Mặc dù glucose (FPG và/hoặc OGTT) được
dùng như “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán tiểu
đường từ nhiều năm nay, nhưng xét nghiệm glucose
có một số khuyết điểm. Việc yêu cầu đối tượng phải
nhịn ăn từ trước và ở thời điểm lấy máu là một bất
tiện lớn. Tuy khả năng đo lường glucose đã được
cải thiện, nhưng sự biến thiên sinh học cố hữu có
thể tạo ra những sai biệt rất lớn trong mỗi cá thể và
giữa các cá thể. Cùng với sự thiếu độ ổn định của
mẫu thử, vốn khó khắc phục trong thực hành lâm
sàng, những yếu tố này làm cho việc xét nghiệm
glucose trở nên thiếu khả năng tái hiện.
Là số đo phản ánh trị số glucose huyết dài hạn,
A1C thường được dùng để theo dõi sự kiểm soát
đường huyết và hướng dẫn điều trị. Biến chứng vi
mạch giảm có ý nghĩa với những trị số A1C thấp và
tính ổn định của mẫu thử, cùng với những ưu điểm
khác (Bảng 3), đã khiến một số tổ chức khuyên
dùng A1C để tầm soát và chẩn đoán tiểu đường.
Ngày càng có nhiều bằng chứng gợi ý rằng trị số
A1C có thể có những khác biệt theo chủng tộc, và ý
nghĩa lâm sàng của hiện tượng này cần được xác
định. Cần lưu ý là có một vài bệnh trạng không thể
đo A1C, tuy vậy có thể đo đúng A1C trên đại đa số
đối tượng. Sự hiểu biết các yếu tố ảnh hưởng đến trị
số A1C và những điều kiện không nên dùng trị số
này sẽ đem lại những kết quả đúng đắn và có ý
nghĩa lâm sàng. Sự tiện lợi của việc lấy mẫu bất kỳ
lúc nào mà không cần để ý đến tình trạng no hay
đói có nhiều khả năng cho thấy đo A1C sẽ phát hiện
được hàng triệu người bị tiểu đường nhưng chưa
được chẩn đoán
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh xét nghiệm A1C và Glucose, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y HỌC THỰC HÀNH
14 THỜI SỰ Y HỌC 07/2011 - Số 62
SO SÁNH XÉT NGHIỆM A1C VÀ GLUCOSE
Tiểu đường theo nguyên nghĩa là sự hiện diện của
glucose trong nước tiểu. Cách đây gần 2.500 năm,
người ta đã thấy hiện tượng kiến bu vào bãi nước
tiểu. Trong thế kỷ 18 và 19, vị ngọt của nước tiểu
được dùng để chẩn đoán trước khi có các phương
pháp hóa học để phát hiện đường trong nước tiểu.
Các xét nghiệm đo lường glucose trong máu được
phát triển cách đây hơn 100 năm, và sau đó tăng
đường huyết đã trở thành tiêu chí duy nhất được
khuyên dùng để chẩn đoán tiểu đường. Những tiêu
chí chẩn đoán ban đầu dựa trên sự đáp ứng với thử
thách glucose bằng đường uống, rồi về sau số đo
nồng độ glucose trong máu ở người nhịn đói cũng
được chấp nhận. Các tiêu chí chẩn đoán dựa vào
glucose được chấp nhận rộng rãi nhất là glucose
huyết tương lúc đói (FPG-fasting plasma glucose)
≥126 mg/dL hoặc glucose huyết tương ≥200 mg/dL
2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp bằng đường uống
(OGTT- oral glucose tolerance test) trong hơn một
lần đo. Trên bệnh nhân có các triệu chứng kinh điển
của tiểu đường, một xét nghiệm glucose huyết tương
ngẫu nhiên ≥200 mg/dL được xem là có giá trị chẩn
đoán. Trước năm 2010, hầu hết các hội chuyên khoa
tiểu đường đều khuyến nghị xét nghiệm glucose như
là một phương pháp độc nhất để chẩn đoán tiểu
đường. Bất chấp những hướng dẫn đó, trong những
năm gần đây nhiều thầy thuốc đã dùng hemoglobin
A1C dể tầm soát và chẩn đoán tiểu đường (WHO,
2006). Tuy được xem là “tiêu chuẩn vàng” để chẩn
đoán, nhưng việc đo đạc glucose trong máu có một
số hạn chế. Đo A1C để chẩn đoán tỏ ra cuốn hút
nhưng cũng có những hạn chế cố hữu. Những vấn đề
này là trọng tâm chú ý trong một báo cáo gần đây
của Ban Chuyên gia Quốc tế, trong đó khuyến nghị
sử dụng A1C để chẩn đoán tiểu đường (International
Expert Committee, 2009), một luận điểm được Hội
Tiểu đường (ADA), Hội Nội tiết và vài hội chuyên
khoa khác của Hoa Kỳ ủng hộ ở những mức độ khác
nhau. Bài tổng quan này sẽ trình bày sơ lược các yếu
tố ảnh hưởng đến việc xét nghiệm glucose và A1C.
