Nồng độ nonHDL-C huyết tương trong nghiên cứu của chúng tôi là 4,00 ± 1,09 (mmol/L), tỷ
lệ tăng nồng độ nonHDL-C là 46,3%. Nồng độ nonHDL-C trong nghiên cứu của chúng tôi tương
tự nghiên cứu của tác giả Safo là 3,9 ± 1,05 mmol/L (150,3 ± 40,07 mg/dL) [7]. Nồng độ
nonHDL-C trong nghiên cứu của tác giả Warjukar Prajakta là 4,08 ± 0,8 mmol/L [3]. Nồng độ
nonHDL-C trong nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Thanh Huyền là 3,66 ± 1,12 mmol/L [7]. Tác giả
Zabeen S. đã nghiên cứu về nồng độ nonHDL-C và một số chỉ số lipid huyết tương ở 103 bệnh
nhân ĐTĐ type 2 ở độ tuổi trung bình là 46,53 ± 5,43 (năm) và 47 người không ĐTĐ ở độ tuổi
trung bình là 47,38 ± 7,61 (năm); kết quả nghiên cứu cho thấy nonHDL-C ở nhóm bệnh nhân
ĐTĐ là 4,69 ± 1,04 mmol/L (181,0 ± 40,11 mg/dL), cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân
không ĐTĐ là 3,69 ± 0,94 mmol/L (142,47 ± 36,27 mg/dL), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
p < 0,001 [9].
Khi phân tích một số yếu tố liên quan đến nồng độ nonHDL-C ở bệnh nhân đái tháo đường,
kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ở nhóm bệnh nhân nữ, nhóm bệnh nhân tăng nồng độ
LDL-C, nhóm bệnh nhân không kiểm soát tốt nồng độ glucose huyết tương thì tỷ lệ tăng nồng độ
nonHDL-C cao hơn so với nhóm bệnh nhân nam, nhóm bệnh nhân không tăng nồng độ LDL-C
cũng như nhóm bệnh nhân kiểm soát tốt nồng độ glucose huyết tương (bảng 3.3). Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của tác giả Ram và cs nghiên cứu về nồng độ
nonHDL-C và một số chỉ số lipid huyết tương khác ở 1352 bệnh nhân ĐTĐ type 2, có tuổi trung
bình là 54,5 ± 11,3 (năm), bệnh nhân nam chiếm tỷ lệ 59%, tỷ lệ bệnh nhân thừa cân, béo phì
chiếm 83%, số bệnh nhân không kiểm soát tốt nồng độ glucose là 75%, tỷ lệ bệnh nhân tăng
nồng độ nonHDL-C ở nhóm bệnh nhân nữ, bệnh nhân tăng nồng độ LDL-C và bệnh nhân không
kiểm soát tốt nồng độ glucose huyết tương cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân nam,
nhóm bệnh nhân có nồng độ LDL-C bình thường và nhóm bệnh nhân kiểm soát tốt nồng độ
glucose huyết tương với OR và 95% CI tương ứng là [1,2 (1,2 - 1,5; p < 0,001)]; [37,5 (27,5 -
51,1; p < 0,001)]; [1,6 (1,2 - 2,2; p < 0,001)] [9]. Ngoài ra, tỷ lệ tăng nồng độ nonHDL-C huyết
tương ở nhóm bệnh nhân < 60 tuổi, nhóm bệnh nhân thừa cân - béo phì, nhóm bệnh nhân không
tăng huyết áp cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân ≥ 60 tuổi [9]. Một số yếu tố liên quan
đến tăng nồng độ nonHDL-C trong nghiên cứu của tác giả Warjukar Prajakta gồm bệnh nhân <
60 tuổi, bệnh nhân nữ, bệnh nhân thừa cân, béo phì, bệnh nhân có nồng độ LDL-C tăng. Tăng
nồng độ nonHDL-C liên quan đến tăng nguy cơ bệnh tim mạch, thậm chí ở cả những bệnh nhân
có nồng độ LDL-C bình thường hoặc dưới mức bình thường theo NCEP III [8]. Tăng nonHDL-C
có tương quan thuận với tỷ lệ HbA1C [1], tương quan thuận với nồng độ LDL-C [3]. Đây là xét
nghiệm rẻ tiền, dễ thực hiện, có hiệu quả để theo dõi vữa - xơ động mạch ở bệnh nhân đái tháo
đường, nên được thực hiện thường quy ở bệnh nhân đái tháo đường [1], [3], [4].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 27 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Some factors related to plasma non hdl-C in patients with diabetes in Thai Nguyen medical college hospital, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TNU Journal of Science and Technology 226(01): 135 - 141
