Về khu công nghiệp, năm 2001, Đăk
Lắk (cũ) bắt đầu thành lập Khu công
nghiệp Tâm Thắng ở huyện Cư Jut, diện
tích hơn 180 ha, nhưng năm 2004, sau
khi chia tách, Khu công nghiệp này được
bàn giao cho tỉnh Đắk Nông quản lý. Từ
năm 2004, Đắk Lắk (mới) đã quy hoạch
và bố trí quỹ đất, với tổng diện tích hơn
1.349 ha (trong đó, khu công nghiệp 657
ha, cụm công nghiệp 692 ha) và đưa vào
hoạt động nhiều khu, cụm công nghiệp
trên địa bàn, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, xúc tiến đầu tư. Tổng mức đầu tư
cho các khu, cụm công nghiệp từ nhiều
nguồn vốn là 2.141,799 tỷ đồng, trong
đó, vốn ngân sách 937,214 tỷ đồng, còn
lại huy động từ doanh nghiệp và các
nguồn vốn hợp pháp khác. Các khu, cụm
công nghiệp đã từng bước hình thành và
đi vào hoạt động đã làm tăng đáng kể giá
trị sản xuất công nghiệp trong GRDP của
địa phương.
Với cụm công nghiệp, theo quy hoạch
đến năm 2020, Đăk Lắk có 15 vị trí xây
dựng. Hiện có 14 cụm đã được phê duyệt
quy hoạch chi tiết xây dựng thuộc địa bàn
các huyện, thị xã, thành phố với tổng diện
tích quy hoạch là 692,25 ha, trong đó diện
tích đất công nghiệp 475,937ha chiếm
68,75% tổng số diện tích quy hoạch.
Hiện tại Đăk Lắk đã có 8 cụm công
nghiệp đi vào hoạt động, như Tân An 1,
Tân An 2 thành phố Buôn Ma Thuột; Ea
Ral huyện Ea H’leo; Ea Đar huyện Ea
Kar; Krông Búk 1 huyện Krông Búk; với
tổng diện tích 235,25 ha, tỷ lệ lấp đầy
đạt 76%, tổng số vốn đăng ký đầu tư trên
4.330 tỷ đồng (xem bảng).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 339 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự phát triển công nghiệp và các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắc Lắk, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
61Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
1. Cơ sở phát triển công nghiệp và
khu công nghiệp tỉnh Đắk Lắk
Tây Nguyên là một trong 3 tiểu vùng
của miền Trung, cùng với Bắc Trung Bộ
và Duyên hải Nam Trung Bộ hợp thành
miền Trung của Việt Nam. Đắk Lắk nằm
ở trung tâm vùng Tây Nguyên, trong tọa
độ địa lý 107o28’57”Đ-108o59’37”Đ và
12o9’45”B-13o25’06”B; bắc giáp Gia Lai,
nam giáp Lâm Đồng và Đắk Nông, đông
giáp hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, tây
giáp Vương quốc Campuchia, với đường
biên giới dài 193 km. Ngày 26/11/2003,
tỉnh Đắk Lắk (cũ) tách thành hai tỉnh Đắk
Lắk (mới) và Đắk Nông. Thông tin trong
bài viết nói về Đăk Lăk mới.
Diện tích tự nhiên của Đắk Lắk là
13.125,37 km2, chiếm 24% tổng diện
tích tự nhiên của toàn vùng Tây Nguyên
(54.641,069 km2).