Các yếu tố góp phần vào sự biến thiên kết
quả
Trước khi bàn đến glucose và A1C, cần xem xét
các yếu tố tác động đến kết quả của một xét nghiệm
máu bất kỳ. Độ biến thiên trong các xét nghiệm máu
là đề tài được bàn luận trong một số tạp chí xét
nghiệm y khoa, nhưng đề tài này ít được chú ý trong
y văn lâm sàng. Các yếu tố góp phần gây biến thiên
có thể tạm chia thành ba loại: sinh học, tiền phân tích
và phân tích. Biến thiên sinh học bao gồm những sự
khác biệt trong cùng một người (được gọi trong cá
thể) và giữa hai hoặc nhiều người (gọi là giữa các cá
thể). Biến thiên tiền phân tích liên quan đến những
vấn đề của bệnh phẩm trước khi đo đạc. Biến thiên
phân tích là hệ quả của bản thân qui trình đo đạc.
Dưới đây sẽ đề cập chi tiết hơn về ảnh hưởng của
những yếu tố này trên kết quả đo glucose và A1C.
Đo nồng độ glucose
Bảng 1. FPG trong chẩn đoán tiểu đường
Ưu điểm
- Xét nghiệm glucose dễ dàng tự động hóa
- Khả dụng rộng rãi
- Ít tốn kém
- Một mẫu thử duy nhất
Nhược điểm
- Bệnh nhân phải nhịn đói ≥8 giờ
- Độ biến thiên sinh học lớn
- Thay đổi trong ngày
- Mẫu thử không ổn định
- Nhiều yếu tố ảnh hưởng nồng độ glucose, ví dụ stress,
bệnh cấp tính
- Không có sự hài hòa xét nghiệm glucose
- Nồng độ thay đổi theo nguồn gốc mẫu thử (máu tĩnh
mạch, mao mạch, hoặc động mạch)
- Nồng độ trong máu toàn phần khác nồng độ trong huyết
tương
- Tài liệu hướng dẫn khuyên dùng huyết tương, nhưng
nhiều phòng xét nghiệm đo glucose huyết thanh
- FPG không liên kết chặt chẽ với các biến chứng tiểu
đường (so với A1C)
- Phản ánh sự cân bằng nội môi của glucose ở một thời
điểm đơn lẻ
FPG (glucose huyết tương lúc đói)
Đo nồng độ glucose trong huyết tương trên
người nhịn đói thường được công nhận là một tiêu
chí chẩn đoán tiểu đường. Ưu điểm của kỹ thuật
này là xét nghiệm ít tốn kém trên máy tự động khả
dụng ở phần lớn các phòng xét nghiệm trên thế giới
(Bảng 1). Tuy vậy, FPG có một số hạn chế. Một
báo cáo đã phân tích các số đo lặp lại từ 685 đối
tượng nhịn đói không có chẩn đoán tiểu đường cho
thấy chỉ 70,4% số người có FPG ≥126 mg/dL khi
xét nghiệm lần đầu có kết quả FPG ≥126 mg/dL khi
làm lại xét nghiệm vào ~2 tuần sau (Selvin E và cs,
2007). Nhiều yếu tố có thể góp phần vào sự thiếu
khả năng tái hiện này. Cụ thể là:
Y HỌC THỰC HÀNH
THỜI SỰ Y HỌC 07/2011 - Số 62 15
Biến thiên sinh học. Nồng độ glucose lúc đói
biến thiên rất lớn theo từng ngày ở cùng một người
và giữa những đối tượng khác nhau. Trên một
người khỏe mạnh, độ biến thiên trong cá thể là 5,7–
8.3%, trong khi độ biến thiên giữa các cá thể lên
đến 12,5% (Selvin E và cs, 2007; Lacher DA và cs,
2005). Với hệ số biến thiên (CV) là 5,7%, FPG có
thể dao động từ 112–140 mg/dL trên một người có
FPG = 126 mg/dL. (Nên lưu ý là khoảng tin cậy
95% nằm trọn trong dải trị số này, và chỉ có 5% số
trị số nằm ngoài giới hạn đó).
