SO SÁNH VAI TRÒ CỦA MÁY CHỤP CẮT LỚP VÕNG MẠC HEILDELBERG (HRT) VÀ MÁY CHỤP CẮT LỚP CỐ KẾT QUANG HỌC (OCT) TRONG CHẨN ĐOÁN GLÔCÔM
TÓM TẮT
Mục đích: So sánh vai trò của máy chụp cắt lớp võng mạc Heildelberg (HRT) và máy chụp cắt lớp cố kết quang học (OCT) trong chẩn đoán bệnh glôcôm.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứumô tả cắt ngang có phân tích. 192 mắt chia làm 4 nhóm gồm nhóm bình thường (n=47), nhóm tăng nhãn áp (n=50), nhóm glôcôm giai đoạn sớm (n=45) và nhóm glôcôm (n=50). Tất cả các mắt đều được khám tổng quát, đo thị trường Humphrey, đánh giá đầu thị thần kinh bằng HRT II và chiều dày lớp sợi thần kinh (RNFL) bằng Stratus OCT III. Dùng đường cong ROC và chỉ số diện tích dưới đường cong để đánh giá khả năng chẩn đoán của HRT và OCT ở các nhóm tăng nhãn áp, glôcôm giai đoạn sớm và glôcôm so với nhóm bình thường.
Kết quả: So với nhóm bình thường, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở hầu hết các biến số giữa nhóm glôcôm giai đoạn sớm và nhóm glôcôm; tuy nhiên,
SO SÁNH VAI TRÒ CỦA MÁY CHỤP CẮT LỚP VÕNG MẠC HEILDELBERG (HRT) VÀ MÁY CHỤP CẮT LỚP CỐ KẾT QUANG HỌC (OCT) TRONG CHẨN ĐOÁN GLÔCÔM
27 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu So sánh vai trò của máy chụp cắt lớp võng mạc heildelberg (hrt) và máy chụp cắt lớp cố kết quang học (oct) trong chẩn đoán glôcôm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SO SÁNH VAI TRÒ CỦA MÁY CHỤP CẮT LỚP VÕNG MẠC
HEILDELBERG (HRT) VÀ MÁY CHỤP CẮT LỚP CỐ KẾT QUANG
HỌC (OCT) TRONG CHẨN ĐOÁN GLÔCÔM
TÓM TẮT
Mục đích: So sánh vai trò của máy chụp cắt lớp võng mạc Heildelberg (HRT)
và máy chụp cắt lớp cố kết quang học (OCT) trong chẩn đoán bệnh glôcôm.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứumô tả cắt ngang có phân tích. 192 mắt
chia làm 4 nhóm gồm nhóm bình thường (n=47), nhóm tăng nhãn áp (n=50),
nhóm glôcôm giai đoạn sớm (n=45) và nhóm glôcôm (n=50). Tất cả các mắt
đều được khám tổng quát, đo thị trường Humphrey, đánh giá đầu thị thần kinh
bằng HRT II và chiều dày lớp sợi thần kinh (RNFL) bằng Stratus OCT III.
Dùng đường cong ROC và chỉ số diện tích dưới đường cong để đánh giá khả
năng chẩn đoán của HRT và OCT ở các nhóm tăng nhãn áp, glôcôm giai đoạn
sớm và glôcôm so với nhóm bình thường.
Kết quả: So với nhóm bình thường, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở hầu
hết các biến số giữa nhóm glôcôm giai đoạn sớm và nhóm glôcôm; tuy nhiên,
không có sự khác biệt trong nhóm tăng nhãn áp. Trong nhóm glôcôm, khả năng
chẩn đoán của HRT cao hơn OCT, cụ thể là biến số tỉ lệ đường kính chén
thị/đĩa thị của HRT cao hơn chiều dày RNFL trung bình của OCT. Đây cũng là
hai biến số có khả năng chẩn đoán cao nhất (AUC lớn nhất). Trong nhóm
glôcôm giai đoạn sớm, không có sự khác biệt về khả năng chẩn đoán giữa HRT
và OCT.
