Sự phân bố kiểu gen của human papilloma virus (HPV) ở bệnh nhân ung thư amiđan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh

Mối liên hệ giữa nhóm tuổi và nhiễm HPV Tuổi trung bình của đối tượng trong lô nghiên cứu là 56,22 tuổi, đa số tập trung ở nhóm tuổi 50-59 (chiếm 35%), tỷ lệ tính chung cho nhóm tuổi từ 40-69 là 77%. Nhóm tuổi 80-89 chiếm tỷ lệ thấp nhất (3%) (Bảng 1). Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào dưới 30 tuổi. Do sự phân bố bệnh nhân không đồng đều giữa các nhóm tuổi trong lô nghiên cứu, chúng tôi phải phân tích riêng trong từng nhóm tuổi để có thể đưa ra những kết luận chính xác. Trong 39 trường hợp ung thư amiđan có kết quả HPV(+) (Bảng 4), nhóm tuổi 30-39 có tỷ lệ nhiễm HPV cao nhất (85,71%), tiếp theo là nhóm tuổi 50-59 và 40-49 (42,86% và 38,10%). Nhóm tuổi 70-79 có tỷ lệ nhiễm HPV thấp nhất (23,08%). Điều đáng chú ý là tỷ lệ ung thư amiđan với HPV(-) lại phân bố theo nhóm tuổi với chiều ngược lại. Nhóm tuổi 70-79 chiếm tỷ lệ cao nhất (76,92%) và thấp nhất ở nhóm tuổi 30-39 (14,29%). Kết quả trên khá phù hợp với nghiên cứu của Nasman A và cộng sự(14). Các tác giả trên đã nhận thấy ung thư amiđan với kết quả HPV(+) thường xuất hiện ở những bệnh nhân trẻ tuổi hơn so với những bệnh nhân ung thư amiđan với HPV (-). Nghiên cứu của chúng tôi còn một số hạn chế nhất định. Chúng tôi chỉ sử dụng PCR để phát hiện sự hiện diện DNA HPV và Reverse Dot Blot để định genotype của nhửng mẫu có HPV(+). Chính vì thế, chúng tôi không thể xác định được sự hoạt động sinh học của chúng trong tế bào chủ. Trong khi đó Syrjanen cho thấy hai protein E6 và E7 của HPV 16 được dịch mã chủ động trong hầu hết các mẫu bệnh phẩm carcinôm amiđan được phân tích(27).

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 29 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự phân bố kiểu gen của human papilloma virus (HPV) ở bệnh nhân ung thư amiđan tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 22 SỰ PHÂN BỐ KIỂU GEN CỦA HUMAN PAPILLOMA VIRUS (HPV) Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ AMIĐAN TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU TP. HCM Cao Minh Nga*,****, Nguyễn Hoàng Tuấn**, Huỳnh Chí Long***, Trần Thiện Toàn****, Dương T. Thanh Hương**** TÓM TẮT Mở đầu: Trong những năm gần đây, tần suất ung thư vùng đầu-cổ nhìn chung giảm. Tuy nhiên, tỷ lệ một số ung thư vùng khẩu hầu lại tăng, đặc biệt là ung thư amiđan. Trong các ung thư ngoài đường sinh dục, ung thư amiđan là loại ung thư có liên hệ mật thiết nhất với nhiễm Human papilloma virus (HPV). Ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào về HPV trong ung thư amiđan. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm HPV, sự phân bố genotype của HPV trên bệnh nhân ung thư amiđan và tìm hiểu mối liên quan của nhiễm HPV với tuổi và giới của bệnh nhân. Phương pháp: Hồi cứu, mô tả cắt ngang. 100 mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân ung thư amiđan được thu thập từ 01/01/2011 đến 31/12/2011 tại Bệnh viện Ung bướu TP. HCM. Phát hiện và định genotype HPV bằng kỹ thuật PCR, Reverse Dot Blot. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV trong nhóm đối tượng nghiên cứu là 39%, trong đó tỷ lệ nhiễm đơn type là 94,87%, đồng nhiễm chiếm 5,13% (2/39). Tất cả đều thuộc nhóm HPV nguy cơ cao. HPV 16 chiếm tỷ lệ cao nhất (80,48%), kế đến là HPV 18 (4,88%). Tất cả các type còn lại đều chiếm tỉ lệ dưới 2,5%. Ở những bệnh nhân nữ, tỷ lệ nhiễm HPV cao hơn ở bệnh nhân nam (56,52% so với 33,77%). Kết luận: Sự hiện diện của các type HPV trong ung thư amiđan khá phổ biến, trong đó HPV 16 chiếm ưu thế. Từ khóa: virút Human papilloma, HPV, nhiễm HPV, ung thư amiđan, HPV 16. ABSTRACT DISTRIBUTION OF HUMAN PAPILLOMAVIRUS GENOTYPE IN PATIENTS WITH TONSILLAR CANCER AT HO CHI MINH CITY ONCOLOGY HOSPITAL Cao Minh Nga, Nguyen Hoang Tuan, Huynh Chi Long, Tran Thien Toan, Duong T. Thanh Huong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 – 2013: 22 - 28 Background: In recent years, the overall incidence of head and neck cancers has fallen while the rates of oropharyngeal cancer especially of the tonsil have increased. Of the non-genital cancers, tonsillar cancer has the strongest association with Human papillomavirus (HPV). There hasn’t been any research about the association between HPV infection and tonsil cancer in Vietnam. Objectives: The research aimed to investigate the HPV prevalence, the genotype distribution of HPV in patients with tonsil cancer and correlation between the HPV infection and age as well as gender. Methods: Retrospective, descriptive and cross-sectional method. 100 histological samples were collected at Ho Chi Minh City Oncology Hospital from January 1st 2011 to December 31st. HPV detection and genotyping * Bộ môn Vi sinh – Khoa Y – Đại học Y Dược TP. HCM ** Lớp Y2008B – Khoa Y – Đại học Y Dược TP. HCM *** Khoa Xạ 3 – Bệnh viện Ung bướu TP. HCM **** Khoa Xét nghiệm – BV Đại học Y Dược TP. HCM Tác giả liên hệ: PGS. TS. Cao Minh Nga ĐT: 0908361512 Email: pgscaominhnga@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 23 were performed by PCR and Reverse Dot Blot hybridisation. Results: Overall HPV prevalence was 39%. About 94.87% of tonsil cases were infected by a single HPV type and only 5.13% (2/39) samples were coinfected. All identified were high risk types. HPV 16 was the most common genotype found in our study, accounting for 80.48% of HPV- positive cases. All other types had prevalence below 2.5%. HPV prevalence was higher in female than in male cases (56.52% versus 33.77%). Conclutions: Our study indicates that HPV is strongly associated with tonsil cancer and HPV 16 is the most frequently identified HPV genotype. Keywords: Human papillomavirus, HPV, HPV infection, tonsil cancer, HPV 16. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư vùng đầu-cổ là nhóm ung thư đứng thứ năm trên Thế giới so với các nhóm ung thư khác với hơn 600000 ca mới mỗi năm(12,15). Trong đó carcinôm amiđan là loại ung thư thường gặp trong các carcinôm vùng đầu cổ, chiếm 13%-15% và khoảng 0,5%-1,5% trong tổng số các loại ung thư tính chung(19,30). Tại Việt Nam, các ung thư vùng hốc miệng và khẩu hầu cũng chiếm tỷ lệ cao. Trong khoảng 15 năm (1956-1970) tại khoa Ung thư, Bệnh viện Bình Dân TP. HCM, có 1737 ca ung thư hốc miệng và khẩu hầu chiếm 16,7% trong tổng số 10515 ca. Ung thư amiđan là ung thư thường gặp nhất của vùng khẩu hầu(16). Tần suất chung của ung thư vùng đầu-cổ trong những năm gần đây có giảm. Dường như có sự tương hợp với việc giảm tiêu thụ rượu và thuốc lá. Tuy nhiên, lại có sự gia tăng tần suất ung thư tại một số vị trí giải phẫu đặc biệt của vùng này(12). Tương tự, trong