Biến thiên tiền phân tích. Trước khi mẫu thử
được đo, có thể xảy ra nhiều yếu tố ảnh hưởng đến xét
nghiệm máu; ví dụ như thuốc dùng, ứ trệ tĩnh mạch,
tư thế bệnh nhân, và cách xử lý mẩu thử. Nồng độ
glucose trong máu có thể thay đổi do việc ăn uống,
nhịn đói kéo dài, hoặc vận động gắng sức (Young DS
& Bermes EW, 2006). Sự hiện diện của bệnh gian
phát trên đối tượng được đo cũng rất quan trọng, vì
chúng thường gây tăng đường huyết tạm thời
(Dungan KM và cs, 2009). Tương tự, tình trạng stress
cấp thời (ví dụ không tìm được chỗ đậu xe hoặc phải
chờ đợi) có thể ảnh hưởng nồng độ glucose trong
máu. Mẫu máu thử glucose lúc đói phải được lấy sau
khi nhịn đói qua đêm (không thu nạp calori ít nhất 8
giờ), nhưng trong thời gian đó có thể uống nước thoải
mái. Yêu cầu buộc bệnh nhân phải nhịn đói là một
vấn đề lớn trong thực hành lâm sàng vì bệnh nhân
thường không để bụng đói khi tìm đến bác sĩ, và thật
bất tiện nếu phải quay trở lại để lấy máu tĩnh mạch.
Một ví dụ là tại một cơ sở y tế liên kết với một trung
tâm đào tạo y khoa, 69% số đối tượng hợp lệ (5.752
trên 8.286 người) đã được tầm soát tiểu đường
(Ealovega MW và cs, 2004). Tuy vậy, FPG chỉ được
thực hiện trên 3% số đối tượng này (152 người), 95%
số đối tượng (5.452 người) được tầm soát bằng cách
đo glucose huyết tương ngẫu nhiên, một kỹ thuật
không phù hợp với các khuyến nghị của ADA. Ngoài
ra, máu còn được lấy vào buổi sáng tức là lúc FPG có
sự biến thiên trong ngày. Phân tích 12.882 đối tượng
từ 20 tuổi trở lên trong nghiên cứu NHANES
(National Health and Nutrition Examination Survey)
III không có chẩn đoán tiểu đường từ trước cho thấy
FPG trung bình vào buổi sáng cao hơn rõ rệt so với trị
số buổi chiều (Troisi RJ và cs, 2000). Tỉ lệ tiểu đường
(FPG ≥126 mg/dL) trên bệnh nhân được khám buổi
chiều bằng phân nửa tỉ lệ trên bệnh nhân được khám
buổi sáng. Các yếu tố khác liên quan với bệnh nhân có
thể ảnh hưởng đến kết quả gồm có đã ăn dù được yêu
cầu phải nhịn đói và dùng khẩu phần ăn ít calori trong
≥1 tuần trước khi xét nghiệm.
Trong ống nghiệm, nồng độ glucose giảm 5–7%
mỗi giờ do hiện tượng đường phân (Sacks DB và
cs, 2002). Do đó, một mẫu thử có nồng độ glucose
thật sự là 126 mg/dL sẽ giảm còn ~110 mg/dL sau 2
giờ ở nhiệt độ phòng. Các mẫu máu tăng nồng độ
hồng cầu, bạch cầu, hoặc tiểu cầu thậm chí còn có
tốc độ đường phân lớn hơn. Một quan niệm sai lầm
hay gặp là natri florua, một chất ức chế đường phân,
cản trở sự tiêu thụ glucose. Tuy florua làm giảm
đường phân in vitro, nhưng nó không có ảnh hưởng
nào trên tốc độ giảm nồng độ glucose trong 1–2 giờ
đầu sau khi lấy máu, và hiện tượng đường phân tiếp
diễn đến 4 giờ sau khi lấy mẫu máu (Chan AY và
cs, 1989). Sự chậm trễ trong tác dụng ổn định
glucose của florua rất có thể là hệ quả của sự
chuyền hóa glucose ở gần enolase – đích tác động
của fluorua (Bruns DE & Knowler WC, 2009). Sau
4 giờ, florua duy trì một nồng độ glucose ổn định
trong 72 giờ ở nhiệt độ phòng. Một nghiên cứu gần
đây cho thấy sự acid-hóa mẫu máu ức chế hiện
tượng đường phân trong 2 giờ đầu sau khi trích máu
tĩnh mạch (Gambino R và cs, 2009), nhưng ống
nghiệm lấy máu được dùng trong nghiên cứu ấy
không có bán trên thị trường. Đặt ống máu vào
nước đá ngay sau khi lấy máu là phương pháp tốt
nhất để ổn định glucose ngay từ đầu, nhưng đây
không phải là một giải pháp thực hành trong phần
lớn các bối cảnh lâm sàng. Tách tế bào ra khỏi
huyết tương trong vòng vài phút cũng có hiệu quả
nhưng không có tính thực tiễn.
Bản chất của bệnh phẩm xét nghiệm có thể ảnh
hưởng lớn đến nồng độ glucose. Có thể đo glucose
trong máu toàn phần, huyết thanh, hoặc huyết
tương, nhưng huyết tương là bệnh phẩm được ADA
và WHO khuyên dùng cho chẩn đoán. Tuy vậy,
nhiều phòng xét nghiệm lại đo glucose trong huyết
thanh, và những trị số đó có thể khác với glucose
huyết tương. Trong y văn, chưa có sự đồng thuận về
nồng độ glucose trong huyết tương là thấp hơn, cao
hơn hay là giống như nồng độ trong huyết thanh.