Kết luận: HRT và OCT đều có khả năng chẩn đoán nhóm glôcôm nhưng
không có khả năng chẩn đoán mắt tăng nhãn áp so với mắt bình thường.
Từ khoá: bệnh glôcôm, nghi ngờ bệnh glôcôm, máy chụp cắt lớp cố kết quang
học (OCT), thần kinh thị, độ dày lớp sợi thần kinh, máy chụp cắt lớp võng
mạc Heildelberg (HRT).
ABSTRACT
COMPARISION OF HRT II CONFOCAL SCANNING LASER
OPHTHAMOSCOPE AND STRATUS OPTICAL COHERENCE
TOMOGROPH FOR DETECTION OF GLAUCOMA
Nguyen Thi Kieu Thu, Nguyen Xuan Nhung, Tran Thi Phuong Thu, Le Minh
Thong, Mardin C.Y.
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol.14 - Supplement of No 1-2010: 250 - 255
Purpose: The aim was to compare the ability of Confocal Scanning Laser
Ophthalmoscope (HRT) and Optical Coherence Tomography at stages of
glaucoma.
Methods: One hundred and ninety-two eyes of normal (n=47), ocular
hypertension (OHT)(n=50), glaucoma-suspect (GS)(n=45) and
glaucoma(n=50) was enrolled. Each patient underwent complete ophthalmic
examination, automatic perimetry (Humphrey). Optic disc configuration was
analyzed by HRT (version II), whereas retinal nerve fiber layer (RNFL)
thickness was analyzed by Stratus OCT III. The measurements were compared
in the four groups of patients. Receiver operating characteristic curve (ROC)
and area under the curve (AUC) discriminating OHT, GS or glaucoma from
normal eyes were compared for the instruments.
Results: Most parameters in GS and glaucoma eyes showed significant
differences compared with normal eyes. However, no significant differences
between normal and OHT eyes. In glaucoma eyes, the greatest AUC parameter
in HRT (cup to disc linear ratio AUC= 0.9) had a higher AUC than that in OCT
(overall RNFL thickness P=0.8). In GS diagnosis, no significant differences
between the ability of HRT and OCT.
Conclusions: Both HRT and OCT were useful in identifying GS and glaucoma
eyes, but not in ocular hypertension.
Keywords: glaucoma, glaucoma suspect, optical coherence tomography,
optic nerve imaging—retinal nerve fiber layer thickness, confocal scanning
laser ophthalmoscope.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Glôcôm là một bệnh lý của thần kinh thị, đặc trưng bởi sự mất tiến triển của
lớp sợi thần kinh võng mạc (RNFL) và các thay đổi trên gai thị(Error! Reference
source not found.) Là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa trên
toàn thế giới, tần suất của glôcôm đang trên đà tăng lên theo tuổi. Đo thị
trường được xem như là một “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán glôcôm, nhưng
các nghiên cứu về mô học cho thấy tế bào hạch có thể chết đến 50% thì mới
có thể phát hiện bất thường trên thị trường(Error! Reference source not found.).
Từ thập niên 90 đến nay, với đặc tính không xâm lấn, không tiếp xúc, nhiều
công trình nghiên cứu khả năng chẩn đoán glôcôm của GDx, HRT,
OCT(Error! Reference source not found.)(Error! Reference source not found.)(Error! Reference source not
found.) đã được ứng dụng vào lâm sàng. Đồng thời, việc phát hiện các tổn
thương của gai thị trước khi có tổn thương trên thị trường đã và đang là một
thách thức với các phương tiện chẩn đoán trên. Do đó, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài này với mục đich so sánh khả năng chẩn đoán các giai
đoạn của glôcôm bằng máy chụp cắt lớp cố kết quang học (OCT) và máy
chụp cắt lớp võng mạc (HRT). Từ đó giúp định lượng các thay đổi trong quá
trình bệnh lý glôcôm một cách chính xác và khách quan hơn, nhằm bảo tồn
chức năng thị trường và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang có phân tích.
Phương tiện nghiên cứu: máy Stratus OCT III, HRT II, thị trường kế tự động
Humphrey.
