Trong những năm cuối thế kỷ XX đầu
thế kỷ XXI, một trong những đặc điểm nổi
bật của đời sống pháp lý thế giới là sự phổ
biến chủ đề nhà nước pháp quyền và chủ
nghĩa hợp hiến. Quá trình này bắt đầu ở châu
Âu từ những năm 70 của thế kỷ XX và được
diễn ra gần như khắp thế giới. Ngày nay, nhà
nước pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến trở
thành những xu hướng, giá trị và chuẩn mực
chung của xã hội đương đại - được tạo bởi
ba yếu tố không thể tách rời: tôn trọng, bảo
vệ quyền con người, dân chủ và nhà nước
pháp quyền.
Có thể nói rằng, sự phổ biến của nhà
nước pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến cũng
là sự lên ngôi của mô hình tổ chức quyền lực
nhà nước dựa trên nền tảng dân chủ và tôn
trọng, bảo vệ quyền con người. Sự phổ biến
này chứng tỏ sức hấp dẫn của một mô hình
đã được kiểm nghiệm và trở thành một giá
trị phổ quát được thừa nhận rộng rãi bởi gần
như mọi quốc gia và định chế quốc tế
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 202 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự phổ biến của chủ nghĩa hợp hiến và nhà nước pháp quyền như một chuẩn mực quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Nhà nước pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, tạo thành những cơ chế hạn chế quyền lực nhà nước, nhằm
bảo đảm dân chủ, quyền con người. Từ chỗ chỉ được vận dụng tại một
số quốc gia, ngày nay, hai tư tưởng này được thừa nhận và áp dụng
một cách rộng rãi ở đa số các quốc gia, trong tổ chức và vận hành của
các định chế khu vực và quốc tế như một dạng chuẩn mực của xã hội
đương đại.
SỰ PHỔ BIẾN CỦA CHỦ NGHĨA HỢP HIẾN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
NHƯ MỘT CHUẨN MỰC QUỐC TẾ
Nguyễn Văn Quân*
Abstract:
The rule-of-law and the constitutionalism are closely interlinked,
which forms mechanisms restricting the state power, aims at ensuring
the democracy and the human rights. From its applicability in a few
countries, today these two thoughts are widely accepted and applied
in most of the countries, in the organization and performance of
regional institutions and national ones as a standard formality of the
contemporary society.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: chủ nghĩa hợp hiến; nhà
nước pháp quyền; pháp quyền quốc
tế; chuẩn mực quốc tế
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 20/03/2017
Biên tập: 11/07/2017
Duyệt bài: 18/07/2017
Article Infomation:
Keywords: the constitutionalism;
rule-of-law state; international rule
of law; international standards
Article History:
Received: 20 Mar. 2017
Edited: 11 Jul. 2017
Appproved: 18 Jul. 2017
* TS, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hiểu một cách khái quát nhất, chủ nghĩa hợp hiến (constitutionalism) là “truyền thống pháp lý gắn liền với
ý tưởng, theo đó việc thực hiện quyền lực bị
giới hạn bởi một thỏa ước cơ bản giữa kẻ cai
trị và người bị trị, với sự bảo vệ các quyền
1 Raoul Charles van Caenegen, An Historical Introduction to Western Consti tutional Law, Cambridge, Cambridge
University Press, 1995, p. 80
2 Jean Leclaire, L’avènement du constitutionnalisme en Occident: fondements philosophiques et contingences his-
toriques, R.D.U.S. 41/2011, p. 163.
của những người bị cai trị, xác định rõ nghĩa
vụ và thẩm quyền của kẻ cai trị”1. Sự trỗi
dậy của chủ nghĩa hợp hiến gắn liền với sự
chuyển đổi từ nhà nước độc đoán, tùy tiện
sang nhà nước pháp quyền2 (từ “government
of men” sang “government of laws”): từ chỗ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 15(343) T8/2017
nhà nước với quyền lực mang tính chuyên
quyền, tùy tiện mang bản chất thần thánh
chuyển sang chế độ chính trị được thiết lập
dựa trên một khế ước xã hội - được ghi nhận
trong một văn kiện là Hiến pháp. Nói cách
khác, đó là sự khẳng định của một nhà nước
phục tùng luật pháp. Như vậy, chủ nghĩa hợp
hiến và nhà nước pháp quyền có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau3. Sự phổ biến của chủ
nghĩa hợp hiến vì vậy gắn liền với sự phổ
biến của tư tưởng về nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền thường được
hiểu như một dạng nguyên tắc, chuẩn
mực trong tổ chức quyền lực nhà nước ở
cấp độ quốc gia. Trung tâm của nhà nước
pháp quyền là mối quan hệ giữa nhà nước
và pháp luật: Nhà nước quản lý bằng pháp
luật, phục tùng pháp luật và pháp luật mà
nhà nước phải phục tùng chứa đựng một số
thuộc tính nội tại, vượt lên trên sức mạnh
của chính nhà nước. Nghĩa là, trong nhà
nước pháp quyền, pháp luật có vai trò thống
trị, nhưng nội dung của pháp luật phải được
định hướng theo lẽ phải, sự đúng đắn và lẽ
công bằng. Trong mô hình nhà nước này
“luật pháp không chỉ là công cụ hoạt động
của nhà nước mà còn là phương tiện giới
hạn sức mạnh của chính quyền”4. Quan hệ
giữa pháp luật và chính quyền có đặc trưng
hai chiều, pháp luật cho phép chính quyền
hành động nhưng đồng thời cũng đề ra nghĩa
vụ cho chính quyền đó. Như vậy, nhà nước
pháp quyền buộc chính quyền phải phục
tùng một tổng thể các nguyên tắc tối thượng
và đến từ bên ngoài nó, áp đặt lên nhà nước
3 Xem: Đào Trí Úc, Giáo trình Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2015, tr. 105.
4 Jacques Chevallier, L’Etat de droit, 5e éd. Nxb. Montchrestien, 2010, p. 18.
5 Đào Trí Úc, Vũ Công Giao, Bảo hiến, chủ nghĩa lập hiến và nhà nước pháp quyền, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số
1-2(210-211), 2012, tr. 10-16.