135 Email: jst@tnu.edu.vn
SOME FACTORS RELATED TO PLASMA NON HDL-C IN PATIENTS
WITH DIABETES IN THAI NGUYEN MEDICAL COLLEGE HOSPITAL
Nguyen Thi Hoa1*, Nguyen Thi Ngoc Huyen2, Duong Hong Thai1
1TNU - University of Medicine and Pharmacy
2Thai Nguyen National Hospital
ARTICLE INFO ABSTRACT
Received: 29/11/2020 This study aims to analyze some factors related to plasma non HDL-C
in patients with diabetes in Thai Nguyen Medical College Hospital. A
cross study was conducted on 216 diabetic patients in Thai Nguyen
Medical College Hospital. The results show that the mean levels and
prevalence of dyslipidemia including total cholesterol, triglyceride,
HDL-C, LDL-C, nonHDL-C were 5.11 ± 1.09 mmol/L; 44.9%, 2.65 ±
1.63 mmol/L; 71.3%, 1.10 ± 0.28 mmol/L; 44.9%, 2.94 ± 0.97 mmol/L;
44.9%, 4.00 ± 1.09 mmol/L, 46.3%, respectively. In this study it was
seen that, being female, in the increase LDL-C group and uncontrolled
glucose group were associated with having nonHDL-C >4,1mmol/L
higher than being male, in the normal LDL-C group and controlled
glucose group. The mean concentration of non-HDL-C was 4.00 ± 1.09
mmol/L, the ratio of nonHDL-C disorders was 46.3%. Several factors
were associated with increased levels of nonHDL-C including females,
increased LDL-C levels, and uncontrolled glucose.
Revised: 20/01/2021
Published: 31/01/2021
KEYWORDS
Diabetes
NonHDL-C
Thai Nguyen Medical College
Hospital
Dyslipidemia
Factors relation
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN NỒNG ĐỘ NON HDL-C HUYẾT TƯƠNG
Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2
TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Hoa1*, Nguyễn Thị Ngọc Huyền 2, Dương Hồng Thái 1
1Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên
2Bệnh viện Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên
THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT
Ngày nhận bài: 29/11/2020 Nghiên cứu nhằm phân tích một số yếu tố liên quan đến nồng độ non
HDL-C huyết tương ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện
trường Đại học Y khoa Thái Nguyên. Phương pháp mô tả cắt ngang
được thực hiện trên 216 bệnh nhân đái tháo đường type 2 đang điều
trị ngoại trú tại Bệnh viện trường Đại học Y khoa Thái Nguyên. Kết
quả cho thấy nồng độ và tỷ lệ rối loạn một số thành phần lipid huyết
tương gồm cholesterolTP, triglycerid, HDL-C, LDL-C, non HDL-C
tương ứng là 5,11 ± 1,09 mmol/L; 44,9%, 2,65 ± 1,63 mmol/L;
71,3%, 1,10 ± 0,28 mmol/L; 44,9%, 2,94 ± 0,97 mmol/L; 44,9%,
4,00 ± 1,09 mmol/L, 46,3%. Ở nhóm bệnh nhân nữ, nhóm bệnh nhân
tăng nồng độ LDL-C huyết tương và nhóm bệnh nhân không kiểm
soát tốt nồng độ glucose huyết tương thì tỷ lệ tăng nonHDL-C cao
hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân nam, nhóm bệnh nhân không
tăng LDL-C và nhóm bệnh nhân kiểm soát tốt nồng độ glucose huyết
tương, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,05. Nồng độ
nonHDL-C ở bệnh nhân đái tháo đường là 4,00 ± 1,09 mmol/L, tỷ lệ
tăng nonHDL-C là 46,3%. Một số yếu tố liên quan đến tăng nồng độ
nonHDL-C gồm giới nữ, tăng nồng độ LDL-C và không kiểm soát
tốt nồng độ glucose.