Điều quan trọng là nồng độ glucose trong máu toàn
phần thấp hơn nồng độ trong huyết tương đến 11%
vì hồng cầu có hàm lượng nước thấp hơn so với
huyết tương (Sacks DB và cs, 2002). Biên độ khác
biệt về glucose giữa máu toàn phần và huyết tương
thay đổi theo hematocrit. Phần lớn các thiết bị
(thường là máy đo cầm tay) đo glucose trong máu
mao mạch đều sử dụng máu toàn phần. Trong khi
đa số các thiết bị này được báo cáo là cho một trị số
glucose tương đương với huyết tương (Steffes MW
& Sacks DB, 2005), nhưng kết quả này không đúng
Y HỌC THỰC HÀNH
16 THỜI SỰ Y HỌC 07/2011 - Số 62
trên bệnh nhân bị thiếu máu (Tang Z và cs, 2000)
(nếu không hiệu chỉnh với hematocrit).
Một biến số khác là nguồn máu. Nồng độ
glucose trong máu mao mạch có thể cao hơn 20–
25% (trung bình là 30 mg/dL) so với glucose tĩnh
mạch trong OGTT (Larsson-Cohn U, 1976), tuy
rằng ở trạng thái nhịn đói thì không có khác biệt
lớn. Đây là một phát hiện có ý nghĩa thực hành đối
với OGTT, đặc biệt vì WHO cho rằng có thể chấp
nhận lấy các mẫu máu mao mạch để chẩn đoán tiểu
đường.
Biến thiên phân tích. Các phòng xét nghiệm
trung tâm hầu như chỉ dùng phương pháp enzym,
chủ yếu là glucose oxidase hoặc hexokinase, để định
lượng glucose. Để hiểu rõ kết quả đo đạc cần phân
biệt giữa độ đúng (accuracy) và độ chính xác
(precision). Độ đúng chỉ mức gần “trị số thực” của
một lần đo duy nhất, còn độ chính xác (hoặc khả
năng tái hiện) là sự khít khao tương hợp của các lần
đo lặp lại trong cùng một điều kiện. Độ chính xác
thường được biểu diễn bằng hệ số biến thiên (CV);
CV càng thấp thì độ chính xác càng cao. Nhiều cải
tiến trong việc định lượng glucose đã giúp đem lại
một độ chính xác tốt hơn (CV <2,5%). Như vậy, biến
thiên phân tích thấp hơn đáng kể so với biến thiên
sinh học (lên đến 8,3%). Tuy vậy, độ đúng đo lường
vẫn là một vấn đề. Không có một chương trình nào
chuẩn hóa kết quả giữa các máy đo khác nhau và các
phòng xét nghiệm khác nhau. Sai số hệ thống (sai
lệch kết quả so với trị số thực) và sự biến thiên giữa
các lô vật liệu kiểm định khác nhau có thể làm giảm
độ đúng của kết quả đo glucose (vật liệu kiểm định là
vật liệu có nồng độ đã biết, được dùng để điều chỉnh
qui trình đo đạc). Một nghiên cứu so sánh các số đo
glucose huyết thanh (trị số đích 98,5 mg/dL) đã được
thực hiện ở ~6.000 phòng xét nghiệm với 32 dụng cụ
đo lường khác nhau (Miller WG và cs, 2008). Phân
tích cho thấy những khác biệt có ý nghĩa thống kê
trong sai số hệ thống giữa các dụng cụ xét nghiệm
lâm sàng, với sai số dao động từ -6 đến +7 mg/dL (-6
đến +7%) ở nồng độ glucose 100 mg/dL. Những
khác biệt khá lớn này giữa các phòng xét nghiệm có
thể dẫn đến tiềm năng phân loại sai đối với >12% số
bệnh nhân. Tương tự, một điều tra của Hội Bác sĩ
Giải phẫu Bệnh Hoa Kỳ (CAP) gồm >5.000 phòng
xét nghiệm cho thấy một phần ba số lượt kết quả xét
nghiệm trên những dụng cụ đo đạc cá nhân có thể
dao động từ 141 đến 162 mg/dL (Gambino R, 2007).
Mức biến thiên 6,9% (trên hoặc dưới trị số trung
bình) này chứng tỏ một phần ba số lượt kết quả
glucose trên một mẫu bệnh phẩm duy nhất của bệnh
nhân được đo ở hai phòng xét nghiệm khác nhau có
thể khác nhau đến 14%.
