệnh nhân tự gửi mẫu
sang Singapore và kết quả là HER2/CEP17 =
1,5/60 nhân tế bào. Kiểm tra lại trường hợp này,
các tuyến bình thường có HMMD (+), và tìm
hiểu thêm chúng tôi biết trường hợp này cố định
bằng dung dịch formalin đệm trung tính nhưng
thời gian cố định <6 giờ. Thời gian cố định rất
quan trọng, tốt nhất là từ 6-48g, nếu quá ngắn
hoặc quá dài đều ảnh hưởng đến kết quả(30).
Diễn tiến lâm sàng của những trường hợp có
HMMD(+) nhưng FISH(-) đã được Pauletti G(16,13)
nghiên cứu với cỡ mẫu 900 bệnh nhân ung thư
vú, không cho thấy có sự khác biệt giữa hai
nhóm HMMD(+) và FISH(-) và HMMD(-)/
FISH(-). Chứng tỏ rằng giá trị của FISH phù hợp
với diễn tiến lâm sàng của bệnh nhân. Ngoài ra,
nghiên cứu của Tubbs RR(13,27) trên khối u vú
HMMD 2(+)/FISH(-) không tăng số lượng
mRNA HER2. Điều này khẳng định HMMD2(+)
không phải là kết quả của tăng quá trình sao mã
gen HER2.
FISH và HMMD Pathway có mức độ tương
hợp cao trong nhóm HMMD3(+) và HMMD(-),
nhóm HMMD2(+) bao gồm cả khuếch đại và
không khuếch đại HER2(13). Các cơ chế vì sao
không khuếch đại gen HER2 nhưng biểu hiện
HMMD 2(+) hiện nay chưa rõ ràng, nhưng có
thể phản ánh con đường từ gen HER2 đến biểu
hiện tại màng tế bào còn nguyên vẹn hoặc có thể
có liên quan đến đa bội nhiễm sắc thể 17.
Về ảnh hưởng của sự đa bội nhiễm sắc thể
17
Mặc dù chúng tôi không so sánh các phương
pháp thực hiện FISH khác nhau, nhưng chúng
tôi thử chia hai nhóm có khuếch đại hay không
dựa vào ngưỡng tuyệt đối của số bản sao HER2
≥4 là có khuếch đại. Chúng tôi tìm ra 12 trường
hợp đa bội nhiễm sắc thể 17 có HER2 khuếch đại
theo tiêu chí tuyệt đối, nhưng không khuếch đại
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 180
gen HER2 khi tính tỉ lệ trên nhiễm sắc thể 17.
Nghiên cứu của Vanden Bempt(28) đã nhấn mạnh
tầm quan trọng của đa bội nhiễm sắc thể 17,
những trường hợp tăng số lượng bản sao HER2
do tăng số lượng nhiễm sắc thể 17 thì không
khuếch đại gen HER2. Đa bội nhiễm sắc thể 17
không làm tăng số lượng mRNA. Tuy nhiên,
chúng không thể phân biệt với các u có HER2(+)
bằng các tiêu chuẩn bệnh học thông thường,
chính vì vậy nó có khả năng ảnh hưởng đến sự
giải thích kết quả cũng như chọn lựa bệnh nhân
cho điều trị.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 264 trường hợp ung thư vú
được thực hiện cả hai phương pháp HMMD và
FISH chúng tôi có kết luận như sau:
Mức độ tương hợp kết quả giữa hai phương
pháp là trung bình theo thống kê Cramer’s
V=0,94 với p=0,001.
Mặc dù có sự tương hợp cao trong nhóm
HMMD (-) và HMMD 3 (+), nhưng vẫn còn
khoảng 3,8% có HMMD (-) nhưng FISH có
khuếch đại (thuộc nhóm khuếch đại giáp biên
và thấp) và nguyên nhân được cho là do dung
dịch cố định và thời gian cố định không đúng.
Nhóm HMMD 3 (+) nhưng FISH không khuếch
đại có hai trường hợp, do dương tính giả và do
ảnh hưởng của đa bội nhiễm sắc thể 17.
Nhóm HMMD 2 (+) luôn luôn là nhóm thách
thức, và với tình hình hiện tại chúng ta nên thực
hiện FISH để xác định có khuếch đại hay không
giúp cho bệnh nhân hưởng lợi ích từ các liệu
pháp điều trị.