dân số Mỹ từ 1973 đến 1995, tỷ lệ ung thư Amiđan tăng từ 2% - 3% mỗi năm trong khi tỷ lệ các ung thư khác trong khoang miệng vẫn không thay đổi(5). Tại Stockholm, Thụy Điển, tần suất carcinôm tế bào vảy Amiđan tăng đáng kể, từ 0,74/100000 người- năm trong khoảng 10 năm (1970-1979) tăng lên 1,65/100000 người-năm trong 7 năm (2000- 2006)(14). Đồng thời cũng ghi nhận được suất độ theo tuổi của ung thư amiđan tăng gấp 3,5 lần ở nữ và gấp 2,6 lần ở nam trong khoảng thời gian từ 1970 đến 2002 tính chung cho cả Thụy Điển(7). Tại Việt Nam, theo báo cáo của Nguyễn Thị Huỳnh Lan khảo sát từ 1993-1998, tỷ lệ carcinôm amiđan là 0,77% trong tổng số các loại ung thư. Suất độ theo tuổi của carcinôm amiđan ở nam là 1,7/100.000 dân và nữ là 0,3/100000 dân(18). Những yếu tố nguy cơ chính được biết rõ có liên quan đến sự gia tăng ung thư vùng hốc miệng và khẩu hầu là việc kết hợp hay riên lẽ giữa hút thuốc lá và uống rượu; vệ sinh răng miệng kém; người mang răng giả(16,17) cũng như sự thiếu thốn về điều kiện kinh tế- xã hội(22). Mặt khác, đã ghi nhận được có sự gia tăng tỷ lệ mắc ung thư tế bào vảy vùng khẩu hầu - đặc biệt hạnh nhân lưỡi và amiđan - ở nam giới da trắng dưới 50 tuổi không có tiền sử uống rượu hoặc sử dụng thuốc lá trong thập kỷ qua. Bên cạnh đó, tác giả còn báo cáo về sự hiện diện của virút gây u nhú ở người (HPV) trong các khối u vùng khẩu hầu và cho rằng bệnh ác tính này có liên quan đến HPV(12). Kể từ những năm 1990, HPV đã được đề nghị như một yếu tố gây nguy cơ cho loại bệnh này(18). Qua nhiều nghiên cứu, một số yếu tố mới làm tăng nguy cơ ung thư amiđan đã được quan sát và chứng minh như hành vi tình dục, ung thư đường sinh dục kết hợp với sự hiện diện của HPV, phụ nữ trên 50 tuổi có tiền sử ung thư cổ tử cung tại chỗ hay chồng của những phụ nữ đã từng bị ung thư cổ tử cung. Những hành vi tình dục được đề cập đến là có nhiều đối tác tình dục (≥ 26), quan hệ tình dục bằng đường miệng với nhiều đối tác (≥ 6), hoặc có tiền sử quan hệ bằng đường miệng - hậu môn(1,4,5,6,10,23,24). Tần suất ung thư amiđan liên quan đến HPV gia tăng là một trong những vấn đề sức khỏe cộng đồng mới, gây chú ý cho nhiều nhà khoa học và những người hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe mặc dù chúng ta đã có những hiểu biết khá chi tiết về HPV và cơ chế Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 24 sinh bệnh của nó. HPV là một trong hai loại virút được xác định rõ là nguyên nhân sinh u ở người. HPV là những virút nhỏ, không có màng bọc ngoài, DNA sợi đôi dạng vòng và nucleocapsid đối xứng xoắn ốc, viron có đường kính 50-55nm, capsid gồm 72 tiểu đơn vị capsomer. Dựa vào sự khác biệt của các đoạn DNA, có thể phân loại được hơn 100 type của HPV. Các type này được được chia thành 2 nhóm dựa vào khả năng gây bệnh: Nhóm nguy cơ thấp: chỉ gây mụn cóc và những khối u lành tính do bộ gen của chúng tồn tại độc lập với gen của tế bào ký chủ. Nhóm nguy cơ cao: bao gồm những type có khả năng gắn xen DNA của chúng vào bộ gen người, làm rối loạn sự phân chia tế bào dẫn đến hình thành các khối u ác tính. Tính sinh u của HPV do 2 protein được mã hóa bởi 2 gen E6 và E7, chúng can thiệp vào hoạt tính của protein p53 và pRb do 2 gen ức chế u mã hóa(2,32). Ở Việt Nam, những nghiên cứu về HPV chủ yếu tập trung vào lĩnh vực phụ khoa(3,11,21,24,28,31). Có một số nghiên cứu về mối liên quan giữa các type HPV với các loại ung thư khác(20,28) nhưng chưa có nghiên cứu nào về HPV trong ung thư amiđan. Chúng tôi tiến hành đề tài “Sự phân bố kiểu gen của HPV ở bệnh nhân ung thư amiđan tại BV. Ung bướu TP. HCM” nhằm mục đích: Xác định tỷ lệ nhiễm HPV trên bệnh nhân ung thư amiđan. Khảo sát sự phân bố genotype của HPV bằng kỹ thuật Reverse Dot Blot. Tìm hiểu mối liên quan giữa tình trạng nhiễm HPV với tuổi và giới của bệnh nhân. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Mô tả hồi cứu - thiết kế cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu Là những týp HPV được phân lập và xác địng genotype từ những mẫu mô đúc paraffin bướu amiđan của các bệnh nhân ung thư amiđan được chẩn đoán và làm giải phẫu bệnh tại Khoa GPB, BV Ung bướu TP. Hồ Chí Minh từ 01/01/2011 đến 31/12/2011. Tiêu chuẩn chọn mẫu Những mẫu mô đúc paraffin bướu amiđan của các bệnh nhân khám trong thời gian và địa điểm nêu trên với chẩn đoán ung thư amiđan nguyên phát chưa điều trị đặc hiệu. Giải phẫu bệnh là carcinôm tế bào gai hay carcinôm không biệt hóa. Tiêu chuẩn loại trừ Đã xạ trị vùng đầu cổ trước đó, ung thư di căn hay lan từ nơi khác tới amiđan, mẫu mô đúc paraffin không đủ mô bướu để phân tích sinh học phân tử. Cỡ mẫu Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lưu hành HPV cao ở những bệnh nhân ung thư amiđan, từ 45% đến 75%(12,15,26,32). Cỡ mẫu tối thiểu được tính theo công thức: Z: trị số phân phối chuẩn. P: tỷ lệ nhiễm HPV trên bệnh nhân ung thư amiđan. D: độ chính xác của mẫu (sai số 10%). α: sai lầm độ 1 (0,05). Nếu P = 75% thì N = 72,3, nếu P = 45% thì N = 95,07. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện kỹ thuật xác định genotype HPV tại Phòng Sinh học phân tử - Khoa Xét nghiệm Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, gồm các bước sau: - Xử lý bệnh phẩm: loại bỏ paraffin từ mẫu bệnh phẩm đã được xử lý thường quy tại Khoa Giải phẫu bệnh BV. Ung bướu TP. Hồ Chí Minh. - Định tính HPV bằng phương pháp PCR: Trong phương pháp PCR, một cặp mồi (primer) được thiết kế trong vùng gene L1 của bộ gene HPV nhằm nhân bản một trình tự DNA có kích thước 181 cặp base (trình tự mục tiêu). Sau đó sản Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 25 phẩm PCR sẽ được phát hiện bằng điện di trên gel agarose. - Định type HPV bằng phương pháp lai phân tử (Reverse Dot Blot): DNA từ mẫu được xác định là dương tính với HPV sẽ được tái nhân bản bằng phương pháp PCR với các cặp mồi được gắn biotin ở đầu 5’, sản phẩm PCR đánh dấu sẽ được lai phân tử với các mẫu dò đặc hiệu cho các type HPV đã được cố định sẵn trên màng lai nylon. Tín hiệu dương tính được phát hiện thông qua phản ứng tạo màu. Có thể phát hiện được 15 genotype của HPV bao gồm: 4 type nguy cơ thấp (type 6,11, 42, 71) và 11 type nguy cơ cao (type 16, 18, 33, 39, 45, 51, 52, 53, 58, 66, 68). Ghi nhận số liệu vào bảng thu thập số liệu. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 17.0 và vẽ biểu đồ bằng Exel 2007. KẾT QUẢ Trong 2 năm (2010 - 2011) chúng tôi ghi nhận được 103 bệnh nhân thực hiện giải phẫu bệnh và thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. Tuy nhiên có 3 mẫu bệnh phẩm không đủ số lượng mô để thực hiện các xét nghiệm sinh học phân tử nên bị loại. 100 mẫu nghiên cứu được định tính bằng phương pháp PCR và xác định genotype bằng kỹ thuật Reverse Dot Blot. Chúng tôi thu được các kết quả sau: Đặc tính của mẫu nghiên cứu: Bảng 1: Phân bố nhóm nghiên cứu theo nhóm tuổi Nhóm tuổi Số lượng Tỷ lệ % 30-39 7 7% 40-49 21 21% 50-59 35 35% 60-69 21 21% 70-79 13 13% 80-89 3 3% Tổng cộng 100 100% Tỷ lệ nhiễm HPV Tỷ lệ nhiễm HPV được phát hiện bằng kỹ thuật PCR trong nghiên cứu này là 39% (39/100 trường hợp). Tỷ lệ genotype HPV Đã định danh được 41 genotype HPV trên 39 mẫu dương tính với HPV. Tất cả các type được phát hiện đều thuộc nhóm HPV nguy cơ cao. Tỷ lệ nhiễm các genotype HPV trên một mẫu bệnh phẩm: Bảng 2: Phân bố tỷ lệ nhiễm các genotype HPV trên một mẫu bệnh phẩm Số bệnh nhân HPV (+) Số lượng genotype HPV Tần suất Tỷ lệ % 1 loại 37 94,87% 2 loại 2 5,13% Tỷ lệ nhiễm các genotype HPV Biểu đồ 1: Phân bố tỷ lệ nhiễm các genotype HPV (n= 41) Liên quan giữa giới tính và nhiễm HPV: Bảng 3: Liên quan giữa giới tính và nhiễm HPV HPV(+) HPV(-) Tổng Giới Tần suất % Tần suất % Tần suất % Nam 26 33,77 51 66,23 77 77 Nữ 13 56,52 10 43,48 23 23 Liên quan giữa nhiễm HPV và nhóm tuổi Bảng 4: Liên quan giữa nhóm tuổi và nhiễm HPV HPV(+) HPV(-) Nhóm tuổi Tần suất % Tần suất % Số bệnh nhân 30-39 6 85,71 1 14,29 7 40-49 8 38,10 13 61,90 21 50-59 15 42,86 20 57,14 35 60-69 6 28,57 15 71,43 21 70-79 3 23,08 10 76,92 13 80-89 1 33,33 2 66,67 3 Tổng cộng 39 61 100 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 26 BÀN LUẬN Tỷ lệ nhiễm HPV Trong 100 mẫu bệnh phẩm được làm xét nghiệm, tỷ lệ nhiễm HPV phát hiện bằng kỹ thuật PCR là 39% (39/100 trường hợp) (Biểu đồ 1). Trong đó có 2 mẫu nhiễm cùng lúc 2 type HPV, chiếm tỷ lệ 2%. Tỷ lệ này khá phù hợp so với một số nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới. Nghiên của Mellin và cộng sự đã chỉ ra rằng HPV hiện diện trong 43% (26/60) trường hợp ung thư amiđan và chỉ có duy nhất 2% (1/60) trường hợp bị đồng nhiễm HPV 16 và HPV 33 (từ năm 1984 đến 1996)(13). Trong một nghiên cứu phát hiện HPV bằng kỹ thuật giải trình tự chuỗi DNA thực hiện tại Úc đã cho thấy 46% (31/67) có HPV(+)(9). Trong bài tổng quan của mình viết năm 2003, Syrjanen cho thấy 51% (221/432) mẫu bệnh phẩm có sự hiện diện HPV(27). Một số nghiên cứu khác lại cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV cao hơn nhiều. Như kết quả từ một nghiên cứu đa trung tâm ở Pháp, tỷ lệ dương tính HPV khá cao, 57% (106/185) số ca ung thư Amiđan được khảo sát(8). Một số tác giả khác tiến hành nghiên cứu tại địa hạt Stockholm trong vài thập kỷ qua đã ghi nhận tỷ lệ ung thư amiđan dương tính HPV diễn tiến theo chiều hướng ngày càng tăng đáng kể, 23% (7/30) trong những năm của thập kỷ 70, 29% (12/42) trong thập kỷ 80, 57% (48/84) trong thập kỷ 90, và 68% (32/47) từ năm 2000 đến 2002(7). Sự sai khác này có thể một phần do sự khác biệt về cỡ mẫu, phương pháp và kỹ thuật phân tích DNA của từng nghiên cứu cũng như sự chi phối của các yếu tố nguy cơ khác như rượu, thuốc lá và hành vi tình dục ở mỗi vùng lãnh thổ hay địa phương có thể khác nhau. Genotype HPV *Sự phân bố tỷ lệ đồng nhiễm các genotype HPV trên một mẫu bệnh phẩm Số liệu nghiên cứu (Bảng 2) cho thấy chỉ có 5,13% bệnh nhân đồng nhiễm 2 loại type HPV, trong đó đều là những genotype nguy cơ cao. Kết quả này khá phù hợp với những nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới. Syrjanen nhận thấy trong 221 mẫu bệnh phẩm có sự hiện diện HPV thì chỉ có