Bảng 2. OGTT trong chẩn đoán tiểu đường
Ưu điểm
- Chỉ báo nhạy đối về nguy cơ phát bệnh tiểu đường
- Dấu ấn sớm của rối loạn hằng định nội môi glucose
Nhược điểm
- Thiếu khả năng tái hiện
- Bệnh nhân phải được chẩn bị kỹ lưỡng
- Tốn thời gian và bất tiện cho bệnh nhân
- Khẩu vị khó chịu
- Đắt tiền
- Bị ảnh hưởng bởi nhiều loại thuốc
- Cũng có những hạn chế như FPG, cụ thể là mẫu thử
không ổn định, cần thực hiện vào buổi sáng, v.v
OGTT (nghiệm pháp dung nạp bằng
đường uống)
OGTT đánh giá hiệu quả chuyển hóa glucose
của cơ thể và đã được dùng làm “tiêu chuẩn vàng”
để chẩn đoán tiểu đường trong nhiều năm nay. Tăng
nồng độ glucose sau bữa ăn thường xảy ra trước khi
tăng glucose lúc đói. Do đó, glucose sau bữa ăn là
một chỉ báo nhạy của nguy cơ phát bệnh tiểu đường
và là một dấu ấn sớm của rối loạn hằng định nội
môi glucose (Bảng 2). Các bằng chứng đã công bố
gợi ý rằng tăng glucose huyết tương 2 giờ sau
OGTT là một yếu tố dự báo cho tử vong do mọi
nguyên nhân lẫn biến chứng hoặc tử vong tim mạch
tốt hơn là FPG (de Vegt F và cs, 1999; DECODE
Study Group, 1999). OGTT đã được nhiều tổ chức
công nhận dùng làm phương tiện chẩn đoán, trong
đó có ADA, WHO/Liên đoàn Tiểu đường Quốc tế
(IDF). Tuy nhiên để thực hiện OGTT, bệnh nhân
cần được chuẩn kỹ. Các điều kiện quan trọng gồm
có: khẩu phần ăn ít nhất phải có 150 g carbo-
hydrat/ngày trong 3 ngày trước khi làm nghiệm
pháp, nhịn đói từ 10 đến 16 giờ, và bắt đầu làm
nghiệm pháp trong khoảng 7 đến 9 giờ sáng (Sacks
DB, 2006). Ngoài tiểu đường, nhiều bệnh trạng
khác có thể ảnh hưởng đến OGTT. Các bằng chứng
đã công bố cho thấy OGTT có độ biến thiên trong
cá thể khá cao, với CV = 16,7% lớn hơn nhiều so
với độ biến thiên của FPG (Selvin E và cs, 2007).
Những yếu tố trên khiến cho OGTT có khả năng tái
hiện kém. Sự bất tiện, thiếu khả năng tái hiện, và
chi phí của OGTT đã khiến FDA khuyến nghị nên
ưu tiên dùng FPG làm công cụ chẩn đoán dựa vào
nồng độ glucose. Cần lưu ý rằng đo glucose trong
OGTT cũng có tất cả những điểm hạn chế như
trong FPG (Bảng 1).
Y HỌC THỰC HÀNH
THỜI SỰ Y HỌC 07/2011 - Số 62 17
Đo A1C
Bảng 3. A1C trong chẩn đoán tiểu đường
Ưu điểm
- Đối tượng không cần nhịn đói
- Có thể lấy mẫu thử bất kỳ lúc nào trong ngày
- Độ biến thiên sinh học rất nhỏ
- Mẫu thử ổn định
- Không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cấp thời, ví dụ stress,
gắng sức
- Phản ánh nồng độ glucose dài hạn
- Thử nghiệm được chuẩn hóa cho tất cả các dụng cụ
- Độ đúng của xét nghiệm được theo dõi
- Một mẫu thử duy nhất là máu toàn phần
- Nồng độ dự báo sự phát triển các biến chứng vi mạch của
tiểu đường
- Được dùng để hướng dẫn điều trị
Nhược điểm
- Có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoài glucose, ví dụ
tuổi thọ hồng cầu, chủng tộc
- Một số bệnh trạng gây can nhiễu đo lường, ví dụ các bệnh
của huyết sắc tố
- Có thể không khả dụng ở một số phòng xét nghiệm/ khu
vực trên thế giới
- Tốn kém
A1C được hình thành là do glucose dính vào
valin ở đầu tận N của chuỗi trên phân tử hemo-
globin. Hồng cầu có tuổi thọ ~120 ngày, và do đó
A1C phản ánh sự phơi nhiễm đường huyết dài ngày,
cho biết nồng độ glucose trung bình trong 8–12 tuần
trước (Nathan DM và cs, 2008; Goldstein DE và cs,
2004). Các nghiên cứu quan sát (Sabanayagam C và
cs, 2009) lẫn thử nghiệm lâm sàng có đối chứng
(Nhóm Nghiên cứu DCCT, 1993; Nhóm UKPDS,
1998) đều cho thấy một sự tương quan mạnh giữa
A1C và bệnh võng mạc, cũng như các biến chứng vi
mạch khác của bệnh tiểu đường. Quan trọng hơn, trị
số A1C còn dự báo nguy cơ biến chứng vi mạch, và
việc hạ thấp nồng độ A1C (bằng cách kiểm soát chặt
đường huyết) làm giảm có ý nghĩa tốc độ tiến triển
của các biến chứng vi mạch.