6 Đào Trí Úc, Vũ Công Giao, Tlđd.
7 Claude Lefort, Droits de l’homme et Politique, in Libre n° 7, 1980, Nxb. Payot, p. 25-26.
8 Jacques Chevallier, Tlđd.
9 Claude Lefort, Tlđd.
một cách có tính ràng buộc và cưỡng chế.
Những nguyên tắc này trao cho nhà nước tư
cách để hành động và nó cũng xác định các
phương thức chính quyền có thể sử dụng:
chính quyền không được áp đặt những gì
không được định liệu từ trước.
Nội dung trọng tâm của nhà nước pháp
quyền về cơ bản là ý niệm về sự giới hạn
quyền lực nhà nước, tôn trọng và bảo đảm
quyền con người5. Để chống lại sự tùy tiện
của công quyền, có thể xâm hại quyền tự do
cơ bản của công dân, phải có được sự thượng
tôn Hiến pháp và pháp luật, đặt các thiết chế
quyền lực trong sự ràng buộc của Hiến pháp
và pháp luật, kiểm soát quyền lực, bảo đảm
sự phân quyền, sự độc lập của Tòa án, bảo
đảm tính minh bạch của pháp luật6. Chính sự
đề cao, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật
là cách thức để tạo ra “một sự đối lập với
quyền lực nhà nước bằng pháp luật”7.
Trong các phương diện của giới hạn
quyền lực nhà nước, phải kể đến vấn đề bảo
vệ quyền con người8. Nhà nước pháp quyền
bao hàm quan niệm về mối quan hệ giữa cá
nhân và nhà nước, quan niệm này là nền tảng
của hệ thống pháp luật. Không chỉ sức mạnh
của nhà nước tìm thấy những giới hạn của
nó trong các quyền cơ bản được thừa nhận
của các cá nhân, và tạo ra khả năng “một sự
đối lập với quyền lực nhà nước bằng pháp
luật”9, mà hơn thế, tự thân sức mạnh của nhà
nước có mục đích để bảo đảm các quyền con
người. Có nghĩa là, nhà nước pháp quyền là
thiết chế có mục đích bảo đảm các quyền
tự do của công dân, ngăn ngừa và chống lại
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 15(343) T8/2017
sự lạm dụng quyền lực có thể có từ chính
nhà nước.
Học thuyết nhà nước pháp quyền được
hình thành và phát triển ban đầu tại một số
quốc gia Tây Âu10 (Đức, Pháp, Anh...), sau
đó dần được du nhập, phổ biến ra các quốc
gia, khu vực khác, từng bước được quốc
tế hóa và được thừa nhận như một nguyên
tắc, chuẩn mực điều chỉnh quan hệ giữa các
quốc gia.
1. Sự du nhập, phổ biến nhà nước pháp
quyền trên thế giới
1.1. Ghi nhận nhà nước pháp quyền
trong các Hiến pháp mới
Sự thừa nhận nhà nước pháp quyền
một cách hiển nhiên ở khắp mọi nơi như
một hệ quy chiếu tất yếu đối với các quốc
gia cho thấy rõ rằng, nhà nước pháp quyền
đã trở thành một dạng “giáo lý”. Tuy nhiên,
vấn đề còn lại là xem xét liệu hệ quy chiếu
này có mang tích thực chất hay không. Bởi
vì, ở một số nơi, do thiếu vắng điều kiện
cần thiết cho nhà nước pháp quyền nảy nở
và phát triển, việc tuyên bố thừa nhận nhà
nước pháp quyền chỉ mang tính hình thức,
như một khẩu hiệu chính trị hơn là pháp lý
thực định.
Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ
XX, thuật ngữ “nhà nước pháp quyền"
được sử dụng phổ biến tại châu Âu. Điều 2
Hiến pháp Bồ Đào Nhà năm 1976 quy định:
Cộng hòa Bồ Đào Nha là một nhà nước pháp
quyền dân chủ, được thiết lập dựa trên chủ
10 Về sự hình thành và phát triển của ba học thuyết cơ bản về nhà nước pháp quyền và so sánh, đối chiếu giữa ba học
thuyết này. Xem: Luc Heuschling, Etat de droit: Rechtsstaat: Rule of Law, Nxb. Dalloz-Sirey, 2002.
11 Hiến pháp Bồ Đào Nha 1976.
Xem: truy cập ngày 02/4/2017.
12 Hiến pháp Tây Ban Nha 1978.
Xem: truy cập ngày
02/4/2017.
13 Điều 1 Hiến pháp Liên bang Nga 1993. Nguồn: Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà nội, Tuyển tập Hiến pháp của một số
quốc gia, Nxb. Hồng Đức, H., 2012, tr. 388.
quyền nhân dân, tính đa nguyên về biểu đạt
và tổ chức chính trị, dựa trên tôn trọng các
quyền và tự do cơ bản...11; Khoản 1 Điều 1
Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1978 quy định:
Tây Ban Nha là một nhà nước pháp quyền,
xã hội và dân chủ, chủ trương tự do, công lý,
bình đẳng và đa nguyên chính trị như là các
giá trị tối cao của hệ thống pháp luật12.