Ngày hoàn thiện: 20/01/2021
Ngày đăng: 31/01/2021
TỪ KHÓA
Đái tháo đường
Non HDL-C
Bệnh viện Trường Đại học Y khoa
Thái Nguyên
Yếu tố liên quan
Rối loạn lipid
* Corresponding author. Email: hoanguyenthi74hstn@gmail.com
TNU Journal of Science and Technology 226(01): 135 - 141
136 Email: jst@tnu.edu.vn
1. Đặt vấn đề
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong các bệnh rối loạn chuyển hóa, được đặc trưng bởi tăng
glucose máu do giảm hoạt động của insulin hoặc do giảm bài tiết insulin hoặc do cả hai nguyên
nhân trên. Theo thống kê của Liên đoàn ĐTĐ quốc tế (IDF 2017), trên thế giới hiện đang có 425
triệu người mắc ĐTĐ trong độ tuổi từ 20 đến 79 (cứ 11 người lớn thì có 1 người mắc ĐTĐ), chi
phí y tế toàn cầu cho ĐTĐ chiếm 12% (khoảng 727 tỷ đô la). Số bệnh nhân tử vong do ĐTĐ
khoảng 4 triệu người, trong đó 75-80% tử vong do biến chứng tim mạch [1].
Rối loạn lipid huyết tương là yếu tố nguy cơ truyền thống của bệnh tim mạch. Nhóm xét
nghiệm đánh giá lipid huyết tương chuẩn thường sử dụng gồm cholesterolTP, triglycerid, HDL-
C, LDL-C, trong đó tăng triglycerid, tăng LDL-C và giảm HDL-C máu được coi là bộ ba là rối
loạn lipid sinh vữa xơ. Mặc dù, nồng độ LDL-C đạt mục tiêu nhưng nguy cơ vữa xơ động mạch
vẫn cao (65-70%) nguyên nhân là do các yếu tố nguy cơ vữa xơ khác có trong thành phần
apoprotein B, đây cũng là những yếu tố tiềm năng gây vữa xơ động mạch [2].
Non HDL-C là chỉ số đo nồng độ cholesterol của các apoprotein B gây xơ vữa gồm VLDL,
IDL và LDL nhỏ - đậm đặc và chylomicron tàn dư, đây là chỉ số được tính dựa vào nồng độ
cholesterol toàn phần và HDL-C. Đánh giá chỉ số này không chỉ cho biết nồng độ LDL-C mà còn
biết những tiểu phần khác của apoB như VLDL, IDL và chylomicron tàn dư [2]. Mặc dù
apoprotein B có thể định lượng trực tiếp nhưng sinh phẩm không sẵn có và giá thành khá cao.
Trong khi đó, có thể xác định nồng độ nonHDL-C khá đơn giản, chi phí thấp, có giá trị thay thế
apoB trong thực hành lâm sàng [1], [3], [4]. Trên thế giới đã có những nghiên cứu về giá trị dự
báo nguy cơ bệnh tim mạch của non HDL-C hơn so với LDL-C đơn lẻ trong chẩn đoán nguy cơ
bệnh tim mạch [5], [6]. Tại Việt Nam, cũng đã có nghiên cứu nồng độ nonHDL-C ở bệnh nhân
đái tháo đường cao tuổi có yếu tố nguy cơ tim mạch cho thấy tăng nonHDL-C có liên quan với
việc gia tăng các biến chứng tim mạch như bệnh mạch vành và tăng huyết áp [7]. Vậy nồng độ
nonHDL-C có liên quan đến những đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng nào khác? Để trả lời câu hỏi
trên chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu: Phân tích một số yếu tố liên quan đến nồng
độ non HDL-C huyết tương ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện trường Đại học Y
khoa Thái Nguyên.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 216 bệnh nhân ĐTĐ type 2 được quản lí điều trị ngoại trú tại đơn vị quản lý Đái tháo
đường - Tăng huyết áp, Bệnh viện trường Đại học Y khoa Thái Nguyên.
* Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: Chẩn đoán ĐTĐ type 2 theo khuyến cáo của WHO (2005), dựa
trên các đặc điểm lâm sàng sau:
+ Bệnh khởi phát muộn, thường không rõ triệu chứng, bắt đầu từ từ, các dấu hiệu ăn nhiều,
uống nhiều, đái nhiều, gầy sút cân không rõ rệt.
+ Thể trạng thường béo, tiền sử gia đình thường có người mắc ĐTĐ type 2.
+ Hiếm khi nhiễm toan ceton.
+ Áp dụng một hoặc phối hợp nhiều phương pháp điều trị như thay đổi chế độ ăn, tăng cường
vận động, sử dụng thuốc hạ glucose máu bằng đường uống hoặc insulin.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
+ ĐTĐ thai kì.
+ ĐTĐ kết hợp có rối loạn lipid huyết tương thứ phát: Hội chứng thận hư, Basedow, suy giáp
hoặc đang dùng thuốc (corticoid, estrogen).
+ Bệnh nhân bị rối loạn tâm thần, rối loạn trí nhớ, sa sút trí tuệ, không có khả năng giao tiếp.
+ Bệnh nhân ĐTĐ type 2 không đồng ý tham gia nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn phân loại rối loạn lipid máu theo Hội Tim mạch Việt Nam năm 2006:
TNU Journal of Science and Technology 226(01): 135 - 141
137 Email: jst@tnu.edu.vn
Bảng 1. Phân loại rối loạn lipid máu theo Hội Tim mạch Việt Nam năm 2006
Thành phần lipid máu (mmol/L) Bình thường Rối loạn
CholesterolTP < 5,2 ≥ 5,2
Triglycerid < 1,7 ≥ 1,7
HDL-C > 1,0 ≤ 1,0
LDL-C < 3,1 ≥ 3,1
nonHDL-C ≤ 4,1 > 4,1
Bảng 2. Phân loại thể trạng theo chỉ số khối cơ thể áp dụng cho người châu Á
Thể trạng BMI (kg/m2)
Gầy < 18,5
Bình thường 18,5 - 22,9
Thừa cân
Béo phì
23 - 24,9
≥ 25
* Phân loại tăng huyết áp theo JNC VI
2.2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 7/2019 đến tháng 6/2020.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại đơn vị quản lý ĐTĐ-THA, Bệnh viện trường Đại học Y khoa Thái
Nguyên; Khoa Xét nghiệm, Bệnh viện Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu được tính theo công thức: n = p.q
n: cỡ mẫu nghiên cứu
α: mức ý nghĩa thống kê, với α = 0,05 thì hệ số Z1- α/2 = 1,96
p là tỷ lệ tăng nồng độ nonHDL-C trong một nghiên cứu trước (lấy trong nghiên cứu của tác
giả Ram (2014) với tỷ lệ tăng nồng độ nonHDL-C là 65% [9]), vậy p = 0,65.
q = 1 – p = 0,35
d = 1/10p = 0,065
Từ công thức trên, ta có số đối tượng nghiên cứu là 206. Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện
trên 216 bệnh nhân.
2.5. Thiết bị nghiên cứu
Các máy xét nghiệm sinh hóa tự động OLYMPUS AU.
Hóa chất do hãng BECKMAN COULTER cung cấp.
2.6. Chỉ tiêu nghiên cứu
- Thông tin chung: tuổi, giới, thời gian mắc bệnh.
- Đặc điểm lâm sàng: huyết áp, chiều cao, cân nặng, chỉ số BMI.
- Đặc điểm cận lâm sàng: định lượng nồng độ glucose huyết tương, HbA1C máu toàn phần.
