Sự khác biệt về kiến thức, thái độ, hành vi của bệnh nhân trước và sau khi tham gia chương trình phòng ngừa lây truyền hiv/aids từ mẹ sang con tại bệnh viện Hùng Vương

Có 3 người đã biết nhiễm HIV nhưng không chịu uống ARV sớm mà chờ đến lúc chuyển dạ mới uống. Lý do là họ muốn dấu chồng. Những đối tượng này sau khi vào chương trình, được tư vấn và vận động tích cực thì họ mới báo cho chồng biết và vận động chồng làm xét nghiệm. Chỉ khi làm xét nghiệm lúc chuyển dạ cho biết họ nhiễm HIV thì họ mới bộc lộ tình trạng nhiễm bệnh của mình cho CB y tế biết. Chính sự dấu diếm này đã làm tăng số trường hợp nhiễm mới trong báo cáo thống kê. Như vậy, sự hiểu biết nhiều vẫn chưa hẳn giúp người ta sửa đổi hành vi cho đúng. Tất cả những người được phỏng vấn đều biểu lộ thái độ lạc quan và đánh giá chương trình đã đem lại niềm tin và sự hiểu biết thấu đáo về căn bệnh của họ nên họ không cảm thấy chán đời, họ tin rằng họ có thể sống lâu nếu họ biết tổ chức cuộc sống lành mạnh. Họ đã phát biểu “ .Chương trình PLTMC đã rất có ích và rất tốt vì vậy, tôi tuân thủ uống thuốc đầy đủ theo những hướng dẫn của các cô phụ trách chương trình ” Đây là thành công lớn của chương trình PLTMC tại Tp Hồ chí Minh

pdf8 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 534 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự khác biệt về kiến thức, thái độ, hành vi của bệnh nhân trước và sau khi tham gia chương trình phòng ngừa lây truyền hiv/aids từ mẹ sang con tại bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 354 SỰ KHÁC BIỆT VỀ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI CỦA BỆNH NHÂN TRƯỚC VÀ SAU KHI THAM GIA CHƯƠNG TRÌNH PHÒNG NGỪA LÂY TRUYỀN HIV/AIDS TỪ MẸ SANG CON TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG Vũ Thị Nhung*, Lê Thị Lan Phương* TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tác động của chương trình PLTMC đến kiến thức, thái độ, hành vi của thai phụ nhiễm HIV đến sanh tại BVHV dựa trên sự khác biệt về kiến thức, thái độ, hành vi của bệnh nhân trước và sau khi tham gia chương trình PLTMC tại bệnh viện Hùng Vương Phương pháp tiến hành: Nghiên cứu dọc tiền cứu tất cả các đối tượng đủ tiêu chuẩn được đưa vào chương trình phòng lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con đến sanh tại Bệnh viện Hùng Vương . Thời gian nghiên cứu từ 1/9/2010 đến 30/11/2011 . Kết quả: Trong thời gian 8,5 tháng đã thực nhận vào nghiên cứu được 200 trường hợp sản phụ có HIV (+) đến sanh tại Bệnh viện Hùng Vương. Sau 6 tháng mất dấu 11 trường hợp. Kết quả ghi nhận như sau: tỷ lệ đối tượng nghiên cứu sau khi tham gia chương trình phòng ngừa lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con tại bệnh viện Hùng Vương được đánh giá là có sự thay đổi về kiến thức và hành vi tốt là 85,7% (KTC 95%: 0,74-0,86).. Xếp loại khá là 2,6% , trung bình là 1,1%. Đánh giá kém có 10,6% (KTC 95%: 0,06 – 0,15) là những người có hiểu biết nhưng không thực hành theo sự hiểu biết. Kết luận: chương trình PLTMC đã đem lại sự chuyển biến tốt về kiến thức và hành vi của bệnh nhân, giúp họ tự tin và sống lạc quan, giúp họ gắn bó với chương trình tốt hơn , gián tiếp làm giảm sự lây nhiễm căn bệnh thế kỷ này. Từ khóa: Kiến thức- Thái độ- Hành vi của thai phụ nhiễm HIV ABSTRACT DIFFERENCES IN KNOWLEDGE, ATTITUDE, AND PRACTICE OF PATIENTS BEFORE AND AFTER PARTICIPATING IN THE PMTCT PROGRAM IN HUNG VUONG HOSPITAL (2010 – 2011) Vu Thi Nhung*, Le Thi Lan Phuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 354 - 360 Objective: Evaluating the effectiveness of PLTMC Program based on the differences in knowledge, attitude and practice of patients before and after participating the PMTCT program in Hung Vuong Hospital Methodology: Longitudinal prospective study. All HIV-affected pregnant women who met the inclusion criteria and came to Hung Vuong Hospital were recruited to the PMTCT program. The study was conducted from 1/9/2010 to 30/11/2011. Results: During 8.5 months, 200 patients who gave birth at Hung Vương Hospital were recruited. After 6 months, there were 11 missing cases. The rate of patients having good changes in knowledge and practice was at 85.7% (CI 95%: 0.74-0.86); rather good result at 2.6%; average at 1.1%. Those rated as poor at 10.6% (CI 95%: 0.06 – 0.15) are those patients who had good knowledge but did not respond in accordance with their knowledge. * Bệnh viện Hùng Vương. Tác giả liên lạc: PGS. TS Vũ Thị Nhung ĐT:0903383005 Email: bsvtnhung@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 355 Conclusion: The PMTCT program has brought about good changes in knowledge and practice among HIV positive patients. It helped them gain self-confidence and live optimistically. It could help the patients have good contact with the program, hence indirectly reducing HIV transmission rates. Key words: Knowledge- attitude- practice of HIV positive pregnant women. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ những tháng đầu tiên của những năm 80 thế kỷ XX lúc mà thế giới bị xáo động bởi căn bệnh mang tên “Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải” hay còn gọi là AIDS cho đến nay đã hơn 30 năm, sự hiểu biết về HIV/AIDS đã có rất nhiều thay đổi . Mặc dù chưa có thuốc chữa khỏi bệnh nhưng nhờ sự hiệu quả của thuốc ARV, tỷ lệ tử vong giảm ở những nơi cung cấp thuốc đầy đủ trong khi tình trạng lây bệnh vẫn tiếp tục. Do đó, số người sống với AIDS ngày càng tăng (3)... Tỷ lệ tử vong do AIDS giảm hơn 50% cũng như tình trạng trẻ mồ côi giảm vì cha mẹ chúng không chết vì AIDS. Số trường hợp nhiễm mới ở Cận Saharan (Phi Châu) giảm gần 15%, ở Đông Á giảm gần 25% , ở Nam và Đông Nam Á giảm gần 10% (2008) (2). Chính vì vậy, nếu lúc trước khi người phụ nữ mang thai biết mình bị nhiễm HIV thì họ thường yêu cầu được phá thai và họ không muốn có thai, nhưng hiện nay đã có những cặp vợ chồng nhiễm HIV đến cơ sở y tế xin được điều trị hiếm muộn. Người bệnh đã có vẻ lạc quan hơn, suy nghĩ tích cực hơn, nhất là thuốc ARV đã giúp ngăn sự lây truyền HIV từ mẹ sang con một cách đáng kể. Đã có nhiều nghiên cứu về kiến thức, thái độ, hành vi về HIV/AIDS của các đối tượng như nghiện ma túy, mại dâm, phụ nữ mang thai được thực hiện nhưng chưa có nhiều nghiên cứu về sự thay đổi kiến thức, thái độ, hành vi về HIV/AIDS của những đối tượng này sau khi họ đã được tiếp cận với các chương trình giáo dục truyền thông . Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tác động của chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con (PLTMC) đến kiến thức, thái độ, hành vi của thai phụ nhiễm HIV đến sanh tại BVHV dựa trên sự thay đổi về kiến thức, thái độ, hành vi của bệnh nhân trước và sau khi tham gia chương trình PLTMC tại bệnh viện Hùng Vương. PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu dọc tiền cứu . Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) Những sản phụ có HIV (+) đồng ý sanh con tại BV Hùng Vương và chấp nhận tham gia vào chương trình PLTMC, có được điều trị dự phòng cho mẹ hay không , con được uống thuốc dự phòng. Tiêu chuẩn loại trừ Những người không có đủ 3 test HIV (+) theo qui định Những trường hợp HIV (+) phá thai, thai chết lưu, thai chết sau sanh. Mẹ ở giai đoạn AIDS nặng tiên lượng xấu. Thời gian nghiên cứu Từ 01/09/2010 đến 30/11/2011 Cỡ mẫu Tất cả các đối tượng đủ tiêu chuẩn được đưa vào chương trình phòng lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con đến sanh tại Bệnh viện Hùng Vương từ 1/9/2010 đến 15/5/2011. Ước lượng khoảng 200 thai phụ. Phỏng vấn sâu 6 tháng sau sanh, chọn 20 bệnh nhân (10% mẫu nghiên cứu) để phỏng vấn sâu bằng cách chọn trong danh sách 200 bệnh nhân bắt đầu từ người số 1 và cách khoảng 9 người chọn người thứ 10. Nếu người được chọn không đến thì lấy người số kế tiếp. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 356 Phương pháp tiến hành Chọn bệnh theo tiêu chuẩn qui định với số lượng theo phương pháp tuần tự kế tiếp cho đến khi đủ số mẫu cần thiết cho nghiên cứu. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 357 Sơ đồ 1: Đồng ý tham gia chương trình PLTMC Trả lời Pretest Chuyển dạ sanh Nhập viện muộn XN HIV (+) Uống ARV vào tuần 28 hoặc ARV điều trị nếu TCD4 ≤ 250/mm3 Không kịp uống ARV Dưỡng thai Thai nhỏ ≤ 20 tuần Thai lớn > 20 tuần Không đồng ý tham gia chương trình PLTMC Xin phá thai Thai phụ HIV (+) từ nơi khác chuyển đến Tham vấn cho thai phụ đi khám thai hay nhập viện chờ sanh làm XN tầm soát HIV Đồng ý xét nghiệm Không đồng ý xét nghiệm 3Test (+) Khám thai theo phác đồ của BV Test (-) Mẹ và con uống thuốc ARV Trả lời Pretest trước khi xuất viện ĐTNC đến BV muộn Phỏng vấn sâu 20 người Đồng ý tham gia chương trình PLTMC ĐTNC đi khám thai Đưa con đi BV NĐ làm PCR sau 1 tháng Trả lời post test sau 6 tháng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 358 Đánh giá sự khác biệt về kiến thức, thái độ, hành vi dựa vào kết quả trả lời đúng sai của cùng một câu hỏi trong 2 lần trả lời (pretest và posttest) của ĐTNC. Đánh giá mức độ thay đổi về kiến thức và hành vi (sau 6 tháng) dựa vào sự trả lời 13 câu hỏi. Mỗi câu đúng được tính 1 điểm – Nếu không biết hay không thực hiện thì cho 0 điểm. Các trường hợp phỏng vấn sâu được ghi âm và giải băng sau Qui trình nghiên cứu được thực hiện theo sơ đồ 1. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Có 200 thai phụ nhiễm HIV đến sanh tại Bệnh viện Hùng Vương đã được nhận vào nghiên cứu nhưng sau khi sanh 6 tháng, số người còn liên lạc được và trả lời bảng phỏng vấn posttest chỉ còn 189 người. Kết quả ghi nhận như sau: Đánh giá sự hiểu biết về HIV trước và sau khi tham gia chương trình PLTMC Bảng 1: Đánh giá sự hiểu biết về HIV trước và sau khi ĐTNC tham gia chương trình PLTMC NỘI DUNG Trước Sau Đúng Sai Đúng Sai Hiểu biết về mẹ uống ARV để PLTMC 159 (84,1%) 30 (15,9%) 189 0 Hiểu biết về con uống ARV để PLTMC 176 (93,1%) 13 (6,9%) 189 0 Hiểu biết về cho con bú sữa thay thế để PLTMC 160 (84,7%) 29 (15,3%) 189 0 Hiểu biết về dùng BCS để phòng lây truyền qua QHTD 114 (60,3%) 75 (39,7%) 179 (94,7%) 10 (5,3%) Hiều biết về dùng BCS để ngừa thai sau sanh 150 (79,4%) 39 (20,6%) 166 (87,8%) 23 (12,2%) Hiểu biết về các đường lây truyền HIV 155 (78,7%) 42 (21,3%) 189 0 Hiểu biết về chương trình PLTMC 148 (78,3%) 41 (21,7%) 189 0 Có 41,5% ĐTNC được chuyển từ nơi khác đến sanh tại BV Hùng Vương, số trường hợp này đã được tham vấn trước tại cơ sở nên sự hiểu biết về những vấn đề có liên quan đến HIV của họ hầu hết là chính xác. Tuy nhiên, sau khi đã tham gia chương trình PLTMC thì kết quả đánh giá về kiến thức và hành vi không có sự khác biệt giữa các nhóm bệnh nhân biết bị nhiễm trước khi có thai lần này, trong khi mang thai và khi chuyển dạ mới biết (P = 0,455) [Bảng 4]. Lúc ban đầu có 21,7% ĐTNC không biết gì về chương trình PLTMC nhưng sau đó, 100% đã hiểu rõ về chương trình này. Tất cả ĐTNC được hỏi ý kiến về chương trình PLTMC đều nhận thấy chương trình đã giúp ích cho bệnh nhân nhiễm HIV rất nhiều trong đó có một tác động quan trọng như phát biểu sau đây: “chương trình giúp tôi hiểu rõ về căn bệnh này nên tôi tự tin hơn, sống vui vẻ hơn ” Có 20 trường hợp được phỏng vấn sâu sau sanh 6 tháng. Trong đó có 19 trường hợp PCR của con âm tính và 1 trường hợp PCR của con dương tính. Hầu hết các bà mẹ nhiễm HIV hiện nay cũng đã lạc quan rất nhiều về căn bệnh của mình. Họ cho biết: “ trước đây không hiểu rõ về HIV thì rất sợ vì nghe những thông tin là bệnh sẽ chết và không có thuốc chữa, tuy nhiên tôi có lên mạng đọc và xem TV , báo chí cũng đã có những thông tin khác hơn, nếu sống lành mạnh lạc quan và uống thuốc thì sẽ kéo dài cuộc sống nên tôi không còn buồn nữa và yên tâm sống lạc quan..” . Ngay bà mẹ có con dương tính tuy rất buồn về sự bất hạnh này nhưng không bi quan vì hiện nay cả hai vợ chồng đang điều trị ARV ở địa phương, vẫn làm việc bình thường, tuân thủ theo sự hướng dẫn của chương trình và một điều an ủi lớn đối với họ là được sự chia xẻ giúp đỡ của người thân trong gia đình “vợ chồng tôi cố gắng giữ gìn sức khỏe, sống vui vẻ để lo cho con, rất may là được ông bà cùng ở chung nhà thương yêu, lo cho cháu”. Đây cũng là một sự thay đổi lớn về mặt nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng đối với căn bệnh thế kỷ này. Khi không còn sự kỵ thị thì chuyển biến của HIV có thể sẽ đổi khác. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 359 Những kiến thức về vấn đề cho mẹ và con uống ARV để dự phònglây truyền mẹ con (LTMC) và không cho con bú mẹ thì trước khi tham gia chương trình có trên 84% biết đúng về các vấn đề này nhưng sau khi đã tham gia chương trình thì 100% đã biết đúng. Riêng có một vấn đề về dùng BCS để phòng lây truyền qua quan hệ tình dục ( QHTD) thì lúc đầu có hơn 60% trả lời đúng, sau khi tham gia chương trình thì tỷ lệ biết đúng tăng 94,7% và 5,3% còn hiểu