Biến thiên sinh học. Trên người không bị tiểu
đường, độ biến thiên trong cá thể của A1C không là
bao (Bảng 3), với CV <1% (Rohlfing C và cs, 2002),
nhưng độ biến thiên giữa các cá thể thì cao hơn. Số
liệu của một số tác giả cho thấy trị số A1C có thể
không hằng định trên tất cả mọi cá thể dù họ có nồng
độ glucose hoặc fructosamin trong máu tương tự
nhau (Cohen RM & Smith EP, 2008). Một số tác giả
gọi đây là “độ chênh glycat-hóa” (glycation gap) và
cho rằng có sự khác biệt về tỉ lệ glycat-hóa của
hemoglobin (Hempe JM và cs, 2002). Nghiên cứu
trên các cặp song sinh bị tiểu đường týp 1 ủng hộ cho
vai trò của di truyền trong trị số A1C (Snieder H và
cs, 2001), và khả năng di truyền của độ chênh glycat-
hóa đã được nhận thấy trên các cặp song sinh nữ
khỏe mạnh (Cohen RM và cs, 2006). Tuy nhiên, về
cơ bản độ chênh glycat-hóa là một số đo A1C được
hiệu chỉnh với fructosamin. Điều quan trọng là việc
đo đạc fructosamin, vốn là albumin và protein glycat,
cũng có nhiều điểm hạn chế. Ngoài ra, một số tác giả
tỏ ra nghi ngờ phân tích thống kê được sử dụng trong
việc xác định độ chênh glycat-hóa và đã nhận thấy
sự lặp thừa thống kê (statistical tautology) trong đó
kết quả có tương quan với phần dư của phương trình
hồi qui tuyến tính (Lachin JM và cs, 2007). Quan
trọng hơn, ý kiến đề xuất về độ chênh glycat-hóa vẫn
chưa có số liệu chứng minh vì không thể đo đúng tỉ
lệ glycat-hóa in vivo. Ngoài ra, chỉ số glycat-hóa
hemoglobin (sự khác biệt giữa trị số A1C quan sát và
trị số dự đoán từ đường huyết) không phải là yếu tố
tiên đoán độc lập cho nguy cơ biến chứng vi mạch
(Lachin JM và cs, 2007), và ý nghĩa lâm sàng có thể
có của độ chênh glycat-hóa cũng không rõ ràng.
Bằng chứng hiện có ủng hộ giả thiết cho rằng
chủng tộc ảnh hưởng đến A1C. Những nghiên cứu
ban đầu trên bệnh nhân tiểu đường cho thấy nồng độ
A1C có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các
chủng tộc (Wisdom K và cs, 1997). Khi đã hiệu
chỉnh với các yếu tố có thể ảnh hưởng đến đường
huyết, thì những khác biệt này vẫn có thể tồn tại do
những biến thiên trong việc kiểm soát đường huyết.
Một bằng chứng thuyết phục nữa là trong nghiên cứu
NHANES III, người Mỹ gốc Mexico và người da
đen có trị số A1C trung bình cao hơn so với người da
trắng. Những kết quả tương tự cũng được nhận thấy
trên người lớn bị rối loạn dung nạp glucose trong
Chương trình Phòng bệnh Tiểu đường (Herman WH
và cs, 2007) và được kiểm định trong một phân tích
hai nghiên cứu cắt ngang (Ziemer DC và cs, 2010).
Gộp chung lại, những số liệu này gợi ý có sự khác
biệt về nồng độ A1C giữa các nhóm chủng tộc. Tuy
vậy, không rõ những khác biệt ấy có ý nghĩa lâm
sàng gì không. Trong nghiên cứu ARIC
(Atherosclerosis Risk in Communities), A1C được
đo ở 11.092 người lớn không có bệnh sử tiểu đường
hoặc bệnh tim mạch (Selvin E và cs, 2010), cho thấy
người da đen có trị số A1C trung bình cao hơn 0,4%
so với người da trắng. Mặc dù vậy, chủng tộc không
ảnh hưởng đến sự kết hợp giữa trị số A1C và các kết
cục tim mạch bất lợi và tử vong. Vì theo dõi thấy
người da đen có bệnh tiểu đường (theo định nghĩa
sinh hóa) mới mắc được bác sĩ chẩn đoán với tần
suất thấp hơn bệnh nhân da trắng, nên các tác giả cho
Y HỌC THỰC HÀNH
18 THỜI SỰ Y HỌC 07/2011 - Số 62
rằng sự chẩn đoán chậm trễ có thể giải thích trị số
A1C cao hơn ở người da đen.