Cảnh quan tự nhiên của Đắk Lắk
thuộc loại hình cao nguyên, có độ cao
trung bình 400 - 800m so với mực nước
biển. Đỉnh núi cao nhất ở đây là Chư
Yang Sin, 2.442m. Hệ thống sông suối
trên địa bàn tỉnh khá phong phú, phân bố
tương đối đồng đều. Đầu nguồn của hệ
thống sông Sêrêpôk và một phần sông Ba
chảy trên địa phận của tỉnh. Tuy nhiên,
do địa hình dốc, nên khả năng trữ nước
kém, những khe suối nhỏ hầu như không
có nước trong mùa khô. Trên địa bàn của
SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮC LẮK
Ths.NCS. Hoàng Trọng Hùng
Tóm tắt: Đắk Lắk là một trong số 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và 5 tỉnh của vùng Tây Nguyên (gồm Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai,
Kon Tum và Lâm Đồng). Trên cơ sở tài nguyên tự nhiên về rừng, khoáng sản và các
sản phẩm nông, công nghiệp độc đáo, cũng như tiềm năng con người và văn hóa địa
phương như trên, Đắk Lắk chủ trương khắc phục nền kinh tế thuần nông, đề ra những
giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp, thành lập các khu, cụm công nghiệp,
coi đây là một yêu cầu khách quan để phát triển toàn diện kinh tế - xã hội của tỉnh
trong giai đoạn mới.
Từ khóa: cụm công nghiệp, phát triển, chủ trương.
Abstract: Đắc Lắc is one of 63 provincial administrative units under the Central
governance and one of the five provinces in the Central Highlands (Đắc Lắc, Đắc
Nông, Gia Lai, Kon Tum and Lâm Đồng). On the basis of such natural resources as
forests, mineral resources, the unique industrial and agricultural products as well as
human potential and culture in the above- mentioned localities, Đắc Lắc advocates
overcoming the purely agricultural economy, proposes the solutions to the enhancement
of industrial development, establishes industrial zones and clusters, which is viewed
as the objective requirement to develop all-round economy and society of the province
in the new period.
Keywords: industrial clusters, develop, undertakings
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
62Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
tỉnh hiện còn khá nhiều hồ tự nhiên và hồ
nhân tạo, như các hồ Lăk, Ea Kao, Ea Sô,
Buôn Triết, Nhìn chung, cũng như các
tỉnh thuộc Tây Nguyên, Đắk Lắk không
giáp biển và khá gần xích đạo, nên có
nhiều nắng và thường bị hạn hán.
Đắk Lắk có diện tích rừng và trữ
lượng thảo mộc lớn nhất nước, với nhiều
chủng loại gỗ quý hiếm, nhiều loại cây
đặc sản vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá
trị khoa học, phân bố trong điều kiện
thuận lợi, nên tái sinh rừng có mật độ khá
lớn. Khoáng sản với trữ lượng khác nhau,
trong đó một số loại khoáng sản đã được
xác định là sét cao lanh, sét gạch ngói.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có nhiều
loại khoáng sản khác, như vàng, phốt pho,
than bùn, đá quý, phân bố ở nhiều nơi
trong tỉnh, tuy trữ lượng không cao.
Dân số Đắk Lắk 1.869.322 người
(2019), mật độ dân cư hơn 142 người/
km2. Cộng đồng dân cư trong tỉnh gồm
47 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm
khoảng 68%; các dân tộc thiểu số khoảng
32% dân số toàn tỉnh. Êđê, M’nông, J’rai
là các dân tộc bản địa chính gốc, Còn các
dân tộc khác, như Kinh, Thái, Tày, Nùng,
Mường, Dao, Mông, di cư đến, nhiều
nhất là trong 30 năm gần nay. Phần lớn
các tộc người còn giữ lại di sản văn hoá
riêng, tạo thành một mảng màu đặc sắc
trong toàn bộ đời sống văn hoá cao nguyên
Việt Nam. Tuy các tộc người không cư trú
thành những vùng riêng, song các dòng
họ thường sống tập trung tại những địa
bàn nhất định.
Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính
trực thuộc, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và
13 huyện. Thành phố Buôn Ma Thuột là
tỉnh lỵ của Đắk Lắk, cách Hà Nội 1.410
km và cách TP. Hồ Chí Minh 350 km.
Nền kinh tế của Đắk Lắk chủ yếu là
sản xuất nông nghiệp, cây cà phê là nguồn
thu nhập chính của tỉnh, với diện tích
182.343 ha và sản lượng thu hoạch hàng
năm đạt trên 400.000 tấn, chiếm 40%
sản lượng của cả nước, đồng thời có sản
phẩm cà phê xuất khẩu lớn nhất cả nước.