Phương pháp nghiên cứu: 192 mắt được đưa vào nghiên cứu, trong đó 47 mắt
bình thường, 50 mắt tăng nhãn áp, 45 mắt glôcôm giai đoạn sớm, 50 mắt
glôcôm. Tất cả các mắt đều được khám thường quy, đo thị trường, khảo sát
RNFL bằng OCT và đánh giá đầu thần kinh thị bằng HRT. Tiêu chuẩn mắt
bình thường khi không có tiền căn bản thân và gia đình bị glôcôm, nhãn áp
≤21mmHg (nhã áp kế Goldman), thị trường bình thường (Humphrey, test 30-
2), tỉ lệ C/D giữa hai mắt ≤0,2, không teo quanh gai, vùng rim nguyên vẹn,
RNFL bình thường, không xuất huyết/bạc màu gai thị. Tiêu chuẩn mắt tăng
nhãn áp khi nhãn áp >21mmHg, thị trường bình thường, gai thị bình thường.
Tiêu chuẩn mắt glôcôm giai đoạn sớm khi thị trường bình thường, tổn thương
gai thị dạng glôcôm như khuyết vùng rim khu trú, khuyết vùng rim lan tỏa,
xuất huyết cạnh gai, tì lệ C/D giữa 2 mắt >0,2. Tiêu chuẩn mắt glôcôm khi tổn
thương gai thị và thị trường dạng glôcôm.
KẾT QUẢ
Tuổi trung bình nhóm nghiên cứu là 56 ± 12,1. Không có sự khác biệt về
giới tính và độ khúc xạ giữa các nhóm nghiên cứu. Trừ nhóm tăng nhãn áp
so với nhóm bình thường, sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê ở các nhóm
còn lại (bảng 1). Tỉ lệ mắt giữa các nhóm gần bằng nhau. Glôcôm góc mở
nguyên phát chưa tổn thương thị trường chiếm tỉ lệ cao nhất (87,7%); còn
nhóm glôcôm giai đoạn sớm và nhóm glôcôm chiếm 56% (Bảng 2).
Bảng 1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu.
Bình
thường
Tăng
nhãn
áp
Glôcôm
giai
đoạn
sớm
Glôcôm p
Số
mắt
47 50 45 50 0,4
Tuổi
(năm,
Mean
±
SD)
55 ±
14,2
57,4 ±
14,3
58,6 ±
10,9
57,5 ±
10,6
0,2
Giới
Nam 21 27 25 27 0,4
Nữ 26 23 20 23
Độ
khúc
xạ
(D)
-2,1±
1,4
-
2,5±2,1
-2,2 ±
3,1
-2,4±
3,3
0,3
MD
(dB,
Mean
±
SD)
-0,4±
0,7
-0,7 ±
0,9
-1,5 ±
1,2
-3,5±
2,1
<0,001
PSD
(dB,
Mean
±
SD)
0,8 ±
0,5
1,4 ±
0,7
1,6 ±
0,9
5,8 ±
9,3
<0,001
Mean: trung bình, SD: độ lệch chuẩn.
Bảng 2. Tỉ lệ bệnh trong các nhóm nghiên cứu.
Tần số Tỉ lệ %
Nhóm chứng 47 24,5
Tăng nhãn áp 50 26,0
Glôcôm giai đoạn sớm 45 23,4
Glôcôm góc mở nguyên
phát
39 20,3
Glôcôm góc mở thứ phát
(có sự phân tán sắc tố
mống mắt)
4 2,1
Glôcôm góc mở nguyên
phát sau laser YAG
2 1,0
Glôcôm tiến triển 50 26,0
Glôcôm góc mở nguyên
phát
28 14,5
Glôcôm nhãn áp bình
thường
6 3,1
Glôcôm người trẻ 3 1,6
Glôcôm giả bong bao 1 0,5
Glôcôm sắc tố 10 5,2
Glôcôm sau chấn
thương
2 1,0
Tổng số 192 100,0
Để khảo sát sự thay đổi các thông số HRT và OCT trong các giai đoạn bệnh
glôcôm, chúng tôi tiến hành phân tích so sánh 6 nhóm sau: so sánh các nhóm
tăng nhãn áp, glôcôm giai đoạn sớm, glôcôm với nhóm bình thường; so sánh
các nhóm glôcôm giai đoạn sớm, glôcôm với nhóm tăng nhãn áp, so sánh
nhóm glôcôm giai đoạn sớm với nhóm glôcôm tiến triển. Kết quả ghi nhận
được ở bảng 3 và 4.