Tiếp đó, vào đầu những năm 1990,
Hiến pháp mới của đa số các nước thuộc khối
XHCN cũ và các nước đang phát triển đều
ghi nhận tiêu chuẩn nhà nước pháp quyền và
củng cố chuẩn mực này bằng một hệ thống
các quy định cụ thể. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại
những khoảng cách nhất định giữa các tuyên
bố mang tính chính trị với thực tiễn áp dụng
các chuẩn mực của nhà nước pháp quyền.
Nếu căn cứ vào các văn bản pháp lý
chính thức của các quốc gia này, chúng ta
có thể thấy rõ sự thừa nhận nhà nước pháp
quyền như một tiêu chuẩn trong tổ chức
và vận hành bộ máy nhà nước. Hiến pháp
các nước Đông Âu như Hungary, Bulgary,
Rumani, Cộng hòa Séc, Slovakia, Albania
và các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ quy
định một cách trọng thể nguyên tắc nhà
nước pháp quyền. Ví dụ, Điều 1 Hiến pháp
Liên bang Nga 1993 tuyên bố: “Liên bang
Nga là một nhà nước liên bang, dân chủ và
pháp quyền có hình thức chính thể cộng
hòa”13. Các ghi nhận, tuyên bố tương tự có
thể tìm thấy trong Hiến pháp các quốc gia
khác. Ở đây, nhà nước pháp quyền được thể
hiện dưới hai phương diện nội dung và hình
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 15(343) T8/2017
thức14. Về hình thức, nhà nước pháp quyền
được thể hiện ở trật tự các quy phạm, với
nguyên tắc về tính tối cao của Hiến pháp15.
Về mặt nội dung, nguyên tắc pháp quyền đòi
hỏi luật pháp phải chứa thuộc tính căn bản
nhất là tôn trọng, bảo vệ quyền và tự do của
công dân.
Đối với các nước châu Âu, sự công
nhận chuẩn mực nhà nước pháp quyền còn
thể hiện qua việc tán thành và phê chuẩn các
văn kiện pháp lý về các quyền căn bản do
các định chế của Liên minh châu Âu đề ra.
Sau khi khối các nước XHCN sụp đổi, các
nước Đông Âu mong muốn tìm lại chỗ đứng
của mình trong các quốc gia châu Âu (bằng
cách tham gia Ủy hội châu Âu - Council of
Europe16 hoặc trở thành thành viên của Liên
minh châu Âu), các tiêu chí về nhà nước
pháp quyền, dân chủ và quyền con người
được xem như là một giá trị chung được các
nước châu Âu cùng chia sẻ và cam kết bảo
vệ. Ví dụ: Điều 2 Hiến pháp Ba Lan quy
định: Cộng hòa Ba Lan là một nhà nước dân
14 Về cơ bản, nhà nước pháp quyền gắn liền với các nguyên tắc sau đây : (1) Nguyên tắc phân chia quyền lực; (2) Nguyên
tắc hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến pháp; (3) Nguyên tắc tính thống nhất của hệ thống pháp luật; (4) Nguyên tắc cơ
quan hành pháp và tư pháp phải chấp hành hiến pháp và văn bản lập pháp; (5) Nguyên tắc an toàn pháp luật và bảo vệ
sự tin cậy vào pháp luật; (6) Nguyên tắc tương xứng; (7) Các đảm bảo đối với việc bảo vệ pháp luật; (8) Nguyên tắc
bảo đảm giải quyết tranh chấp bằng con đường tòa án; (9) Nguyên tắc nghĩa vụ giải trình của nhà nước; (10) Nguyên
tắc trách nhiệm nghe ý kiến... Xem:
G. de Q. WALKER,The Rule of Law: Foundation of Constitutional Democracy, Melbourne University Press, 1988.
15 Hiến pháp Liên bang Nga có hiệu lực pháp lý cao nhất, được áp dụng trực tiếp trên toàn thể lãnh thổ Liên bang Nga.
Các đạo luật và những văn bản pháp luật khác được áp dụng ở Liên bang Nga không được mâu thuẫn với Hiến pháp
Liên bang.
16 Ủy hội Châu Âu là tổ chức quốc tế hướng tới hội nhập châu Âu. Ủy hội được thành lập năm 1949 và nhấn mạnh đặc
biệt tới các tiêu chuẩn pháp lý, quyền con người, dân chủ, pháp quyền và hợp tác văn hóa. Ủy hội có 47 thành viên gồm
phần lớn các quốc gia thuộc châu Âu (27 nước thành viên của Liên minh châu Âu và phần lớn các quốc gia ngoài Liên
minh khác như Nga, Ucraina).
17 Xem: Hiến pháp Ba Lan 1997 (bản tiếng Anh): truy cập ngày
04/7/2017.
18 Xem: Hiến pháp Cộng hòa Séc 1992: truy cập ngày 04/7/2017.
19 Điều 18: Cộng hòa Trung Phi là một nhà nước pháp quyền, có chủ quyền, không thể phân chia, thế tục và dân chủ.
20 Lời nói đầu của Hiến pháp Benin: Thông qua bản Hiến pháp này, chúng tôi long trọng tuyên bố quyết tâm thiết lập một
nhà nước pháp quyền, dựa trên chế độ dân chủ đa nguyên. Trong đó, các quyền và tự do cơ bản của con người, phẩm
giá và công lý được bảo đảm, bảo vệ và phát huy như là điều kiện cần thiết cho sự phát triển thực thụ và hài hòa của
mỗi người dân Benin trong phương diện vật chất, văn hóa và tinh thần.