sai, thậm chí còn 1 trường hợp trả lời là để phòng lây truyền họ không quan hệ tình dục nữa ! Một thành công của giáo dục truyền thông cho bệnh nhân là sau khi tham gia chương trình 100% đã biết rõ về các đường lây truyền HIV so với trước đó có 21,3% không biết rõ về vấn đề này [Bảng 1]. Theo một nghiên cứu về khảo sát kiến thức , thái độ, hành vi về HIV/AIDS và dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con của PNMT và phụ nữ tuổi sinh đẻ tại Tp Hồ Chí Minh năm 2009 của Trương Trọng Hoàng và cs cũng cho thấy tỷ lệ biết các biện pháp phòng ngừa trước và sau can thiệp truyền thông khá cao (93% trước can thiệp và 97% sau can thiệp)(4). Đánh giá thái độ, hành vi liên quan đến HIV trước và sau khi ĐTNC tham gia chương trình PLTMC Có sự khác biệt giữa thái độ và hành vi của ĐTNC trước và sau khi tham gia chương trình.PLTMC. Chẳng hạn như vấn đề báo tin cho chồng biết mình nhiễm HIV thì có 6 trường hợp (3,2%) không đồng ý báo tin nhưng trên thực tế thì có 7 trường hợp (3,7%) cương quyết dấu và không vận động chồng làm xét nghiệm HIV, nguyên nhân là vì họ sợ bị chồng bỏ mà họ thì không thể tự lực về kinh tế, đặc biệt trong 7 người này có 1 đối tượng thuộc nhóm đồng đẳng. Người này có hiểu biết rất tốt, tham vấn cho người khác thì tốt nhưng không làm theo sự hiểu biết của mình. Tương tự như vậy đối với vấn đề bà mẹ đưa con đến BV Nhi Đồng làm xét nghiệm PCR sau sanh 1 tháng thì 100% bà mẹ đồng ý nhưng cuối cùng vẫn có 1 người cương quyết không chịu cho con làm xét nghiệm. Nghiên cứu của Jacqueline Rose Chinkonde thực hiện từ 1/7 đến 31/12/2005 ở Lilongwe (Malawi) (1) phỏng vấn sâu 28 bà mẹ nhiễm HIV trong đó 50% là nhóm có tái khám và 50% không tái khám sau 6 tháng , nhóm này được vãng gia để phỏng vấn. Những người không tái khám đều có lý do là sợ lộ tình trạng nhiễm HIV của họ, sợ chồng ruồng bỏ.( điều này cũng tương tự như tình trạng của sản phụ dấu chồng trong nghiên cứu này) và có trường hợp người chồng không cho vợ đến tham gia chương trình vì họ không tin kết quả của bệnh viện . Trước khi tham gia chương trình, có 62 trường hợp (32,8%) không đồng ý dùng bao cao su (BCS) để phòng lây truyền khi QHTD nhưng sau khi tham gia chương trình thì chỉ còn 12 trường hợp (6,4%) không đồng ý và thực tế có 13 trường hợp (6,9%) không dùng BCS khi QHTD. Trong các trường hợp này đa số các ông chồng không chịu dùng BCS vì họ nghĩ rằng họ đã nhiễm HIV rồi nên không cần phòng bệnh nữa mà người vợ không thể cãi lại như trong ý kiến người vợ sau đây: “ chồng em không chịu dùng bao vì anh ấy bảo cả hai vợ chồng đều đã mắc bệnh nên không cần phải dùng BCS, em không biết phải làm gì để chồng em đổi ý” Điều này cũng tương tự như nghiên cứu của Jacqueline Rose Chinkonde (1) . Nghiên cứu này cho thấy một thái độ và hành vi của người vợ và người chồng ở Malawi đối với việc dùng bao cao su khác hẳn. Người chồng cho rằng đã nhiễm bệnh rồi thì trước sau gì cũng chết. Vì thế không cần ngừa nữa. Còn vợ ngại không dám cãi lời chồng vì sợ mất hạnh phúc gia đình, một phần là trong xã hội của các nước Phi Châu, sự bình đẳng giới không được tôn trọng. Bảng 2: Đánh giá thái độ liên quan đến HIV trước và sau khi ĐTNC tham gia chương trình PLTMC