dưới 5% đồng nhiễm các genotype khác nhau(27), và chỉ có 4% bệnh phẩm trong lô nghiên cứu bị đồng nhiễm theo nghiên cứu đa trung tâm tại Pháp của St Guily(8). *Tỷ lệ nhiễm từng genotype HPV: Theo kết quả có được từ kỹ thuật Reverse Dot Blot (Biểu đồ 2), một mẫu bệnh phẩm có thể bị đơn nhiễm hoặc đồng nhiễm 2 loại type HPV khác nhau. Trong 39 mẫu bệnh phẩm có HPV(+), chúng tôi thu được 41 lượt HPV. Tất cả các type được phát hiện đều thuộc nhóm HPV nguy cơ cao. HPV 16 là genotype chiếm tỷ lệ cao nhất (80,48%), HPV 18 chỉ hiện diện ở 4,88%, các genotype còn lại (33,51, 52, 58, 59, 66) đều dưới 2,5%. Kết quả này phù hợp với số liệu mà một số tác giả đã báo cáo, HPV 16 chiếm 84% trong tổng số 221 mẫu bệnh phẩm có HPV(+) trong nghiên cứu của Syrjanen(27), và 89% trong nghiên cứu của St Guily(8). Mối liên hệ giữa giới tính và nhiễm HPV Trong nghiên cứu của chúng tôi (Bảng 3), tỷ lệ bệnh phẩm có HPV(+) theo giới ở nữ cao hơn nam (56,52% so với 33,77%). Trong khi, tỷ lệ nam mắc ung thư amiđan chiếm đa số (77%). Kết quả tương tự cũng được Mellin H. ghi nhận (65% ca ở nữ so với 35% ca ở nam bị ung thư amiđan) (13). Những kết quả này có thể được lý giải một phần là do sự phân bố các yếu tố nguy cơ khác nhau giữa nam và nữ như uống rượu và hút thuốc lá từ lâu được nhận thấy ở nam giới nhiều hơn nữ giới. Mối liên hệ giữa nhóm tuổi và nhiễm HPV Tuổi trung bình của đối tượng trong lô nghiên cứu là 56,22 tuổi, đa số tập trung ở nhóm tuổi 50-59 (chiếm 35%), tỷ lệ tính chung cho nhóm tuổi từ 40-69 là 77%. Nhóm tuổi 80-89 chiếm tỷ lệ thấp nhất (3%) (Bảng 1). Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào dưới 30 tuổi. Do sự phân bố bệnh nhân không đồng đều giữa các nhóm tuổi trong lô nghiên cứu, chúng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 27 tôi phải phân tích riêng trong từng nhóm tuổi để có thể đưa ra những kết luận chính xác. Trong 39 trường hợp ung thư amiđan có kết quả HPV(+) (Bảng 4), nhóm tuổi 30-39 có tỷ lệ nhiễm HPV cao nhất (85,71%), tiếp theo là nhóm tuổi 50-59 và 40-49 (42,86% và 38,10%). Nhóm tuổi 70-79 có tỷ lệ nhiễm HPV thấp nhất (23,08%). Điều đáng chú ý là tỷ lệ ung thư amiđan với HPV(-) lại phân bố theo nhóm tuổi với chiều ngược lại. Nhóm tuổi 70-79 chiếm tỷ lệ cao nhất (76,92%) và thấp nhất ở nhóm tuổi 30-39 (14,29%). Kết quả trên khá phù hợp với nghiên cứu của Nasman A và cộng sự(14). Các tác giả trên đã nhận thấy ung thư amiđan với kết quả HPV(+) thường xuất hiện ở những bệnh nhân trẻ tuổi hơn so với những bệnh nhân ung thư amiđan với HPV (-). Nghiên cứu của chúng tôi còn một số hạn chế nhất định. Chúng tôi chỉ sử dụng PCR để phát hiện sự hiện diện DNA HPV và Reverse Dot Blot để định genotype của nhửng mẫu có HPV(+). Chính vì thế, chúng tôi không thể xác định được sự hoạt động sinh học của chúng trong tế bào chủ. Trong khi đó Syrjanen cho thấy hai protein E6 và E7 của HPV 16 được dịch mã chủ động trong hầu hết các mẫu bệnh phẩm carcinôm amiđan được phân tích(27). KẾT LUẬN Nghiên cứu trên 100 bệnh nhân ung thư amiđan nguyên phát trong độ tuổi từ 32-83 được làm xét nghiệm phát hiện nhiễm HPV và định genotype HPV, kết quả được ghi nhận như sau: Tỷ lệ nhiễm HPV phát hiện bằng kỹ thuật PCR là 39%. Tỷ lệ nhiễm một type HPV là 94,87%, đồng nhiễm hai type HPV là 5,13%. Có tất cả 8 type HPV được phát hiện và đều thuộc nhóm HPV nguy cơ cao. Genotype