HER2 là một yếu tố tiên lượng xấu(1,20,24) Tăng
nguy cơ ung thư vú tương đối , thời gian sống
còn toàn bộ bị rút ngắn. HER2 là mục tiêu điều
trị nhắm trúng đích phân tử trong ung thư vú và
một mục tiêu tiềm năng điều trị trong bệnh ung
thư buồng trứng, ung thư dạ dày(19) chính vì vậy
chọn lựa phương pháp đánh giá HER2 chính xác
đáp ứng được yêu cầu điều trị là một đòi hỏi cấp
thiết cho các phòng xét nghiệm giải phẫu bệnh.
Bộ môn giải phẫu bệnh được hân hạnh nhận
mẫu từ nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên đó
cũng là một thách thức lớn vì chúng tôi không
thể kiểm soát được dung dịch cố định cũng như
thời gian cố định mẫu. Tùy từng trường hợp,
chúng tôi tối ưu hóa quy trình để có kết quả tốt
nhất cho cả hai phương pháp. Nghiên cứu lâm
sàng bổ sung là cần thiết để làm rõ thêm mối
quan hệ giữa HER2 và ung thư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andrulis IL, Bull SB, Blackstein ME, et al. neu/erbB-2
amplification identifies a poor-prognosis group of women
with node-negative breast cancer. Toronto Breast Cancer
Study Group. J Clin Oncol. 1998;16:1340-1349.
2. Burden S, Yarden Y (1997). Neuregulins and their receptors: a
versatile signaling module in organogenesis and oncogenesis.
Neuron;18:847-855.
3. Chazin V, Kaleko M, Miller A, et al. (1992). Transformation
mediated by the human HER-2 gene independent of the
epidermal growth factor receptor. Oncogene 7:1859-1866.
4. Department of Health and Human Services, Food and Drug
Administration, Center for Drug Evaluation and Research.
Oncologic Drugs Advisory Committee, 58th meeting
(transcript). Bethesda, MD; September 2, 1998. Available at:
Accessed
June 2001.
5. DiFiore P, Pierce J, Kraus M, et al. (1987). Erb B-2 is a potent
oncogene when overexpressed in NIH/3T3 cells. Science
237:178-182.
6. Fornier M, Esteva FJ, Seidman AD (2000). Trastuzumab in
combination with chemotherapy for the treatment of
metastatic breast cancer. Semin Oncol;27:38-45.
7. Graus-Porta D, Beerli R, Daly JM, et al. (1997). ErbB-2, the
preferred heterodimerization partner of all erbB receptors, is a
mediator of lateral signaling. EMBO J;16:1647-1655.
8. Gullick W, Love S, Wright C, et al. (1991). C-erb B-2 protein
overexpression in breast cancer is a risk factor in patients with
involved and uninvolved lymph nodes. Br J Cancer 63:434-
438.
9. Jacobs TW, Gown AM, Yaziji H, et al. (1999). Specificity of
HercepTest in determining HER-2/neu status of breast
cancers using the United States Food and Drug
Administration– approved scoring system. J Clin
Oncol;17:1983-1987.
10. Klapper LN, Glathe S, Vaisman N, et al. (1999). The erbB-
2/HER2 oncoprotein of human carcinomas may function
solely as a shared coreceptor for multiple stroma-derived
growth factors. Proc Natl Acad Sci U S A.;96:4995-5000.
11. Lehr H-A, Jacobs TW, Yaziji H, et al. (2001). Quantitative
evaluation of HER-2/neu status in breast cancer by
fluorescence in situ hybridization and by
immunohistochemistry with image analysis. Am J Clin
Pathol;115:814-822.
12. Mass R (2000). The role of HER-2 expression in predicting
response to therapy in breast cancer. Semin Oncol;27:46-52.
13. McCormick SR, Lillemoe TJ, Beneke J, Schrauth J, Reinartz J
(2002). HER2 Assessment by Immunohistochemical Analysis
and Fluorescence In Situ Hybridization Am J Clin Pathol;
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 181
117:935-943.