Bảng 3. Các biến số khảo sát đầu thị thần kinh trên HRT ở nhóm người bình
thường và các giai đoạn của bệnh glôcôm.
Bình
thường
TNA Glôcôm
g/đ
sớm
Glôcôm
Diện tích
chén thị
(mm2)
0,6 ±
0,4
0,5 ±
0,4
0,9 ±
0,6*!
1,3 ±
0,6*!◊
Diện tích
vùng rim
(mm2)
1,6 ±
0,4
1,4 ±
0,3
1,3 ±
0,3*
0,9 ±
0,4*!◊
Tỉ số diện
tích chén
/đĩa thị
0,3 ±
0,1
0,3 ±
0,2
0,4 ±
0,2*!
0,6 ±
0,2*!◊
Tỉ số
đường kính
dọc chén
thị / đĩa thị
0,5 ±
0,2
0,5 ±
0,1
0,6 ±
0,2*!
0,7 ±
0,1*!◊
Thể tích
chén thị
(mm3)
0,2 ±
0,2
0,1 ±
0,2
0,3 ±
0,3*!
0,1 ±
0,2*!
Thể tích
vùng_rim
0,4 ±
0,1
0,4 ±
0,1
0,3 ±
0,1*!
0,4 ±
0,1*!◊
(mm3)
Chiều sâu
chén thị
trung bình
(mm)
0,2 ±
0,1
0,2 ±
0,1
0,3 ±
0,1*!
0,3 ±
0,1*!
Số đo hình
dạng
chén thị
-0,2 ±
0,1
-0,2 ±
0,1
-0,1 ±
0,1*!
-0,04 ±
0,1*!◊
Chiều dày
RNFL
trung bình
(mm)
0,3±
0,04
0,3 ±
0,1
0,2 ±
0,1!
0,2 ±
0,1!◊
Thay đổi
chiều cao
đường viền
0,4 ±
0,1
0,4 ±
0,1
0,4 ±
0,1
0,4 ±
0,1
* tương ứng với p<0,05 khi so sánh các thông số giữa 3 nhóm tăng nhãn áp,
glôcôm giai đoạn sớm, glôcôm tiến triển với nhóm bình thường, (Turkey-
Kramer post-hoc test).
! tương ứng với p<0,05 khi so sánh các thông số giữa 2 nhóm glôcôm giai đoạn
sớm, glôcôm tiến triển với nhóm tăng nhãn áp, (Turkey-Kramer post-hoc test).
◊ tương ứng với p<0,05 khi so sánh các thông số giữa nhóm glôcôm giai đoạn
sớm với nhóm glôcôm tiến triển, (Turkey-Kramer post-hoc test).
Bảng 4. Chiều dày lớp sợi thần kinh trên OCT ở nhóm người bình thường và
các giai đoạn bệnh của glôcôm.
Bình
thường
TNA Glôcôm
g/đ sớm
Glôcôm
Trung
bình
110,4±
17,6
91,3 ±
15,6
86,4 ±
25,4
79,5 ±
18,5
Góc
trên
104,9 ±
24,2
101,1
± 23,8
92,1 ±
29,2*
81,3 ±
26,6*
Góc
dưới
124,9 ±
35,5
106,9
± 29,5*
102,2 ±
27,4*
89,8 ±
29,8*
Góc
mũi
64,7 ±
14,5
61,6 ±
19,7
64,4 ±
23,5
54,1 ±
20,3*
Góc 64,5 ± 64,8 ± 62,4 ± 64,6 ±
thái
dương
16,2 13,2 18,7 19,2
* tương ứng với p<0,05 khi so sánh các thông số giữa 3 nhóm tăng nhãn áp,
glôcôm giai đoạn sớm, glôcôm tiến triển với nhóm bình thường, (Turkey-
Kramer post-hoc test).