21 Lời nói đầu Hiến pháp Mali: Nhân dân Mali, với truyền thống đấu tranh anh dũng, cam kết trung thành với lý tưởng
của những người đã hy sinh vì bị đàn áp đã ngã xuống một cách vinh quang cho sự ra đời của nhà nước pháp quyền và
nền dân chủ đa nguyên.
chủ pháp quyền và thực hiện những nguyên
tắc công bằng xã hội. Và Hiến pháp nước
này cũng liệt kê chi tiết các quyền cơ bản
(từ điều 30 đến 8617). Tương tự, Cộng hòa
Séc cũng ghi nhận nguyên tắc pháp quyền
tại Điều 1 và 9 Hiến pháp 199218...
Hiện tượng tương tự cũng diễn ra tại
các nước châu Phi. Tiến trình dân chủ hóa
thể hiện trước hết bởi sự sụp đổ của các chế
độ độc tài, kèm theo đó là việc ghi nhận đưa
nhà nước pháp quyền vào trong các văn bản
lập pháp, ví dụ các bản Hiến pháp Cộng hòa
Trung Phi năm 198619, Hiến pháp Benin năm
199020, Mali năm 199121 Sự dẫn chiếu
tới tiêu chuẩn nhà nước pháp quyền không
chỉ dừng lại như một dạng quy định mang
tính hình thức trong các bản Hiến pháp mới
được thông qua, mà còn thể hiện ở tổ chức
kiểm tra tính hợp hiến của luật và việc liệt kê
các quyền tự do dân chủ cơ bản. Xu hướng
tương tự cũng diễn ra tại các nước châu Á và
Trung Đông, tuy có chậm hơn.
Tuy nhiên, phải thấy rằng các tuyên
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 15(343) T8/2017
bố trang trọng này bản thân nó không đủ để
chứng thực cho sự tồn tại của nhà nước pháp
quyền đích thực. Do thiếu vắng các điều
kiện cần thiết như ở phương Tây, nên các
cơ chế của nhà nước pháp quyền khó có thể
nảy nở. Ở nhiều quốc gia, vì lý do thiếu vắng
các nội dung bảo đảm, việc khẳng định nhà
nước pháp quyền như một chuẩn mực của
tổ chức nhà nước chủ yếu là các dạng tuyên
bố mang tính chính trị nhiều hơn là pháp lý.
Ví dụ, tại các nước châu Phi và châu Á, sự
thiếu vắng hệ thống tư pháp độc lập và tình
trạng tham nhũng trong bộ máy công quyền
là trở ngại lớn cho việc thực hiện nhà nước
pháp quyền.
1.2. Nhà nước pháp quyền - một
nguyên tắc căn bản của Liên minh châu Âu
Sự phổ biến của nhà nước pháp quyền
thể hiện rõ nhất ở châu Âu. Theo đó, nhà
nước pháp quyền dần được xem như một
nguyên tắc nền tảng trong tổ chức và vận
hành của Liên minh châu Âu.
Xu hướng “khu vực hóa nhà nước
pháp quyền” này trước tiên được định hình
ở cấp độ toà án. Theo Toà án nhân quyền
Strasbourg, nhà nước pháp quyền chịu sự
chi phối, điều chỉnh bởi pháp luật phải đảm
bảo cho mọi người an ninh cũng như khả
năng thụ hưởng các quyền và tự do mà Công
ước châu Âu về nhân quyền đặt ra22. Trong
khi đó, Tòa án Luxembourg quan niệm rằng
Cộng đồng châu Âu là một “cộng đồng về
pháp luật ”23. Xu hướng này đồng thời được
thể hiện qua các văn bản được thông qua ở
cấp độ Cộng đồng châu Âu. Ngoài ra, sự dẫn
chiếu tới nhà nước pháp quyền được thể hiện
22 Phán quyết ngày 8/11/2007 của Tòa án nhân quyền châu Âu (Lelièvre kiện Nhà nước Bỉ). Lelièvre c/Belgique. Xem:
23 Phán quyết ngày 22/4/1986 của Tòa án Công lý Luxembourg: Đảng Xanh chống lại Nghị viện Châu Âu (Arrêt de la
Cour de justice, Les Verts, affaire 294/83 (23 avril 1986).
24 Hiến chương Liên minh châu Âu về các quyền cơ bản, ký tại Nice ngày 7/12/2000.
25 Xem Hiệp ước về Liên minh châu Âu (Hiệp ước Lisbone).
(bản tiếng Anh), truy cập ngày 20/6/2017).
trong Hiệp ước Amsterdam 1997 với việc
đưa ra điều kiện kết nạp thành viên mới hoặc
tạm đình chỉ tư cách thành viên đối với các
quốc gia không tuân thủ các nguyên tắc dân
chủ và nhà nước pháp quyền. Lời mở đầu
Hiến chương Nice 200024 tuyên bố: “Liên
minh châu Âu dựa trên nguyên tắc dân chủ
và nhà nước pháp quyền”.
Điều 2 Hiệp ước về Liên minh châu
Âu 2009 chỉ rõ: Liên minh châu Âu được
hình thành dựa trên các giá trị của sự tôn
trọng phẩm giá con người, tự do, dân chủ,
bình đằng, nhà nước pháp quyền cũng như
tôn trọng nhân quyền25. Như vậy, nhà nước
pháp quyền được xem như một trong những
trụ cột của Liên minh châu Âu, dù sự diễn
giải có thể chứa đựng một số đặc thù xuất
phát từ cấu trúc liên minh (khác với nhà
nước đơn nhất).
Việc xây dựng và cấu trúc Liên minh
châu Âu minh chứng rõ cho tính phổ biến
của nhà nước pháp quyền. Từ sau Thế chiến
thứ hai, nền hòa bình bền vững ở châu Âu
một phần dựa trên sự tán thành và công nhận
của các quốc gia thành viên đối với cùng
một mô hình tổ chức chính trị, dựa trên dân
chủ, nhân quyền và nhà nước pháp quyền.