Tỉnh cũng là nơi trồng bông, cacao, cao
su, hạt điều lớn của Việt Nam, cùng các
loại cây ăn trái khác, như bơ, sầu riêng,
chôm chôm, xoài,...
Theo báo cáo của Tỉnh ủy, UBND
tỉnh, năm 2018, Đắk Lắk đạt 17/18 chỉ
tiêu kinh tế - xã hội theo kế hoạch đề ra (1
chỉ tiêu không đạt là tỷ lệ che phủ rừng).
Tổng sản phẩm xã hội ước đạt 51.496
tỷ đồng; tăng trưởng kinh tế đạt 7,82%.
Huy động vốn toàn xã hội đạt 27.726 tỷ
đồng. Thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn đạt 5.500 tỷ đồng, tăng 6,3% so với
năm 2017. Thu nhập bình quân đầu người
đạt 41,1 triệu đồng/năm. Trong năm, tỉnh
thu hút được 60 dự án, với tổng vốn đầu
tư đăng ký 9.300 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế
của ba khu vực nông nghiệp, công nghiệp
và dịch vụ tính theo giá hiện hành năm
2018 là 39,92%, 15,7% và 42,42%.
2. Chủ trương phát triển công nghiệp
và các khu công nghiệp
Ngày 28/2/2019, Ủy ban Nhân dân
tỉnh Đăk Lắk đã ra Quyết định số 321/
QĐ-UBND ban hành “Chương trình Hành
động thực hiện Nghị quyết số 69/2018/
QH14 ngày 8/11/2018 của Quốc hội,
Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2019
của Chính phủ, Nghị quyết số 10/NQ-
TU ngày 29/11/2018 của Tỉnh ủy và các
Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân về
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán
ngân sách nhà nước năm 2019”. Chương
trình nhấn mạnh: “Chú trọng phát triển
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công
nghiệp chế biến nông lâm sản, dệt may,
chế biến gỗ, v.v, gắn với liên kết chuỗi giá
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
63Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
trị, theo chiều sâu; tăng mạnh năng suất
nội bộ ngành, tăng hàm lượng công nghệ
và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm;
đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phát triển
thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh xúc tiến
thương mại thị trường nội địa, tạo điều
kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, hợp
tác xã, tổ hợp tác tiếp cận một số chương
trình hỗ trợ, xây dựng và quảng bá thương
hiệu, xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm đáp
ứng được nhu cầu, cung ứng tại các siêu
thị” và “Quy hoạch ngành xây dựng hệ
thống đô thị; xây dựng vùng; phân bố hệ
thống dân cư; khu xử lý chất thải,,.. ngành
Công thương (khu, cụm công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao và phát triển
hệ thống khu kinh tế; phát triển mạng lưới
cấp điện; phát triển kết cấu hạ tầng trung
tâm thương mại, hội chợ, triển lãm, cảng
cạn, siêu thị, chợ, logistics, v.v)”.
2.1. Tình hình phát triển công nghiệp
của Đăk Lắk
Sự hình thành và phát triển công
nghiệp của tỉnh là một quá trình lịch
sử lâu dài, từ nhỏ lẻ manh mún đến tập
trung hiện đại. Do nhu cầu mở rộng giao
lưu với bên ngoài, người bản địa (Ê đê,
M’nông, J’rai) và một bộ phận người Việt
định cư lập nghiệp lâu đời đã chú ý tới
việc cải tiến sản phẩm cả hình thức cũng
như chất lượng. Những sản phẩm có dáng
dấp công nghiệp ở Đắk Lắk đã được trao
đổi trong và ngoài địa bàn như đồ sắt
(dao, rựa, xà gạc). Các nghề rèn, mộc, dệt
chiếu, dệt vải, khá phổ biến trong các
buôn làng để phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi và sinh hoạt
gia đình.