Trong nhóm tăng nhãn áp, tất cả các biến số đều có diện tích dưới đường
cong ở mức độ yếu. Trong nhóm glôcôm giai đoạn sớm và nhóm glôcôm,
chỉ số AUC, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị ngưỡng các thông số có giá trị
chẩn đoán trên HRT được ghi nhận ở bảng 5 và 6, đồng thời ở cả hai nhóm,
tỉ số đường kính chén thị / đĩa thị có AUC cao nhất. Biểu đồ 1 mô tả đường
cong ROC của tỉ số đường kính chén thị/đĩa thị.
Bảng 5. Chỉ số dưới đường cong AUC/ROC của HRT ở nhóm glôcôm giai
đoạn sớm.
AUC Độ
nhạy
(%)
Độ
đặc
hiệu
(%)
Giá trị
ngưỡng
Diện tích 0,7 ± 0,1 86 72 0,5
chén thị
(mm2)
Diện tích
vùng rim
(mm2)
0,3 ± 0,1
Tỉ số diện
tích chén
thị/đĩa thị
0,8 ± 0,1 84 63 0,3
Tỉ số
đường
kính dọc
chén
thị/đĩa thị
0,8 ± 0,1 88 63 0,5
Thể tích
chén thị
(mm3)
0,7 ± 0,1 73 57 0,1
Thể tích
vùng rim
0,3 ± 0,1
(mm3)
Chiều sâu
chén thị
trung bình
(mm)
0,6 ± 0,1 78 55 0,2
Số đo
hình dạng
chén thị
0,7 ± 0,1 80 57 -0,2
Chiều dày
RNFL
trung bình
0,3±0,01
Thay đổi
chiều cao
đường
viền
0,4 ± 0,1
Bảng 6. Chỉ số dưới đường cong AUC/ROC, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị
ngưỡng các biến số có giá trị chẩn đoán trên HRT ở nhóm mắt glôcôm.
AUC Độ
nhạy
(%)
Độ
đặc
hiệu
(%)
Giá trị
ngưỡng
Diện tích
chén thị
(mm2)
0,8 ±
0,04
86 70 0,5
Diện tích
vùng rim
(mm2)
0,1 ±
0,03
Tỉ số diện
tích chén
thị/đĩa thị
0,9 ±
0,03
88 72 0,3
Tỉ số đường
kính dọc
chén thị/đĩa
thị
0,9 ±
0,03
88 74 0,5
Thể tích 0,8 ± 88 66 0,1
chén thị
(mm3)
0,04
Thể tích
vùng rim
(mm3)
0,1 ±
0,03
Chiều sâu
chén thị
trung bình
(mm)
0,8 ±
0,05
86 64 0,2
Số đo hình
dạng chén
thị
0,9 ±
0,04
88 57 -0,2
Chiều dày
RNFL trung
bình
0,2 ±
0,04
Thay đổi
chiều cao
đường viền
0,5 ±
0,06
Biểu đồ 1. Đường cong ROC của tỉ số đường kính dọc chén thị/đĩa thị với
AUC=0,9.
Khả năng chẩn đoán các giai đoạn bệnh glôcôm của OCT. Trong nhóm tăng
nhãn áp, tất cả các biến số đều có diện tích dưới đường cong ở mức độ yếu.
Trong nhóm glôcôm giai đoạn sớm và nhóm glôcôm, chỉ số AUC, độ nhạy,
độ đặc hiệu, giá trị ngưỡng trên OCT được ghi nhận ở bảng 7 và 8. Biểu đồ
2 mô tả đường cong ROC của chiều dày RNFL trung bình.
Bảng 7. Chỉ số dưới đường cong AUC/ROC, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị
ngưỡng các biến số có giá trị chẩn đoán trên OCT ở nhóm mắt glôcôm giai đoạn
sớm.