Đó cũng chính là nền tảng của xây dựng
Liên minh châu Âu trong suốt hơn nửa thế
kỷ qua. Bởi thế, các nước Trung và Đông
Âu muốn tham gia Ủy hội châu Âu thì phải
thừa nhận các cơ chế của nhà nước pháp
quyền. Tại Hội nghị Copenhagen, các quốc
gia tham dự đã khẳng định rằng, “nền dân
chủ đa nguyên và nhà nước pháp quyền là
nền tảng để đảm bảo việc tuân thủ tất cả các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 15(343) T8/2017
quyền con người và các tự do cơ bản”. Hiến
chương Paris cho một Châu Âu mới26 thông
qua ngày 21/11/1990 khẳng định: Quyền con
người, dân chủ và nhà nước pháp quyền tạo
ra điều kiện cho “tự do, công lý và hòa bình”
vốn là mục tiêu của châu Âu mới sau Chiến
tranh lạnh.
2. Quốc tế hóa nhà nước pháp quyền: nhà
nước pháp quyền như một giá trị, tiêu
chuẩn chung của cộng đồng quốc tế
Từ địa vị một tiêu chuẩn, giá trị mang
tính quốc gia và khu vực, vào đầu những
năm 1990, nhà nước pháp quyền dần có
được sự thừa nhận ở cấp độ quốc tế và được
ghi nhận một cách long trọng trong hàng
loạt văn bản pháp luật quốc tế. Từng được
các nước Phương Tây sử dụng như một vũ
khí chính trị và ý thức hệ để đối chọi lại mô
hình tổ chức chính trị - pháp lý của các nước
XHCN27, sự sụp đổ của khối XHCN cũng
đánh dấu sự thắng thế, áp đặt của nhà nước
pháp quyền không chỉ ở từng quốc gia cụ thể
mà cả trong đời sống quốc tế - tuân thủ nhà
nước pháp quyền trở thành một nghĩa vụ của
các quốc gia và định chế quốc tế.
2.1. Sự thừa nhận bởi các thể chế
quốc tế
Chính trên sân khấu châu Âu và cụ
thể hơn là trong khuổn khổ “Hội nghị về an
ninh và hợp tác châu Âu” (CSCE, tiền thân
của Tổ chức An ninh và hợp tác châu Âu -
OSCE) tiến trình thừa nhận sự quốc tế hóa
nhà nước pháp quyền được bắt đầu. Trong
khi văn kiện của CSCE được thông qua tại
Helsinki ngày 01/8/1975 mới chỉ hạn chế ở
việc đưa ra một trong các nguyên tắc điều
26 Hiến chương Paris cho một Châu Âu mới hay còn gọi là Hiến chương của Tổ chức An ninh và hợp tác Châu ÂU
(OSCE) được thông qua ngày 21/11/1990.
27 Jacques Chevallier, L’Etat de droit, Sđd. tr. 118.
28 Hiệp ước Helsinki 1975: truy cập ngày 04/7/2017.
29 Xem: truy cập ngày 04/7/2017.
30 Document of the Copenhagen meeting of Conference on the human dimension of the CSCE. Xem:
org/odihr/elections/14304?download=true.
chỉnh quan hệ tương hỗ giữa các quốc gia
là “tuân thủ quyền con người và các tự do
căn bản, bao gồm cả tự do tư tưởng, tư do
tín ngưỡng và tôn giáo” (Nguyên tắc VII28),
thì đến Hội nghị Vienna (1986 - 1989) đã
đưa vào một quan niệm mới là “tầm vóc
nhân loại” (Human Dimension29). Trong
văn bản thông qua ngày 29/6/1990 tại Hội
nghị Copenhagen của CSCE, các quốc gia
tham dự đã thừa nhận rằng “nền dân chủ đa
nguyên và nhà nước pháp quyền là nền tảng
để đảm bảo việc tuân thủ tất cả các quyền
con người và các tự do cơ bản”30. Và Hiến
chương Paris 1990 khẳng định: “quyền con
người, dân chủ và nhà nước pháp quyền” tạo
ra điều kiện cho “tự do, công lý và hòa bình”,
vốn là mục tiêu hướng tới của một Châu Âu
mới hậu Chiến tranh lạnh.
Như vậy, tại châu Âu, nhà nước pháp
quyền được thừa nhận một cách rõ ràng như
một thành tố không thể tách rời của bộ ba
gồm: dân chủ, quyền con người và nhà nước
pháp quyền. Theo đó, nhà nước pháp quyền
được đặt ra như một phương tiện để bảo vệ
quyền con người và đáp ứng yêu cầu, đòi
hỏi về mặt dân chủ; và nhà nước pháp quyền
chỉ thể hiện rõ mọi ý nghĩa của nó trong mối
quan hệ tương hỗ với hai vấn đề còn lại.
Sự áp đặt này được mở rộng ra trên
bình diện quốc tế, nhất là trong khuôn khổ
các hoạt động được Liên hiệp quốc (LHQ)
bảo trợ. Tuyên bố chung của Hội nghị về
quyền con người, diễn ra tại Vienna vào
tháng 6 năm 1993 nhắc lại rằng: “Các quốc
gia cần tăng cường các thể chế quốc gia và
nền móng liên quan để duy trì nhà nước pháp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 15(343) T8/2017
quyền”31, nhằm tạo ra “những điều kiện cho
phép mỗi người thụ hưởng các quyền mang
tính phổ thông và các tự do cơ bản”. Như
vậy, châu Âu đã đi xa hơn Tuyên ngôn thế
giới về Nhân quyền 1948 và các Công ước
liên quan của LHQ, khi nhấn mạnh mối liên
hệ chặt chẽ giữa nhà nước pháp quyền với
vấn đề dân chủ và nhân quyền. Sau đó, cách
tiếp cận này được nhắc lại trong Nghị quyết
ngày 18/02/1994 của LHQ32 về tăng cường
nhà nước pháp quyền và trong “Nghị trình vì
dân chủ hóa” được Tổng thư ký LHQ thông
qua ngày 17/12/199633.