Định lượng nồng độ một số thành phần lipid huyết tương: cholesterolTP (TC), triglycerid,
HDL-C, LDL-C.
non HDL-C được tính theo công thức: non HDL = TC – HDL-C
2.7. Kỹ thuật thu thập số liệu
Thu thập số liệu các thông tin chung và chỉ tiêu lâm sàng, cận lâm sàng theo mẫu bệnh án nghiên cứu.
TNU Journal of Science and Technology 226(01): 135 - 141
138 Email: jst@tnu.edu.vn
Định lượng các chỉ số cận lâm sàng theo quy trình chuẩn trên máy AU480.
2.8. Phương pháp xử lý số liệu: Theo phương pháp thống kê y học.
2.9. Đạo đức trong nghiên cứu: Được tuân thủ đạo đức trong nghiên cứu.
3. Kết quả nghiên cứu
Bảng 1. Một số đặc điểm lâm sàng nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Đặc điểm n %
Giới
Nam 112 51,9
Nữ 104 48,1
Tuổi
X SD (năm) 63,2 ± 6,5 41 - 87
< 60 tuổi 53 24,5
≥ 60 tuổi 163 75,5
BMI (kg/m2)
X SD 23,7 ± 2,7 18,6 - 33,2
< 23 96 44,4
≥ 23 120 55,6
Thời gian
mắc bệnh
X SD (năm) 6,95 ± 5,82 1 - 31
< 5 năm 94 43,5
≥ 5 năm 122 56,5
Huyết áp
HATT ( X SD) 131,2 ± 10,4 110 - 180
HATTr ( X SD) 79,0 ± 6,1 65 - 100
Bình thường 168 77,8
Tăng huyết áp 48 22,2
Bảng 2. Một số đặc điểm cận lâm sàng nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Chỉ số n %
TC
(mmol/L)
X SD (Min-Max) 5,11 ± 1,09 2,2 - 8,7
Bình thường 119 55,1
Tăng 97 44,9
TG
(mmol/L)
X SD (Min-Max) 2,65 ± 1,63 0,4 - 9,3
Bình thường 62 28,7
Tăng 154 71,3
HDL-C
(mmol/L)
X SD (Min-Max) 1,10 ± 0,28 0,3 - 1,9
Bình thường 119 55,1
Giảm 97 44,9
LDL
(mmol/L)
X SD (Min-Max) 2,94 ± 0,97 1,8 - 5,9
Bình thường 119 55,1
Tăng 97 44,9
Non HDL-C
(mmol/L)
X SD (Min-Max) 4,00 ± 1,09 1,9 - 6,5
Bình thường 116 53,7
Tăng 100 46,3
Glucose
(mmol/L)
X SD (Min-Max) 7,4 ± 1,9 4,0 - 14,1
KS tốt 95 44,0
KS không tốt 121 56,0
HbA1C
(%)
X SD (Min-Max) 6,4 ± 1,1 3,8 - 10,7
KS tốt 136 63,0
KS không tốt 80 37,0
TNU Journal of Science and Technology 226(01): 135 - 141
139 Email: jst@tnu.edu.vn
Kết quả bảng 1 cho thấy không có sự khác biệt về giới ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu. Bệnh
nhân chủ yếu ở độ tuổi ≥ 60, chiếm 75,5%; tỷ lệ bệnh nhân có thừa cân, béo phì chiếm 56,5%.
Thời gian mắc bệnh trung bình là 6,95 năm; tỷ lệ bệnh nhân có thời gian ≥ 5 năm là 56,5%. Có
22,2% không kiểm soát tốt huyết áp.
Kết quả bảng 2 cho thấy tăng nồng độ triglycerid, glucose và HbA1C ở nhóm bệnh nhân
nghiên cứu, các thành phần lipid huyết tương khác trong giới hạn bình thường, tỷ lệ tăng TC
44,9%, tăng TG 71,3%, tăng LDL-C 44,9%, tăng nonHDL-C 46,3%, giảm HDL-C 44,9%, tỷ lệ
bệnh nhân kiểm soát không tốt glucose huyết tương khá cao (37% theo tỷ lệ HbA1C và 56% theo
nồng độ glucose huyết tương).