AUC Độ
nhạy
(%)
Độ
đặc
hiệu
(%)
Giá trị
ngưỡng
Trung bình 0,5 ±
(µm) 0,05
Góc trên (µm) 0,7 ±
0,05
85 78 94,8
Góc dưới (µm) 0,7 ±
0,05
88 75 112,2
Góc mũi (µm) 0,3 ±
0,05
Góc thái
dương (µm)
0,1 ±
0,02
Bảng 8. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị ngưỡng các biến số có giá trị chẩn đoán
trên OCT ở nhóm mắt glôcôm.
AUC Độ
nhạy
(%)
Độ đặc
hiệu
(%)
Giá trị
ngưỡng
Trung
bình (µm)
0,8 ±
0,04
88 73 83,7
Góc trên 0,8 ± 86 76 82,8
(µm) 0,04
Góc dưới
(µm)
0,8 ±
0,03
90 80 95,1
Góc mũi
(µm)
0,7 ±
0,04
82 68 56,3
Góc thái
dương
(µm)
0,5 ±
0,04
Biểu đồ2.Đườngcong ROC của chiều dày RNFL trung bình với
AUC=0,9.
So sánh khả năng chẩn đoán của HRT và OCT:
So sánh khả năng phân biệt mắt glôcôm giai đoạn sớm với mắt bình thường,
bằng cách so sánh đường cong ROC của 2 biến số có giá trị AUC cao nhất,
cụ thể là so sánh tỉ số đường kính dọc chén thị/đĩa thị (AUC=0,8) với chiều
dày RNFL góc dưới (AUC=0,7). Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê (p=0,15, Hanley and McNeil’ method).
So sánh khả năng phân biệt mắt glôcôm với mắt bình thường, giữa tỉ số
đường kính dọc chén thị/đĩa thị (AUC=0,9) cao hơn chiều dày RNFL trung
bình (AUC=0,8). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,0002, Hanley
and McNeil’ method)(Biểu đồ 3).
Biểu đồ 3. So sánh đường cong ROC của HRT và OCT (p=0,002).
Ngoài ra chúng tôi nhận thấy có sự tương quan của các biến số HRT và chiều
dày RNFL trung bình của OCT trong nhóm Glôcôm giai đoạn sớm và Glôcôm
(bảng 9 và biểu đồ 4).
Bảng 8. Sự tương quan giữa HRT và OCT trong chẩn đoán glôcôm.
OCT
HRT Glôcôm
giai đoạn
sớm
Glôcôm
Diện tích chén thị
(mm2)
-0,6 -0,6
Diện tích vùng_rim
(mm2)
0,6 0,6
Tỉ số diện tích chén
thị/đĩa thị
-0,7 -0,7
Tỉ số đường kính dọc
chén thị/đĩa thị
-0,6 -0,6
Thể tích chén thị (mm3) -0,5 -0,6
Thể tích vùng_rim
(mm3)
0,6 0,7
Chiều sâu chén thị
trung bình (mm)
-0,4 -0,5
Số đo hình dạng chén
thị
-0,6 -0,7
Chiều dày RNFL trung
bình (mm)
0,5 0,6
Thay đổi chiều cao
đường viền (mm)
0,1 0,2
Biểu đồ 4. Đồ thị biểu diễn sự tương quan giữa chiều dày RNFL góc dưới
và tỉ số đường kính dọc chén thị/đĩa thị (p<0,001).
BÀN LUẬN
So sánh các nhóm bệnh glôcôm với nhóm bình thường, chỉ số MD, PSD
tăng dần. Trừ nhóm tăng nhãn áp, sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê ở các
nhóm glôcôm giai đoạn sớm và glôcôm. Kết quả này tương tự với nghiên
cứu của Kanamori(Error! Reference source not found.). Như vậy, thị trường là tiêu chuẩn
vàng giúp phân biệt tăng nhãn áp với glôcôm giai đoạn sớm và glôcôm, nhưng
không giúp phát hiện sớm tăng nhãn áp so với người bình thường
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sự thay đổi các biến số đầu thị thần kinh ở
nhóm tăng nhãn áp so với nhóm bình thường không có ý nghĩa thống kê (Bảng
3). Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đó(Error! Reference source not
found.)(Error! Reference source not found.). Tương tự, trên OCT, ở nhóm tăng nhãn áp chiều
dày lớp sợi thần kinh giảm ở vị trí dưới (p=0,001). Như vậy, ứng dụng trên lâm
sàng, vị trí góc dưới là nơi dễ quan sát lớp sợi thần kinh nhất ở mắt bình thường
cũng như phát hiện sớm tổn thương khu trú của glôcôm.