14. Muller W, Sinn E, Pattengale P, et al. (1988). Single-step
induction of mammary adenocarcinoma in transgenic mice
bearing the activated c-neu oncogene. Cell 54:105-115.
15. Nicholson BP (2000). Ongoing and planned trials of hormonal
therapy and trastuzumab. Semin Oncol;27:33-37.
16. Pauletti G, Dandekar S, Rong H, et al. (2000). Assessment of
methods for tissue-based detection of the HER-2/neu
alteration in human breast cancer: a direct comparison of
fluorescence in situ hybridization and
immunohistochemistry.J Clin Oncol ;18:3651-3664
17. Rilke F, Colnaghi M, Cascinelli N, et al. (1991). Prognostic
significance of HER-2/neu expression in breast cancer and its
relationship to other prognostic factors. Int J Cancer 49:44-49.
18. Ross JS, Fletcher JA (1999). HER-2/neu (c-erb-B2) gene and
protein in breast cancer. Am J Clin Pathol;112 (suppl 1):S53-
S67.
19. Serrano-Olvera A, Dueñas-González A, Gallardo-Rincón D, et
al. Prognostic, predictive and therapeutic implications of
HER2 in invasive epithelial ovarian cancer. Cancer Treat Rev.
2006;32:180-190.
20. Seshadri R, Firgaira FA, Horsfall DJ, et al. Clinical significance
of HER-2/neu oncogene amplification in primary breast
cancer. The South Australian Breast Cancer Study Group.J
Clin Oncol. 1993;11:1936-1942.
21. Slamon D, Clark G, Wong S, et al. (1987). Human breast
cancer: Correlation of relapse and survival with amplification
of the HER-2/ neu oncogene. Science 235:177-182.
22. Slamon D, Godolphin W, Jones L, et al.(1989). Studies of the
HER-2/ neu proto-oncogene in human breast and ovarian
cancer. Science 244:707-712.
23. Slamon D, Press M, Godolphin W, et al. (1989). Studies of the
HER-2/neu proto-oncogene in human breast cancer. Cancer
Cells; 7:371-380.
24. Slamon DJ, Clark GM, Wong SG, et al. Human breast cancer:
correlation of relapse and survival with amplification of the
HER-2/neu oncogene Science. 1987;235:177-182.
25. Slamon DJ, Leyland-Jones B, Shak S, et al. (2001). Use of
chemotherapy plus a monoclonal antibody against HER2 for
metastatic breast cancer that overexpresses HER2. N Engl J
Med.;344:783-792.
26. Sparano JA. (2001). Cardiac toxicity of trastuzumab
(Herceptin): Implications for the design of adjuvant trials.
Semin Oncol;28:20-27.
27. Tubbs RR, Pettay JD, Roche PC, et al. (2001). Discrepancies in
clinical laboratory testing of eligibility for trastuzumab
therapy: apparent immunohistochemical false-positives do
not get the message. J Clin Oncol;19:2714-2721.
28. Vanden Bempt I, Van Loo P, Drijkoningen M, et al. (2007).
Polysomy 17 in breast cancer: Clinicopathologic significance
and impact on HER-2 testing. J Clin Oncol
10.1200/JCO.13.4296.
29. Vogel CL, Cobleigh MA, Tripathy D, et al. (2002). Efficacy and
safety of trastuzumab as a single agent in first-line treatment
of HER2-overexpressing metastatic breast cancer. J Clin
Oncol;20:719-726.
30. Wolff AC, Hammond MH, Schwartz JN, Hagerty KL, Allred
DC, Cote RJ, Dowsett M, Fitzgibbons PL, Hanna WM, Langer
A, McShane LM, Paik S, Pegram MD, Perez EA, Press MF,
Rhodes A, Sturgeon C, Taube SE, Tubbs R, Vance GH, Van de
Vijver M, Wheeler TM, and Hayes DF (2008). American
Society of Clinical Oncology/College of American
Pathologists Guideline Recommendations for Human
Epidermal Growth Factor Receptor 2 Testing in Breast Cancer
J Clin Oncol 25:118-145.
31. Yarden Y, Sliwkowski MX (2001). Untangling the ErbB
signalling network. Nat Rev Mol Cell Biol;2:127-137.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_phuong_phap_hoa_mo_mien_dich_va_lai_tai_cho_huynh_qu.pdf