HPV 16 có tỷ lệ phân bố cao nhất (80,48%), kế đến là HPV 18 (4,88%). Các type còn lại đều có tỷ lệ thấp hơn 2,5%. Tỷ lệ bệnh nhân ung thư amiđan có HPV (+) theo giới ở nữ cao hơn nam (56,52% so với 33,77%). Nhóm tuổi 30-39 có tỷ lệ nhiễm HPV cao nhất (85,71%), tiếp theo là nhóm tuổi 50-59 và 40- 49 (42,86% và 38,10%). Nhóm tuổi 70-79 có tỷ lệ nhiễm HPV thấp nhất (23,08%). Khuynh hướng ngược lại ở nhóm bệnh nhân ung thư amiđan có HPV (-) cũng được ghi nhận. Không ghi nhận trường hợp ung thư amiđan nào dưới 30 tuổi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bagnardi V., et al. (2001). A meta-analysis of alcohol drinking and cancer risk. Br J Cancer. 85(11): p. 1700-5. 2. Cao Minh Nga (2008). HPV (Human papilloma virus). Vi rút học. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Khoa Y, Bộ môn Vi sinh. NXB Y học. Tr. 216-219. 3. Cao Minh Nga, Dương T. Thanh Hương, Lục T. Vân Bích, Hồ Lê Ân, Huỳnh Ngọc Phương Thảo, Hồ T. Thanh Thủy (2011). Sự phân bố các genotype HPV (Human papillomavirus) ở phụ nữ và các yếu tố liên quan. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh. Hội nghị khoa học kỹ thuật Đại học Y Dược TP. HCM lần thứ 28 – 14/01/2011. Chuyên đề Nội khoa. Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011. Tr.: 203-209. 4. Decker J., and Goldstein JC (1982). Risk factors in head and neck cancer. N Engl J Med, 306(19): p. 1151-5. 5. Frisch M., Hjalgrim H., Jaeger AB., and Biggar RJ. (2000). Changing patterns of tonsillar squamous cell carcinoma in the United States. Cancer Causes and Control, 11(6): 489–95. 6. Gillison ML. and. Shah KV (2001). Human papillomavirus associated head and neck squamous cell carcinoma: mounting evidence for an etiologic role for human papillomavirus in a subset of head and neck cancers. Curr Opin Oncol. 13(3): p. 183-8. 7. Hammarstedt L, Lindquist D, Dahlstrand H, et al. (2006). Human papillomavirus as a risk factor for the increase in incidence of tonsillar cancer. Int J Cancer, 119(11):2620-3. 8. Jean Lacau St Guily, et al. (2011). Human papillomavirus genotype distribution in toncil cancers. Head & Neck Oncology, 3:6. 9. Li W, Thompson CH, O'Brien CJ, et al. (2003). Human papillomavirus positivity predicts favourable outcome for squamous carcinoma of the tonsil. Int J Cancer, 106(4):553-8. 10. Licitra L., et al. (2002). Cancer of the oropharynx. Crit Rev Oncol Hematol,41(1): p. 107-22. 11. Lê Thị Kiều Dung (2004). Mối liên quan giữa nhiễm các loại HPV với tân sinh trong biểu mô cổ tử cung. Luận văn Thạc sĩ Y học. Đại học Y Dược TP. HCM. 12. Marur S, D'Souza G, Westra WH, Forastiere AA (2010). HPV- associated head and neck cancer: a virus-related cancer epidemic. Lancet Oncol, 11(8):781-9. 13. Mellin H, Friesland S, Lewensohn R, Dalianis T, Munck- Wikland E (2000). Human papillomavirus (HPV) DNA in tonsillar cancer: clinical correlates, risk of relapse, and survival. Int J Cancer, 89(3):300-4. 14. Nasman A, Attner P, Hammarstedt L, et al. (2009). Incidence of human papillomavirus (HPV) positive tonsillar carcinoma Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Tai Mũi Họng – Mắt 28 in Stockholm, Sweden: an epidemic of viral-induced carcinoma? Int J Cancer, 125(2):362-6. 15. Neufcoeur PE, Arafa M, Delvenne P, Saussez S (2009). Involvement of human papillomavirus in upper aero- digestive tracts cancers.Bull Cancer, 96(10):941-50. 