Từ năm 1993, nhà nước pháp quyền
được đưa ra trong hàng loạt nghị quyết của
LHQ34, thậm chí cả trong Tuyên bố thiên niên
kỷ ngày 08/9/2000 và Tuyên bố của Hội nghị
thượng đỉnh toàn cầu 2005 ngày 16/9/2005,
trong đó các quốc gia tái khẳng định “cam
kết bảo vệ và quảng bá một cách tích cực
các quyền con người, nhà nước pháp quyền
và dân chủ, mà các bên biết rằng chúng phụ
thuộc lẫn nhau, cũng cố, hỗ trợ nhau và là
một phần của các giá trị và nguyên tắc mang
tính cơ bản, phổ cập và không thể phân chia
của LHQ”35 (part 119), đặt một tựa đề riêng
có tên là “nhà nước pháp quyền” (part, 134).
Tiếp sau Tuyên bố này, vấn đề “nhà nước
pháp quyền” ở cấp độ quốc gia và quốc tế đã
được ghi vào các phiên họp tiếp theo trong
nghị trình của Đại Hội đồng LHQ, và là đối
tượng của một loạt các báo cáo của Tổng thư
31 Vienna Declaration and Programme of Action, UN Doc A/CONF.157/24 (1993), Part I, chap. III, sect. II, para. 69.
32 A/RES/48/132, le 18 février 1994, Renforcement de l’Etat de droit.
33 Nghị trình vì dân chủ hóa của Liên hiệp quốc, xem : www.un.org/fr/events/democracyday/pdf/An_agenda_for_democ-
ratization.pdf, truy cập ngày 4/7/2017.
34 Rule of Law trong bản tiếng Anh hoặc l’Etat de droit trong các bản tiếng Pháp, mặc dù hai quan niệm về nhà nước pháp
quyền này không hoàn toàn tương đồng nhau.
35 Tuyên bố của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu của LHQ 2005.
Xem:
36 World Summit Outcome Document, supra note 2, para. 11. Xem thêm para. 21, 24(b).
Xem:
37 Nghị quyết ngày 28/11/1991 Hội đồng châu Âu với chủ đề “Quyền con người, dân chủ và phát triển”.
ký LHQ và nhiều nghị quyết liên quan. Được
hiểu ở hai phương diện hình thức và nội
dung, nhà nước pháp quyền trở thành một
chủ đề ưu tiên trong các thảo luận của LHQ,
trong mối quan hệ với vấn đề quyền con
người và dân chủ, ba chủ đề được xem là có
một quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau
(Nghị quyết ngày 04/12/2006 của LHQ).
Văn kiện của Hội nghị thượng đỉnh thế
giới năm 2005 do LHQ tổ chức cũng tuyên
bố: Quản trị tốt và nhà nước pháp quyền ở
cấp độ quốc gia và quốc tế là nền tảng cho
tăng trưởng kinh tế bền vững, phát triển bền
vững và xóa đói giảm nghèo36.
Sự áp đặt mô hình nhà nước pháp quyền
cũng là sản phẩm của các sức ép từ các thể
chế quốc tế đối với các quốc gia không gian
hậu Xô viết (các quốc gia chuyển đổi) và các
nước đang phát triển. Ví dụ, các thể chế châu
Âu và tài chính quốc tế đã hết sức khuyến
khích, ưu đãi việc du nhập các nguyên tắc và
cơ chế của nhà nước pháp quyền, thông qua
các đề án hỗ trợ, hợp tác giữa các tổ chức
này với các quốc gia khác. Chính quyền các
nước Trung và Đông Âu khi tham gia Ủy hội
châu Âu buộc phải công nhận các cơ chế của
nhà nước pháp quyền được ghi rõ trong hiệp
ước sáng lập của tổ chức này. Cũng vậy, Liên
minh châu Âu đã xác định nhà nước pháp
quyền như là một trong các cơ chế trong
chính sách hợp tác đối với các nước đang
phát triển37 và hỗ trợ chuyển đổi tại khu vực
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 15(343) T8/2017
Đông Âu thông qua Đề án Phare38 và Tacis39.
Ngoài ra, có thể kể đến sức ép từ phía
các thiết chế tài chính quốc tế, ví dụ, Ngân
hàng Thế giới cũng đã đặt điều kiện nhận
tài trợ với các cam kết về cải tổ chính trị,
trong đó xây dựng nhà nước pháp quyền có
một vị trí quan trọng. Từ năm 1989, Ngân
hàng Thế giới đã xem pháp quyền (rule of
law) là một thành tố quan trọng của “quản
trị tốt” (good governance40). Vào thời điểm
đó, vấn đề này chủ yếu được quan tâm ở
phương diện kinh tế và phát triển: bằng cách
khuyến nghị thông qua các giải pháp mang
xu hướng tự do, Ngân hàng Thế giới nhấn
mạnh một mặt về sự cần thiết của các thiết
chế công hiệu quả để dẫn dắt phát triển kinh
tế, mặt khác nhấn mạnh việc tuân thủ một
số đòi hỏi của trật tự chính trị. Theo Ngân
hàng Thế giới, quản trị tốt bao gồm: an ninh
của công dân được bảo đảm và việc tuân thủ
luật pháp được bảo đảm, nhất là thông qua
sự độc lập của cơ quan xét xử (pháp quyền),
các cơ quan công quyền quản lý một cách
minh bạch, các nhà lãnh đạo chính trị phải
giải trình về hoạt động của họ (trách nhiệm
giải trình và khả năng quy trách nhiệm),
sự tham gia của công chúng vào hoạt định
chính sách được đề cao41. Cách đặt vấn đề
này được LHQ tái sử dụng, nhất là trong
khuôn khổ Chương trình phát triển của LHQ
(PNUD)42 và các tổ chức quốc tế khác như
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Hợp tác
38 Đề án Phare của Liên minh châu Âu nhằm vận động cho sự phục hồi kinh tế của Balan và Hungary thông qua các cải
cách thể chế và thị trường. Xem: truy cập ngày
04/7/2017.