Trước Sau NỘI DUNG Có Không Có Không Đồng ý báo tin mình bị nhiễm HIV 113 (59,8%) 76 (40,2%) 183 (96,8%) 6 (3,2%) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 360 Trước Sau NỘI DUNG Có Không Có Không Đồng ý được cấp thẻ 188 (99,5%) 1 (0,5%) 188 (99,5%) 1 (0,5%) Đồng ý tuân thủ theo qui định của chương trình 186 (98,4%) 3 (1,6%) 186 (98,4%) 3 (1,6%) Mẹ đồng ý đưa con đến BV NĐ sau sanh để xét nghiệm 189 0 189 0 Đồng ý cho con đi chủng ngừa 189 0 189 0 Đồng ý vận động chồng làm XN HIV 113 (59,8%) 76 (40,2%) 177 (93,6%) 12 (6,4%) Đồng ý cho con bú sữa thay thế 189 0 189 0 Đồng ý dùng BCS để ngừa phòng lây truyền qua QHTD 127 (67,2%) 62 (32,8%) 177 (93,6%) 12 (6,4%) Chỉ có 35% ĐTNC tái khám theo đúng hẹn. Trong khi đó 65% cần được nhắc nhở mới đưa con đi làm xét nghiệm PCR . Ngoại trừ 4 trường hợp mất dấu từ khi ra viện sau sanh và 1 trường hợp cương quyết không cho con làm xét nghiệm, tất cả các trường hợp còn lại đều đưa con đi làm xét nghiệm [Bảng 3]. Tuy nhiên, đến thời điểm 6 tháng sau thì có 7 trường hợp không còn liên lạc được, nâng số mất dấu lên 5,5%. Có thể là vì sau thời điểm này bệnh viện Hùng Vương không còn mối ràng buộc nào với họ nữa. Còn hơn 95% ĐTNC vẫn quan hệ hợp tác với Bệnh viện trong điều kiện không còn những hỗ trợ tài chánh hay vật chất là một thành công lớn của chương trình nếu so với tỷ lệ mất dấu trước đây khoảng 30% (5). Bảng 3: Đánh giá Thực hành liên quan đến HIV sau khi ĐTNC tham gia chương trình PLTMC Nội Dung Có Không Báo tin mình bị nhiễm HIV 182 (96,3%) 7 (3,7%) Nhận thẻ 188 (99,5%) 1 (0,5%) Tái khám đúng hẹn 66 (35%) 123 (65%) Mẹ đưa con đến BV NĐ sau sanh để xét nghiệm 188 (99,5%) 1 (0,5%) Cho con đi chủng ngừa 189 0 Chồng làm XN HIV 171 (90,5%) 18 (9,5%) Cho con bú sữa thay thế 189 0 Mẹ Có uống ARV 181 (95,8%) 8 (4,2%) Dùng BCS để phòng lây truyền qua QHTD 176 (93,1%) 13 (6,9%) Đánh giá chung sự thay đổi về kiến thức và hành vi của ĐTNC Bảng 4: Đánh giá sự thay đổi về kiến thức và hành vi của đối tượng nghiên cứu Kết quả đánh giá Thời điểm XN HIV (+) Tốt Khá TBình Kém Mất dấu Tổng cộng Trước khi có thai (Nhóm 1) 80 (80,8%) 3 (3%) 1 (1%) 12 12,1% ) 3 (3%) 99 Khi khám thai (Nhóm 2) 59 (82%) 1 (1,4%) 1 (1,4%) 7 (1,4%) 4 (5,6%) 72 Khi chuyển dạ (Nhóm 3) 23 (79,3%) 1 (3,4%) 0 1 (3,4%) 4 (13,8%) 29 Tổng cộng 162/189 (85,7%) 5/189 (2,6%) 2/189 (1,1%) 20/189 (10,6%) 11 (5,5%) 200 (Fisher hiệu chỉnh ) P = 0,455 (Tỷ lệ % tính theo hang) Đa số ĐTNC (85,7%) được đánh giá là có sự thay đổi về kiến thức và hành vi tốt. Đánh giá có sự chuyển biến khá là 2,6%, trung bình là 1,1% và có 10,6% xếp loại kém là những đối tượng không thông báo tình trạng bị nhiễm HIV cho chồng biết , không cho con làm xét nghiệm PCR , không dùng BCS khi QHTD dù điểm đạt không phải là kém. Đặc biệt là 76 ĐTNC (38%) làm tốt việc vận động chồng làm xét nghiệm HIV, qua đó phát hiện được 41/76 (55,2%) dương tính và 34/76 (44,8%) âm tính . Trong số được đánh giá là chuyển biến tốt thì nhóm biết nhiễm HIV khi có thai có chuyển biến tốt nhiều nhất (82%), kế tiếp là nhóm biết nhiễm trước khi thai (80,8%) và cuối cùng là nhóm chỉ mới biết nhiễm HIV khi chuyển dạ (79,3%). Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P=0,455). Điều này có thể là do nhóm thứ 3 ít có thời gian để được tham vấn kỹ so với 2 nhóm 1 và 2 cũng như số mất dấu nhiều nhất thuộc nhóm 3 (13,8%) so với 2 nhóm kia (3% và 5,6%). Có một điểm đáng lưu ý là số ĐTNC biết nhiễm trước khi có thai được đánh giá kém chiếm tỷ lệ rất cao (12,1%). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 361 Có 3 người đã biết nhiễm HIV nhưng không chịu uống ARV sớm mà chờ đến lúc chuyển dạ mới uống. Lý do là họ muốn dấu chồng. Những đối tượng này sau khi vào chương trình, được tư vấn và vận động tích cực thì họ mới báo cho chồng biết và vận động chồng làm xét nghiệm. Chỉ khi làm xét nghiệm lúc chuyển dạ cho biết họ nhiễm HIV thì họ mới bộc lộ tình trạng nhiễm bệnh của mình cho CB y tế biết. Chính sự dấu diếm này đã làm tăng số trường hợp nhiễm mới trong báo cáo thống kê. Như vậy, sự hiểu biết nhiều vẫn chưa hẳn giúp người ta sửa đổi hành vi cho đúng. Tất cả những người được phỏng vấn đều biểu lộ thái độ lạc quan và đánh giá chương trình đã đem lại niềm tin và sự hiểu biết thấu đáo về căn bệnh của họ nên họ không cảm thấy chán đời, họ tin rằng họ có thể sống lâu nếu họ biết tổ chức cuộc sống lành mạnh. Họ đã phát biểu “.Chương trình PLTMC đã rất có ích và rất tốt vì vậy, tôi tuân thủ uống thuốc đầy đủ theo những hướng dẫn của các cô phụ trách chương trình” Đây là thành công lớn của chương trình PLTMC tại Tp Hồ chí Minh. KẾT LUẬN Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu sau khi tham gia chương trình phòng ngừa lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con tại bệnh viện Hùng Vương được đánh giá là có sự thay đổi về kiến thức và hành vi tốt là 85,7% (KTC 95%: 0,74-0,86). Xếp loại khá là 2,6%, trung bình là 1,1%. Đánh giá kém có 10,6% (KTC 95%: 0,06 – 0,15) là những người có hiểu biết nhưng không thực hành theo sự hiểu biết. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chinkonde JR, Sundby J, Martinson F (2009) “The prevention of mother-to-child HIV transmission programme in Lilongwe.Malawi: Why do so many women drop out” Reproductive Health Matters 2009; 17(33): 143- 151. 2. Joint United Nations Programme on HIV/AIDS ( 2009) AIDS epidemic update. 3. Palella FJ, Delaney KM, Moorman AC, Loveless MO, Fuhrer J, Satten GA, Aschman DJ and Holmberg SD (1998). "Declining morbidity and mortality among patients with advanced human immunodeficiency virus infection". N. Engl. J. Med. 338 (13): 853–860. 4. Trương Trọng Hoàng, Lê thị Kim Phượng. Phạm thị Hải Ly, Nguyễn thị Kim Chi, Lê Trường Giang (2010) “Khảo sát kiến thức , thái độ, hành vi về HIV/AIDS và dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con của PNMT và phụ nữ tuổi sinh đẻ tại Tp Hồ Chí Minh năm 2009” Các công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010, Y học thực hành số 742+743 Tháng 12/2010 Tr 231-234 5. Vũ Thị Nhung (2010). “Đánh giá tình hình phụ nữ mang thai nhiễm HIV tại Bệnh viện Hùng Vương 2005-2008” Các công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010, Y học thực hành số 742+743 Tháng 12/2010 Tr 377- 380.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsu_khac_biet_ve_kien_thuc_thai_do_hanh_vi_cua_benh_nhan_truo.pdf
Tài liệu liên quan