Cơ chế phân tử của sự khác biệt vì lý do chủng
tộc vẫn chưa được biết rõ. Có thể đó là những khác
biệt về tốc độ thu nạp glucose trong hồng cầu, tốc
độ chuyển hóa glucose trong hồng cầu, tỉ lệ glucose
dính vào hoặc được nhả ra từ hemoglobin hoặc tuổi
thọ hồng cầu. Bất luận do cơ chế nào, những biến
thiên của nồng độ A1C cũng tương đối nhỏ (≤
0,4%), và chưa có sự đồng thuận liệu có nên dùng
những trị số điểm cắt (cutoff) khác nhau cho các
chủng tộc khác nhau hay không.
Biến thiên tiền phân tích. Phần lớn các yếu tố
làm thay đổi FPG không ảnh hưởng rõ rệt đến nồng
độ A1C. Bệnh cấp tính, những thay đổi lối sống
ngắn hạn (ví dụ gắng sức), mới ăn xong, và cách xử
lý mẫu thử không ảnh hưởng nhiều đến trị số A1C
(Bảng 3). Mẫu máu toàn phần ổn định trong 1 tuần
ở 4°C và ít nhất 1 năm ở nhiệt độ 270°C hoặc lạnh
hơn (Little RR và cs, 2007).
Kết quả đo A1C tùy thuộc vào tuổi thọ bình
thường của hồng cầu. Bệnh nhân thiếu máu huyết
tán hoặc có những bệnh khác với tuổi thọ hồng cầu
bị rút ngắn sẽ có A1C thấp (Sundaram RC và cs,
2007). Tương tự, người bị mất máu cấp có trị số
A1C thấp giả tạo vì tăng tỉ lệ hồng cầu non. Sự gia
tăng giả tạo của A1C đã được báo cáo với một số
phương pháp trên bệnh nhân có tăng triglyceride-
máu, tăng bilirubin-máu, urê-máu, nghiện rượu,
hoặc sử dụng salicylat dài hạn (Sacks DB và cs,
2002). Vì phần lớn các can nhiễu có tính chuyên
biệt theo phương pháp đo, mà trong nhiều trường
hợp có thể khắc phục bằng cách lựa chọn phương
pháp thích hợp không bị can nhiểu.
Nồng độ A1C và fructosamin tăng ở người bị thiếu
máu thiếu sắt (Sundaram RC và cs, 2007), và giảm đi
khi bệnh nhân được điều trị với sắt. Cơ chế tăng A1C
gần đây đã được phát hiện qua việc chứng minh
malondialdehyde – một dấu ấn của stress ôxy-hóa,
tăng ở bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt (Sundaram RC
và cs, 2007) – tăng lên do sự glycat-hóa hemo-globin
(Selvaraj N và cs, 2006). Tuy vậy, múc tăng A1C có
lẽ là nhỏ. Khảo sát 10.535 người lớn tự báo không có
bệnh tiểu đường trong nghiên cứu NHANES III cho
thấy trong khi 13,7% số phụ nữ bị thiếu sắt, chỉ có
4,74% và 0,48% số đối tượng, theo thứ tự, có nồng độ
A1C ≥5,5% hoặc ≥6,5% (Kim C và cs, 2010). Thiếu
sắt ở phụ nữ kết hợp với A1C ≥5,5% ở một xác suất
nhỏ nhưng có ý nghĩa (OR = 1,39), nhưng không kết
hợp có ý nghĩa với A1C ≥6,%. Thiếu sắt hiếm gặp ở
nam giới (<0,5%). Mặc dù vậy, có lẽ nên thận trọng
chữa tình trạng thiếu sắt trước khi đo A1C ở người bị
thiếu máu thiếu sắt nặng.
Biến thiên phân tích. Có khoảng 100 phương
pháp khác nhau được dùng để đo A1C. Các phương
pháp phổ biến nhất là dùng kháng thể (xét nghiệm
miễn dịch) hoặc sắc ký trao đổi cation (phổ biến
nhất là sắc ký lỏng hiệu năng cao) để tách
hemoglobin glycat (A1C) khỏi hemoglobin không
glycat-hóa. Chương trình Tiêu chuẩn hóa
Glycohemoglobin Quốc gia (NGSP) đã có công
chuẩn hóa việc xét nghiệm A1C ở các phòng xét
nghiệm, đặc biệt là (nhưng không riêng gì) ở Hoa
Kỳ. NGSP đã cải thiện đáng kể hiệu năng của việc
xét nghiệm A1C. Hiện tại, đại đa số (93%) các
phòng xét nghiệm lâm sàng tham gia các cuộc điều
tra của CAP đang sử dụng các phương pháp có CV
giữa các phòng xét nghiệm <5%. Một số phương
pháp có CV nội tại thấp <0,5%. Ngoài ra, Liên đoàn
Hóa học Lâm sàng Quốc tế (IFCC) đã phát triển
một phương pháp tham chiếu sử dụng trắc phổ khối
(hoặc điện di mao dẫn) để đo A1C, nhằm tiến đến
sự hài hòa quốc tế vì nó tạo thuận lợi cho việc truy
nguyên đến một trị số đúng về mặt đo lường. Cần
nói rằng phương pháp IFCC khá phức tạp về mặt kỹ
thuật, tốn thời gian, đắt tiền, và không được thiết kế
để sử dụng trong xét nghiệm thường qui.