39 Đề án Tacis (Technical Assistance to the Commonwealth of Independant States-CEI) của Liên minh châu Âu nhằm
hỗ trợ chuyên môn cho các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập. Đề án này hướng tới thiết lập các điều kiện
thuận lợi cho kinh tế thị trường và tăng cường dân chủ tại các nước thuộc Liên Xô (cũ). Xem:
press-release_MEMO-92-54_en.htm, truy cập ngày 04/7/2017.
40 Xem: Nguyễn Văn Quân, Nguồn gốc và sự phát triển của quản trị tốt, trong: Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh, Đặng
Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn, Quản trị tốt: lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, H., 2017, tr. 74-90.
41 Xem: Nguyễn Đức Lam, Quản trị tốt: những chuẩn mực chung, trong: Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh, Đặng Minh
Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn, Quản trị tốt: lý luận và thực tiễn, Sđd, tr. 53-69.
42 UN Development Programme, Governance for Sustainable Human Development (UNDP, New York, January 1997), at
43 Simon Chesterman, An international rule of law? Americain Journal of Comparative Law, Vol. 56/2008. p. 356.
và phát triển kinh tế (OECD) và UNESCO.
2.2. Hướng tới một dạng pháp quyền
quốc tế?
Chế độ pháp quyền ở cấp độ quốc gia
được thiết lập dựa trên nguyên tắc sức mạnh
nhà nước phải được sử dụng trong khuôn
khổ pháp luật, bị điều chỉnh, hạn chế bởi
pháp luật, một cách đương nhiên, logic đó
sẽ được mở rộng ra cấp độ quốc tế. Theo
đó, nhà nước phải phục tùng không chỉ các
quy phạm theo nguồn gốc quốc gia, mà còn
là các nguyên tắc, quy phạm của pháp luật
quốc tế. Thông qua các quy phạm này, người
ta thấy rõ những đường nét của một dạng
“pháp quyền quốc tế”.
Theo đó, pháp quyền quốc tế
(international rule of law) có thể được hiểu
trên 3 phương diện: thứ nhất, áp dụng các
nguyên tắc pháp quyền trong quan hệ giữa
các quốc gia và các chủ thể khác của pháp
luật quốc tế. Thứ hai, ưu tiên pháp luật quốc
tế cao hơn pháp luật quốc gia (ví dụ, tính
chiếm ưu thế của các công ước về quyền con
người so với các quy phạm pháp luật quốc
gia). Thứ ba, một hệ thống quy tắc pháp luật
toàn cầu bao gồm các quy phạm tác động
trực tiếp tới các cá nhân mà không cần thông
qua sự trung gian của các thiết chế quốc
gia đang hiện hữu43 (áp đặt đối với các nhà
nước và hạn chế phần nào chủ quyền quốc
gia). Cũng có thể hiểu rằng, khái niệm pháp
quyền quốc tế đồng nghĩa với “sự thống trị
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 15(343) T8/2017
của pháp luật” (thượng tôn pháp luật)44, tức
là trong quan hệ quốc tế, quyền lực được
dựa trên sự tuân thủ luật pháp và giới hạn
trong khuôn khổ luật pháp, và luật pháp đó
thể hiện bằng một tổng thể các quyền cơ bản
được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Tuy nhiên, khái niệm pháp quyền có
thể dẫn tới sự tuyệt giao với quan niệm cổ
điển của luật quốc tế. Luật quốc tế vốn được
xây dựng trên nguyên tắc của chủ quyền
quốc gia, là sản phẩm của sự gặp gỡ của ý chí
tối cao. Đây là một thứ pháp luật “liên nhà
nước”, được tạo nên dựa trên sự thỏa thuận
giữa các quốc gia. Như vậy, pháp luật quốc
tế có một đặc trưng “giao ước”, vốn loại trừ
nguyên tắc trật tự quy phạm (hierarchy of
legal norms). Trong khi đó, nhà nước pháp
quyền (theo nghĩa quốc gia) gắn liền với
nguyên tắc trật tự quy phạm pháp luật. Hơn
nữa, về mặt tố tụng, các thiết chế của luật
quốc tế này không có được thẩm quyền trọn
vẹn và các phương tiện cưỡng chế của nhà
nước pháp quyền theo nghĩa quốc gia. Nếu
nhìn nhận và đánh giá “pháp quyền quốc tế”
dưới góc độ lý thuyết nhà nước pháp quyền
quốc gia thì nó mới dừng lại ở những phác
thảo ban đầu, xuất phát từ sự thiếu vắng các
cơ chế hữu hiệu đảm bảo cho sự vận hành
của nguyên tắc pháp quyền.