16. Nguyễn Chấn Hùng (1986). Ung thư hốc miệng và khẩu hầu. Ung thư học lâm sàng, xuất bản lần thứ 2, ĐH Y Dược TP. HCM, tập 2, tr89-108. 17. Nguyễn Quang Quyền (1995). Hầu. Bài giảng Giải phẫu học, NXB Y học, xuất bản lần thứ 5, TP. Hồ Chí Minh, Tập 1, tr. 361-372. 18. Nguyễn Sào Trung (1998). Bệnh mũi, xoang cạnh mũi và đường hô hấp trên. Bệnh học các tạng và hệ thống, xuất bản lần thứ 2, Đại học Y Dược TP. HCM, tr. 1-17. 19. Nguyễn Thị Huỳnh Lan, Nguyễn Thị Bích Thủy (2002). Đặc điểm lâm sàng và giải phẫu bệnh 78 trường hợp ung thư amiđan gặp tại TP. HCM từ 1993-1998. Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh. Đại Học Y Dược TP. HCM, tập 6. Số đặc biệt. Chuyên đề Ung bướu học. Phụ bản số 4. tr.: 99-103. 20. Nguyễn Thị Ngọc Dung (2005). Nghiên cứu vai trò của Human papillomavirus và điều trị nội soi cắt khúc trong bệnh u nhú thanh quản trẻ em. Luận án Tiến sĩ Y học. Đại học Y Dược TP. HCM. 21. Nguyễn Thị Tuyết Vân, Nguyễn Hoàng Quân, Cao Minh Nga (2010). Nhiễm các type Human Papillomavirus ở phụ nữ tuổi sinh đẻ. Y HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. Hội nghị khoa học kỹ thuật Đại học Y Dược TP. HCM lần thứ 27 – 15/01/2010. Chuyên đề Nội khoa. Phụ bản của tập 14 * Số 1*2010. Tr.: 503 – 507. 22. O'Hanlon S, Forster DP, Lowry RJ (1997). Oral cancer in the North-East of England: incidence, mortality trends and the link with material deprivation. Community Dent Oral Epidemiol, 25(5):371-6. 23. Parkin DM, Whelan SL, Ferlay J., Teppo L., Thomas D., Thomas DM. (2002). Cancer Incidence in Five Continents. IARC Scientific Publication. Vol VIII. 24. Phạm Việt Thanh (2010). Nghiên cứu tỉ lệ nhiễm Human papillomavirus ở phụ nữ có phết tế bào cổ tử cung bất thường và các yếu tố liên quan. Luận án Tiến sĩ Y học. Đại học Y Dược TP. HCM. 25. Rosenquist, K., et al. (2005). Oral status, oral infections and some lifestyle factors as risk factors for oral and oropharyngeal squamous cell carcinoma. A population-based case-control study in southern Sweden. Acta Otolaryngol. 125(12): p. 1327- 36. 26. Smith, E.M., et al. (2004). Age, sexual behavior and human papillomavirus infection in oral cavity and oropharyngeal cancers. Int J Cancer,. 108(5): p. 766-72. 27. Syrjanen S (2004). HPV infections and tonsillar carcinoma. J Clin Pathol, 57(5):449-5. 28. Trần Thị Kim Cúc (2012). Virút bướu nhú người (HPV) – Gen và protein p53 trong ung thư niêm mạc miệng. Luận án Tiến sĩ Y học. Đại học Y Dược TP. HCM. 29. Trần Thị Lợi và cs (2010). Tỷ lệ nhiễm Human Papillomavirus và các yếu tố liên quan của phụ nữ từ 18 đến 69 tuổi tại TP. Hồ Chí Minh. Y HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. Tập 14, số 1, tr.: 311 – 320. 30. Võ Kim Điền (1999). Ung thư amiđan: dịch tễ học, chẩn đoán, giải phẫu bệnh và điều trị. Luận văn Thạc sĩ Y học. Đại học Y Dược TP. HCM. 31. Vũ Thị Nhung (2006). Khảo sát tình hình nhiễm các type HPV (Human Papillomavirus) ở phụ nữ TP. Hồ Chí Minh bằng kỹ thuật sinh học phân tử. Báo cáo nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học thuộc Sở Khoa học - Công nghệ TP. HCM. 32. Zur Hausen H. (1999). Viruses in human cancers. Eur J Cancer. 35(8): p. 1174-81.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsu_phan_bo_kieu_gen_cua_human_papilloma_virus_hpv_o_benh_nha.pdf
Tài liệu liên quan