Thời Pháp chiếm đóng, chính quyền
không có chủ trương phát triển ngành
công nghiệp ở Việt Nam. Tại Đắk Lắk, để
đảm bảo đời sống sinh hoạt và các hoạt
động cai trị, người Pháp chỉ xây dựng vài
ba nhà máy điện, nhà máy nước và một
số xưởng chế biến nông, lâm sản quy mô
nhỏ ở khu đô thị, còn trong các đồn điền
có quy mô tương đối lớn, hầu hết đã có
các xưởng chế biến cà phê, cao su với
công nghệ khá tiên tiến.
Từ sau năm 1954, công nghiệp ở Đắk
Lắk không phát triển gì hơn ngoài các
cơ sở công nghiệp nói trên, ngành công
nghiệp về cơ bản không có gì thay đổi.
Vì vậy, sau khi giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, ngành công nghiệp
của Đắk Lắk cũng chỉ có trạm điện Diezel
ở trung tâm thị xã Buôn Ma Thuột công
suất lắp đặt 1.000 Kw và 02 trạm thủy
điện Dray H’ling 450 Kw và Ea Nao 280
Kw, chủ yếu phục vụ ánh sáng sinh hoạt,
phục vụ sản xuất chưa đáng kể. Ngành
công nghiệp cấp nước chỉ có tại thị xã
Buôn Ma Thuột với công suất 5.000m3/
ngày đêm và một số cơ sở nhà máy chế
biến gỗ, cà phê, nông sản, cơ sở cơ khí
nhỏ hầu hết là của tư nhân.
Sau giải phóng năm 1975, bước vào
xây dựng phát triển kinh tế, ổn định đời
sống nhân dân các dân tộc, ngoài những
chủ trương phát triển kinh tế toàn diện,
Đắk Lắk cũng bắt đầu chú trọng xây dựng
một số cơ sở công nghiệp có quy mô vừa
và nhỏ. Nhiều tổ chức kinh tế tập thể và
tổ hợp tác kinh tế cá thể cùng phát triển
mạnh các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiêu
biểu như Nhà máy cơ khí Thống Nhất
100 tấn/năm, Nhà máy cao su 10/3, Nhà
máy đại tu ô tô 300 xe/năm, Nhà máy dầu
thực vật 1.000 tấn/năm, Nhà máy gỗ lạng
1.000.000 m2/năm. Nhìn chung, trong giai
đoạn 1975-1989, tốc độ tăng trưởng bình
quân của ngành công nghiệp tương đối
cao, trung bình 9-12%/năm. Năm 1988,
toàn tỉnh có 208 cơ sở sản xuất cơ khí,
gồm 18 đơn vị quốc doanh (trung ương,
địa phương), 9 hợp tác xã, 3 tổ hợp tác và
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
64Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
144 hộ cá thể. Trong giai đoạn này, thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng, chuyển
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều thành phần, là một
thách thức lớn đối với các cơ sở công
nghiệp quốc doanh trước đây nhà nước
bao cấp, sản xuất theo mệnh lệnh từ trên
xuống, tiêu thụ sản phẩm theo địa chỉ quy
định, không quan tâm đến hiệu quả kinh
tế, sức cạnh tranh kém. Sự phát triển công
nghiệp Đắk Lắk có chậm lại: tổng sản
lượng công nghiệp năm 1989 chỉ tăng 1%
so với năm 1988, dù vẫn xếp vị trí thứ hai
ở Tây Nguyên.
Trong giai đoạn 1990-1995, công
nghiệp Đắk Lắk có sự tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu ngành tương đối
nhanh: đứng đầu là chế biến lâm sản, tăng
38,2%, tiếp đến là chế biến lương thực,
thực phẩm – 27,9%, vật liệu xây dựng –
11,4%, ngành điện – 8,2% Trong giai
đoạn 1995-2010, tuy không có sản phẩm
công nghiệp mới xuất hiện, nhưng chất
lượng sản phẩm được chú trọng. Các
doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư công
nghệ mới, nên chất lượng sản phẩm,
như cà phê xuất khẩu, gỗ tinh chế,...