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến nồng độ nonHDL huyết tương
Yếu tố liên quan
Non HDL
OR (95% CI)
p
Tăng (n =
100)
Bình thường (n = 116)
Tuổi
< 60 tuổi (n = 53) 23 (43,4) 30 (56,6) 1,09 (0,77 - 1,54)
> 0,05 ≥ 60 tuổi (n =163) 77 (47,2) 86 (52,8)
Giới
Nam (n =112) 43 (38,4) 69 (61,6) 1,43 (1,07 - 1,91)
< 0,05 Nữ (n =104) 57 (54,8) 47 (45,2)
BMI
< 23 (n = 96) 41 (42,7) 55 (57,3) 1,12 (0,88 - 1,42)
> 0,05 ≥ 23 (n =120) 59 (49,2) 61 (50,9)
Tg mắc bệnh
< 5 năm (n = 94) 46 (48,9) 48 (51,1) 0,90 (0,68 - 1,21)
> 0,05 ≥ 5 năm (n = 122) 54 (44,3) 68 (55,7)
HA
BT (n = 168) 79 (79) 89 (76,7) 0,93 (0,65 - 1,33)
> 0,05 Tăng HA (n = 48) 21 (21) 27 (23,3)
LDL-C
BT (n =119) 28 (28) 89 (76,7) 3,09 (2,17 - 4,40)
< 0,001 Tăng (n = 97) 72 (72) 27 (23,3)
Glucose
KS tốt (n = 95) 35 (36,8) 60 (63,2) 1,46 (1,07 - 1,99)
< 0,05 KS không tốt (n = 121) 65 (53,7) 56 (46,3)
HbA1C
KS tốt (n = 136) 55 (40,4) 81 (59,6) 1,39 (1,05 - 1,82)
< 0,05 KS không tốt (n = 80) 45 (56,3) 35 (43,7)
Kết quả bảng 3 cho thấy ở nhóm bệnh nhân nữ, nhóm bệnh nhân tăng nồng độ LDL-C huyết
tương và nhóm bệnh nhân không kiểm soát tốt nồng độ glucose huyết tương thì tỷ lệ tăng
nonHDL-C cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân nam, nhóm bệnh nhân không tăng LDL-C
và nhóm bệnh nhân kiểm soát tốt nồng độ glucose huyết tương, với sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê p<0,05. Ở nhóm bệnh nhân <60 tuổi, nhóm bệnh nhân thừa cân-béo phì, nhóm bệnh nhân
không tăng huyết áp và nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh <5 năm, tỷ lệ tăng nồng độ
nonHDL-C có xu hướng cao hơn các nhóm còn lại với p.0,05.
4. Bàn luận
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về nồng độ nonHDL-C và một số yếu tố liên quan đến nồng
độ nonHDL-C ở 216 bệnh nhân đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện trường Đại học Y khoa Thái
Nguyên cho thấy tỷ lệ nam chiếm 51,9%, nữ chiếm 48,1%, độ tuổi trung bình là 63,2 ± 6,5
(năm), thời gian mắc bệnh trung bình là 6,95 ± 5,82 (năm), số bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ≥
5 năm chiếm 56,5%, chỉ số BMI trung bình là 23,7 ± 2,7 (kg/m2), có 56,5% số bệnh nhân thừa
cân - béo phì. Tác giả Agarwal nghiên cứu 187 bệnh nhân đái tháo đường tại Ahmedabad (Ấn
Độ) cho thấy tỷ lệ nam/nữ là 98/89, ở độ tuổi trung bình là 55,8 ± 10,12 (năm), có thời gian mắc
bệnh trung bình là 4,8 ± 3,64 (năm), chỉ số BMI trung bình là 25,6 ± 5,81 (kg/m2), tỷ lệ bệnh
nhân thừa cân - béo phì là 73,8% [8]. Tác giả Safo nghiên cứu trên 210 bệnh nhân đái tháo đường
ở độ tuổi trung bình là 55,56 ± 10,48 (năm), tỷ lệ bệnh nhân nữ chiếm 60,5%, chỉ số BMI trung
TNU Journal of Science and Technology 226(01): 135 - 141
140 Email: jst@tnu.edu.vn
bình là 29,49 ± 4,49 (kg/m2) [1]. Tỷ lệ nam/nữ trong nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Thanh Huyền
ở 456 bệnh nhân đái tháo đường > 60 tuổi là 36,4%/63,6% [7].