Các biến thể hemoglobin ảnh hưởng đến một số
phép đo A1C. Những biến thể thường gặp nhất là
HbS, HbE, HbC, và HbD. Việc đo lường A1C
không thích hợp trên các đối tượng đồng hợp tử
HbS hoặc HbC, có HbSC hoặc bất kỳ biến thể nào
khác làm thay đổi tuổi thọ hồng cầu. Tuy vậy, có
thể đo đúng trên người đồng hợp tử HbS, HbE,
HbC, hoặc HbD và trên người tăng HbF, miễn là
dùng một kỹ thuật xét nghiệm thích hợp (Little RR
& Sacks DB, 2009). Chỉ khoảng 4% trong số
3.378 phòng xét nghiệm lâm sàng tham gia điều
tra GH2 (đo A1C) 2010 của CAP sử dụng các
phương pháp mà trong đó HbAS hoặc HbAC gây
can nhiễu có ý nghĩa. Ngoài ra, nếu xét nghiệm
bệnh phẩm bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao, khi
quan sát kỹ sắc ký đồ thường phát hiện những đỉnh
khác thường do biến thể hemoglobin tạo ra. Nên
xét đến sự hiện diện của một biến thể hemoglobin
nếu A1C >15% hoặc nếu có một sự thay đổi lớn
của A1C xảy ra khi thay đổi phương pháp xét
nghiệm A1C (Bry L và cs, 2001). Trong những
trường hợp như vậy, nên làm điện di hemoglobin.
Cần nhấn mạnh rằng như mọi xét nghiệm khác,
nên thăm dò những kết quả A1C không tương
thích với biểu hiện lâm sàng.
Y HỌC THỰC HÀNH
THỜI SỰ Y HỌC 07/2011 - Số 62 19
Triển vọng
Mặc dù glucose (FPG và/hoặc OGTT) được
dùng như “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán tiểu
đường từ nhiều năm nay, nhưng xét nghiệm glucose
có một số khuyết điểm. Việc yêu cầu đối tượng phải
nhịn ăn từ trước và ở thời điểm lấy máu là một bất
tiện lớn. Tuy khả năng đo lường glucose đã được
cải thiện, nhưng sự biến thiên sinh học cố hữu có
thể tạo ra những sai biệt rất lớn trong mỗi cá thể và
giữa các cá thể. Cùng với sự thiếu độ ổn định của
mẫu thử, vốn khó khắc phục trong thực hành lâm
sàng, những yếu tố này làm cho việc xét nghiệm
glucose trở nên thiếu khả năng tái hiện.
Là số đo phản ánh trị số glucose huyết dài hạn,
A1C thường được dùng để theo dõi sự kiểm soát
đường huyết và hướng dẫn điều trị. Biến chứng vi
mạch giảm có ý nghĩa với những trị số A1C thấp và
tính ổn định của mẫu thử, cùng với những ưu điểm
khác (Bảng 3), đã khiến một số tổ chức khuyên
dùng A1C để tầm soát và chẩn đoán tiểu đường.
Ngày càng có nhiều bằng chứng gợi ý rằng trị số
A1C có thể có những khác biệt theo chủng tộc, và ý
nghĩa lâm sàng của hiện tượng này cần được xác
định. Cần lưu ý là có một vài bệnh trạng không thể
đo A1C, tuy vậy có thể đo đúng A1C trên đại đa số
đối tượng. Sự hiểu biết các yếu tố ảnh hưởng đến trị
số A1C và những điều kiện không nên dùng trị số
này sẽ đem lại những kết quả đúng đắn và có ý
nghĩa lâm sàng. Sự tiện lợi của việc lấy mẫu bất kỳ
lúc nào mà không cần để ý đến tình trạng no hay
đói có nhiều khả năng cho thấy đo A1C sẽ phát hiện
được hàng triệu người bị tiểu đường nhưng chưa
được chẩn đoán.
Theo David B. Sacks. Diabetes Care 2011, 34: 518-523
Các file đính kèm theo tài liệu này:
so_sanh_xet_nghiem_a1c_va_glucose.pdf