được nâng lên rõ rệt. Giá trị các ngành
có chuyển biến đáng kể. Nếu tốc độ tăng
trưởng công nghiệp giai đoạn 1991-2000
bình quân đạt 13,2%/năm, thì riêng từ
năm 1995 đến 2000, đạt 14,4%, trong đó,
chế biến tăng 15,5%, khai thác 11,6%,
công nghiệp phân phối điện nước 7,7%.
Thời kỳ này, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài đã chiếm tỷ trọng khoảng 22,3%
trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành
công nghiệp Đắk Lắk.
Để đẩy mạnh phát triển ngành công
nghiệp, nâng cao giá trị sản phẩm, nhất
là các mặt hàng có nguồn nguyên liệu dồi
dào trên địa bàn, như cà phê, cao su, hồ
tiêu, hạt điều, các loại đậu đỗ, lương thực,
thực phẩm, đồng thời tạo ra sản phẩm
tinh chế có thương hiệu của địa phương,
tỉnh đã chủ trương xây dựng và phát triển
các khu, cụm công nghiệp tập trung.
2.2. Tình hình phát triển các khu
công nghiệp của Đăk Lắk
Theo Nghị định 29/2008/NĐ-CP
ngày 14/3/2008 và Nghị định số 82/2018/
NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ,
thì “Khu công nghiệp là khu vực có ranh
giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng
công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản
xuất công nghiệp”. Khu công nghiệp gồm
nhiều loại hình khác nhau, bao gồm khu
chế xuất, khu công nghiệp hỗ trợ, khu
công nghiệp sinh thái, Theo Quyết định
số 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 của
Thủ tướng Chính phủ, thì “là khu vực tập
trung các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, cơ sở
dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp; có ranh giới địa lý
xác định, không có dân cư sinh sống; được
đầu tư xây dựng chủ yếu nhằm di dời, sắp
xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân, hộ gia
đình ở địa phương vào đầu tư sản xuất,
kinh doanh; do Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương quyết
định thành lập”. Khu công nghiệp và cụm
công nghiệp có nhiều điểm khác nhau về
quy mô diện tích, chức năng, mục đích
hoạt động, phạm vi liên hệ, thẩm quyền
thành lập, quản lý, v.v. Khu công nghiệp
thường là đô thị, còn cụm công nghiệp là
một bộ phận sản xuất nằm trong đô thị.
Gần 20 năm, kể từ năm 2001, khi
chưa tách tỉnh, Đắk Lắk đã quan tâm xây
dựng và phát triển các khu, cụm công
nghiệp. Trong điều kiện địa phương còn
nhiều khó khăn về nguồn vốn, việc ra
đời các khu, cụm công nghiệp trên địa
bàn nhằm mục đích tiếp tục thực hiện
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
65Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7
Khóa VII của Đảng, gắn liền với sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh và công
cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế của
đất nước. Khu, cụm công nghiệp là nơi
được ưu tiên áp dụng các công nghệ tiên
tiến, hiện đại, giải quyết việc làm, đào tạo
nguồn nhân lực, đặc biệt đã thu hút một
lượng lao động có trình độ, tay nghề cao;
cải thiện và tăng thu nhập cho người lao
động; xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng
xã hội, xây dựng đô thị mới; gắn kết với
nông nghiệp, tạo ra những sản phẩm có
chất lượng trên thương trường,
Sự ra đời các khu, cụm công nghiệp
ở Đắk Lắk đã thu hút nhiều nguồn vốn
đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo điều
kiện để thu hút công nghệ tiên tiến, phân
công lao động xã hội, nhất là sự cống
hiến của bộ phận lao động có trình độ và
tay nghề cao ở môi trường thuận lợi, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
tăng trưởng công nghiệp và sự phát triển
bền vững kinh tế - xã hội của Đắk Lắk
trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
Các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
TT Cụm Diện tích Đất Diện tích Doanh nghiệp Vốn đăng ký,
công nghiệp quy hoạch, ha công nghiệp,ha lấp đầy, % đăng ký, cái tỷ VNĐ
1 Tân an 1 45,8 29,9 100 36 451,2
2 Tân an 2 56,3 46,6 100 44 1.320,195
3 Krông Búk 1 69,3 48,1 70,0 12 510,7
4 Ea Ral 33,0 21,0 48,4 16 206,61
5 M’Đrắk 70,1 45,6 62,0 8 301,515
6 Ea Kar 50,1 40,0 72,6 11 260,1
7 Cư Kuin 75,0 63,2 50,8 5 1.205,9
8 Ea Lê 25,1 15,1 70,9 9 115,0
Cộng: 424,64 309,441 bq.: 71,8 141 4.371,22
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả.