Nồng độ nonHDL-C huyết tương trong nghiên cứu của chúng tôi là 4,00 ± 1,09 (mmol/L), tỷ
lệ tăng nồng độ nonHDL-C là 46,3%. Nồng độ nonHDL-C trong nghiên cứu của chúng tôi tương
tự nghiên cứu của tác giả Safo là 3,9 ± 1,05 mmol/L (150,3 ± 40,07 mg/dL) [7]. Nồng độ
nonHDL-C trong nghiên cứu của tác giả Warjukar Prajakta là 4,08 ± 0,8 mmol/L [3]. Nồng độ
nonHDL-C trong nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Thanh Huyền là 3,66 ± 1,12 mmol/L [7]. Tác giả
Zabeen S. đã nghiên cứu về nồng độ nonHDL-C và một số chỉ số lipid huyết tương ở 103 bệnh
nhân ĐTĐ type 2 ở độ tuổi trung bình là 46,53 ± 5,43 (năm) và 47 người không ĐTĐ ở độ tuổi
trung bình là 47,38 ± 7,61 (năm); kết quả nghiên cứu cho thấy nonHDL-C ở nhóm bệnh nhân
ĐTĐ là 4,69 ± 1,04 mmol/L (181,0 ± 40,11 mg/dL), cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân
không ĐTĐ là 3,69 ± 0,94 mmol/L (142,47 ± 36,27 mg/dL), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
p < 0,001 [9].
Khi phân tích một số yếu tố liên quan đến nồng độ nonHDL-C ở bệnh nhân đái tháo đường,
kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ở nhóm bệnh nhân nữ, nhóm bệnh nhân tăng nồng độ
LDL-C, nhóm bệnh nhân không kiểm soát tốt nồng độ glucose huyết tương thì tỷ lệ tăng nồng độ
nonHDL-C cao hơn so với nhóm bệnh nhân nam, nhóm bệnh nhân không tăng nồng độ LDL-C
cũng như nhóm bệnh nhân kiểm soát tốt nồng độ glucose huyết tương (bảng 3.3). Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của tác giả Ram và cs nghiên cứu về nồng độ
nonHDL-C và một số chỉ số lipid huyết tương khác ở 1352 bệnh nhân ĐTĐ type 2, có tuổi trung
bình là 54,5 ± 11,3 (năm), bệnh nhân nam chiếm tỷ lệ 59%, tỷ lệ bệnh nhân thừa cân, béo phì
chiếm 83%, số bệnh nhân không kiểm soát tốt nồng độ glucose là 75%, tỷ lệ bệnh nhân tăng
nồng độ nonHDL-C ở nhóm bệnh nhân nữ, bệnh nhân tăng nồng độ LDL-C và bệnh nhân không
kiểm soát tốt nồng độ glucose huyết tương cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân nam,
nhóm bệnh nhân có nồng độ LDL-C bình thường và nhóm bệnh nhân kiểm soát tốt nồng độ
glucose huyết tương với OR và 95% CI tương ứng là [1,2 (1,2 - 1,5; p < 0,001)]; [37,5 (27,5 -
51,1; p < 0,001)]; [1,6 (1,2 - 2,2; p < 0,001)] [9]. Ngoài ra, tỷ lệ tăng nồng độ nonHDL-C huyết
tương ở nhóm bệnh nhân < 60 tuổi, nhóm bệnh nhân thừa cân - béo phì, nhóm bệnh nhân không
tăng huyết áp cao hơn có ý nghĩa so với nhóm bệnh nhân ≥ 60 tuổi [9]. Một số yếu tố liên quan
đến tăng nồng độ nonHDL-C trong nghiên cứu của tác giả Warjukar Prajakta gồm bệnh nhân <
60 tuổi, bệnh nhân nữ, bệnh nhân thừa cân, béo phì, bệnh nhân có nồng độ LDL-C tăng. Tăng
nồng độ nonHDL-C liên quan đến tăng nguy cơ bệnh tim mạch, thậm chí ở cả những bệnh nhân
có nồng độ LDL-C bình thường hoặc dưới mức bình thường theo NCEP III [8]. Tăng nonHDL-C
có tương quan thuận với tỷ lệ HbA1C [1], tương quan thuận với nồng độ LDL-C [3]. Đây là xét
nghiệm rẻ tiền, dễ thực hiện, có hiệu quả để theo dõi vữa - xơ động mạch ở bệnh nhân đái tháo
đường, nên được thực hiện thường quy ở bệnh nhân đái tháo đường [1], [3], [4].