So sánh các thông số khảo sát trên HRT và OCT ở nhóm người glôcôm giai
đoạn sớm và nhóm người bình thường, sự thay đổi tập trung chủ yếu vào chén
thị trên HRT (Bảng 3) và chiều dày RNFL ở góc trên, góc dưới trên OCT
(Bảng 4). Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đó(Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.). Điều này phù hợp với diễn tiến lâm sàng. Chén
thị thường lớn dần theo đường kính dọc của gai thị. Biểu hiện sớm là chén thị
xâm lấn từ từ vào vùng rim thường gặp ở vị trí phía dưới sau đó lan dần ra
phía thái dương. Giai đoạn này vô cùng quan trọng trong bệnh glôcôm vì
chức năng thị trường của bệnh nhân còn bình thường. Tuy nhiên, để phát
hiện sớm những tổn thương này nếu chỉ dựa vào khám lâm sàng nhiều khi
còn gặp khó khăn, vì cần phải có kinh nghiệm và sự quan sát tỉ mỉ. Đây cũng
là thách thức đối với các phương tiện chẩn đoán hình ảnh, với mục đích chẩn
đoán sớm tổn thương gai thị một cách khách quan. đồng thời theo dõi diễn
tiến bệnh.
So sánh các thông số khảo sát trên HRT và OCT ở nhóm glôcôm và nhóm
bình thường, chúng tôi ghi nhận, trên OCT sự thay đổi có ý nghĩa thống kê
(p<0,001) xảy ra ở tất cả các biến số trừ biến số thay đổi chiều cao đường
viền (Bảng 3). Trên OCT, chiều dày lớp sợi thần kinh giảm tại các vị trí
trung bình quanh gai, góc trên, góc dưới, góc mũi (Bảng 4). Kết quả này
tương tự với các nghiên cứu trước đó(Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.). Trên lâm sàng, ở giai đoạn này tổn thương gai thị rõ rệt, tương
ứng với tổn thương thị trường. Chén thị lõm sâu, tăng thể tích và diện tích.
Qui tắc ISN’T bị phá vỡ, chiều dày lớp sợi thần kinh giảm. Khuyết khu trú
trên vùng rim không còn thấy rõ, thay vào đó là giảm toàn bộ diện tích cũng
như thể tích vùng rim.
So sánh các thông số khảo sát trên HRT và OCT ở nhóm người tăng nhãn áp
với nhóm glôcôm giai đoạn sớm, và nhóm người nhóm glôcôm giai đoạn
sớm và nhóm glôcôm tiến triển, chúng tôi ghi nhận chỉ có sự thay đổi có ý
nghĩa thống kê trên HRT.
Đánh giá khả năng chẩn đoán các giai đoạn bệnh glôcôm với nhóm bình
thường đối với nhóm tăng nhãn áp, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy HRT
và OCT không có khả năng phân biệt. Ngược lại, đối với nhóm glôcôm cả
hai máy HRT và OCT có khả năng phân biệt, trong đó HRT có khả năng
chẩn đoán cao hơn OCT. Tuy nhiên, chỉ có HRT có khả năng chẩn đoán
những mắt bị glôcôm giai đoạn sớm. Kết quả này tương tự với nghiên cứu
trước đó(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.).
KẾT LUẬN
HRT và OCT đều có khả năng phân biệt nhóm mắt glôcôm so với nhóm mắt
bình thường, nhưng không có khả năng phân biệt ở những mắt tăng nhãn áp.
Ngoài ra HRT còn có giá trị trong chẩn đoán glôcôm giai đoạn sớm. Sự kết
hợp giữa HRT và OCT cho kết quả tối ưu trong chẩn đoán glôcôm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 215_0075.pdf