Về khu công nghiệp, năm 2001, Đăk
Lắk (cũ) bắt đầu thành lập Khu công
nghiệp Tâm Thắng ở huyện Cư Jut, diện
tích hơn 180 ha, nhưng năm 2004, sau
khi chia tách, Khu công nghiệp này được
bàn giao cho tỉnh Đắk Nông quản lý. Từ
năm 2004, Đắk Lắk (mới) đã quy hoạch
và bố trí quỹ đất, với tổng diện tích hơn
1.349 ha (trong đó, khu công nghiệp 657
ha, cụm công nghiệp 692 ha) và đưa vào
hoạt động nhiều khu, cụm công nghiệp
trên địa bàn, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, xúc tiến đầu tư. Tổng mức đầu tư
cho các khu, cụm công nghiệp từ nhiều
nguồn vốn là 2.141,799 tỷ đồng, trong
đó, vốn ngân sách 937,214 tỷ đồng, còn
lại huy động từ doanh nghiệp và các
nguồn vốn hợp pháp khác. Các khu, cụm
công nghiệp đã từng bước hình thành và
đi vào hoạt động đã làm tăng đáng kể giá
trị sản xuất công nghiệp trong GRDP của
địa phương.
Với cụm công nghiệp, theo quy hoạch
đến năm 2020, Đăk Lắk có 15 vị trí xây
dựng. Hiện có 14 cụm đã được phê duyệt
quy hoạch chi tiết xây dựng thuộc địa bàn
các huyện, thị xã, thành phố với tổng diện
tích quy hoạch là 692,25 ha, trong đó diện
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
66Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
tích đất công nghiệp 475,937ha chiếm
68,75% tổng số diện tích quy hoạch.
Hiện tại Đăk Lắk đã có 8 cụm công
nghiệp đi vào hoạt động, như Tân An 1,
Tân An 2 thành phố Buôn Ma Thuột; Ea
Ral huyện Ea H’leo; Ea Đar huyện Ea
Kar; Krông Búk 1 huyện Krông Búk; với
tổng diện tích 235,25 ha, tỷ lệ lấp đầy
đạt 76%, tổng số vốn đăng ký đầu tư trên
4.330 tỷ đồng (xem bảng).
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ (2008). Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 quy định về khu
công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.
2. Chính phủ (2018). Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 quy định về
quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế.
3. Thủ tướng Chính phủ (2009). Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009
ban hành quy chế quản lý cụm công nghiệp.
4. Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số 286/QĐ-TTg ngày 9/3/2018 Phê
duyệt điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Đăk Lăk
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
5. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đăk Lắk (2019). Quyết định số 321/QĐ-UBND ngày
18/2/2019 ban hành “Chương trình Hành động thực hiện Nghị quyết số 69/2018/
QH14 ngày 8/11/2018 của Quốc hội, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2019 của
Chính phủ, Nghị quyết số 10/NQ-TU ngày 29/11/2018 của Tỉnh ủy và các Nghị quyết
của Hội đồng Nhân dân về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển
kinh tế- xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019”.
Ngày nhận bài: 20/6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_phat_trien_cong_nghiep_va_cac_khu_cong_nghiep_tren_dia_ba.pdf