5. Kết luận
Nồng độ nonHDL-C ở bệnh nhân đái tháo đường là 4,00 ± 1,09 mmol/L, tỷ lệ tăng nonHDL-
C là 46,3%.
Một số yếu tố liên quan đến tăng nồng độ nonHDL-C gồm giới nữ, tăng nồng độ LDL-C và
không kiểm soát tốt nồng độ glucose.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1] A. Safo, “Correlation between Non‑high‑densityLipoprotein‑Cholesterol and the Degree of Glycemic
Control in Type 2 Diabetes Mellitus,” Medical Journal of Babylon, vol. 15, no. 2, pp. 169-172, 2018.
[2] S. Carr, A. J. Hooper, D. R. Sullivan, and J. Burnett, “Non-HDL-cholesterol and apolipoprotein B
compared with LDL-cholesterol in atherosclerotic cardiovascular disease risk assessment,” Pathology,
vol. 51, no. 2, pp. 148-154, 2019.
TNU Journal of Science and Technology 226(01): 135 - 141
141 Email: jst@tnu.edu.vn
[3] S. Carr, A. J. Hooper, D. R. Sullivan, and J. Burnett, “Non-HDL-cholesterol and apolipoprotein B
compared with LDL-cholesterol in atherosclerotic cardiovascular disease risk assessment,” Pathology,
vol. 51, no. 2, pp. 148-154, 2019.
[4] S. Zabeen, M. R. Rahman, T. G. Mustafa, N. H. Eusufzai, and S. Shermin, “Non-HDL Cholesterol and
Type 2 Diabetes Mellitus,” Anwer Khan Modern Medical College Journal, vol. 3, no. 2, pp. 15-18,
2012.
[5] Y. Cui, R. S. Blumenthal, and J. A. Flaws, “Non-high-density lipoprotein cholesterol level as a
predictor of cardiovascular disease mortality,” Archives of Internal Medicine, vol. 161, pp. 1413-1419,
2001.
[6] Li et al, “Serum Non-high-density lipoprotein cholesterol concentration and risk of death from
cardiovascular diseases among U.S. adults with diagnosed diabetes: the Third National Health and
Nutrition Examination Survey linked mortality study,” Cardiovascular Diabetology, vol. 10, pp. 46-
51, 2011.
[7] T. T. H. Vu, T. H. Ha, and T. H. Khuc, “Study of Non-HDL-Cholesterol in Elderly Type 2 Diabetic
Patients with Cardiovascular Risk Factors,” Journal of Military Pharmaco -medicine, vol. 4, pp. 89-
94, 2015.
[8] Agarwal et al, “Association between glycemic control and serum lipid profile in known diabetic
patients of civil hospital, Ahmedabad,” International Journal of Medical Science and Public Health,
vol. 5, no. 2, pp. 356-360, 2016.
[9] N. Ram, B. Ahmed, and F. Hashmi, “Importance of measuring Non-HDL cholesterol in type 2 diabetes
patients,” Journal Of Pakistan Medical Association, vol. 64, no. 2, pp. 124-128, 2014.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
some_factors_related_to_plasma_non_hdl_c_in_patients_with_di.pdf