Trên thực tế, các cơ chế bảo đảm của
pháp quyền quốc tế đang từng bước được
định hình. Về phương diện này, việc hình
thành LHQ là một bước ngoặt cơ bản. LHQ
tập trung gần như toàn bộ các quốc gia
trên thế giới, như là một dạng “diễn đàn
thế giới”, hay một dạng “dân chủ liên nhà
nước”. Hội đồng bảo an LHQ trở thành cơ
chế bảo đảm tính “pháp chế quốc tế”, nhất
là trong sử dụng vũ lực. Hoạt động của LHQ
là cơ sở cho một cơ chế pháp quyền dù chưa
thật hoàn thiện, vì Hội đồng bảo an ít khi
có khả năng đảm đương trách nhiệm được
đặt ra trong Hiến chương. Ngay cả khi các
nguyên tắc này không đủ sức giúp tránh các
44 Xem: Jacques Chevallier, L’Etat post-moderne, 4e édittion, Nxb. Lgdj, 2014, p.180.
45 Các trường hợp được liệt kê tại Chương VII của Hiến chương LHQ (sử dụng vũ lực).
xung đột vũ trang thì việc hình thành LHQ ít
ra cũng tạo được khởi đầu của một tiến trình,
đóng góp vào việc quảng bá ý tưởng theo đó
tranh chấp giữa các quốc gia phải được giải
quyết một cách hòa bình. Trong trường hợp
sử dụng vũ lực, chế độ pháp quyền là sự đảm
bảo cho việc sử dụng vũ lực một cách đúng
đắn, nói cách khác là phục vụ việc chính
danh hóa của việc sử dụng vũ lực trong một
số trường hợp hạn hữu.
Bằng việc đóng góp vào thể chế hóa
các quan hệ quốc tế bằng pháp luật, một trật
tự pháp luật thực sự đã từng bước được tạo
lập dưới sự bảo trợ của LHQ. Trật tự pháp
luật này dựa trên nguyên tắc cơ bản “cấm
sử dụng vũ lực”, ngoại trừ một số trường
hợp hạn hữu được xác định rõ trong Hiến
chương45. Có nghĩa rằng, việc tuân thủ các
nguyên tắc pháp quyền được quan niệm như
một phương thức để điều chỉnh một cách
hòa bình các quan hệ quốc tế. Trong cơ chế
này, nhà nước phải phục tùng một thứ pháp
luật cao hơn nhà nước và bị trói buộc trong
khuôn khổ của thứ pháp luật này (dĩ nhiên
cộng đồng quốc tế còn xa mới đạt tới lý
tưởng này). Tuy nhiên, chúng ta có thể nhìn
thấy những bước đi được đầu tiên trên hành
trình đó. Ví dụ, sự ra đời của Tòa án Hình
sự quốc tế, Tòa án Công lý quốc tế, Tòa án
Nhân quyền châu Âu, Tòa án Công lý châu
Âu, Tòa án Nhân quyền Liên Mỹ, Tòa án
Luật biển quốc tế Đây là những nền tảng
cơ bản về mặt tài phán nhằm đảm bảo cho sự
tuân thủ pháp luật ở cấp độ quốc tế. Dù đây
chỉ là những bước đi đầu tiên nhưng phần
nào đã minh chứng cho niềm tin tuyệt đối
đối với pháp luật, vốn là trung tâm của việc
xây dựng học thuyết nhà nước pháp quyền -
học thuyết dựa trên niềm tin chắc chắn rằng,
quyền lực phải bị ràng buộc bởi các quy tắc
và sức mạnh là để duy trì, phục vụ luật pháp.
Pháp quyền quốc tế còn hướng tới
việc công nhận toàn bộ các quyền cơ bản
của con người. Dĩ nhiên, sự đảm bảo thực
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 15(343) T8/2017
thi, tôn trọng các quyền này không phải là
hoàn hảo và đầy đủ trên thực tế. Nhưng ý
tưởng, theo đó mọi cá nhân đều sở hữu một
tổng thể các quyền - một dạng di sản chung
của nhân loại mà mọi quốc gia có nghĩa vụ
tuân thủ, tạo thành một sức mạnh giúp điều
chỉnh các quan hệ quốc tế một cách hòa
bình. Việc thành lập Tòa án Hình sự quốc
tế ngày 17/7/199846 có thẩm quyền xét xử
các vụ việc liên quan đến diệt chủng, tội ác
chống lại nhân loại, tội phạm chiếm tranh
đã cho thấy rằng, bất chấp những khó khăn
cản trở, đây là bước tiến lớn “trên con đường
tuân thủ ở cấp độ toàn cầu các quyền con
người và nhà nước pháp quyền”47.
Kết luận
Trong những năm cuối thế kỷ XX đầu
thế kỷ XXI, một trong những đặc điểm nổi
bật của đời sống pháp lý thế giới là sự phổ
46 Statute of the International Criminal Court (Rome Statute), UN Doc. A/Conf. 183/9 (17 July 1998), Art 1. Xem: https://
www.icc-cpi.int/nr/rdonlyres/ea9aeff7-5752-4f84.../rome_statute_english.pdf, truy cập 02/4/2017.
47 Phát biểu của Tổng thư ký LHQ Kofi Annan ngày 20/7/1998 nhân dịp thành lập Tòa án Hình sự quốc tế. (“La creation
de la Cour est un gage d’espoir pour les générations à venir et un pas de géant sur la voix du respect universel des droits
de l’homme et de l’Etat de droit”).
biến chủ đề nhà nước pháp quyền và chủ
nghĩa hợp hiến. Quá trình này bắt đầu ở châu
Âu từ những năm 70 của thế kỷ XX và được
diễn ra gần như khắp thế giới. Ngày nay, nhà
nước pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến trở
thành những xu hướng, giá trị và chuẩn mực
chung của xã hội đương đại - được tạo bởi
ba yếu tố không thể tách rời: tôn trọng, bảo
vệ quyền con người, dân chủ và nhà nước
pháp quyền.
Có thể nói rằng, sự phổ biến của nhà
nước pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến cũng
là sự lên ngôi của mô hình tổ chức quyền lực
nhà nước dựa trên nền tảng dân chủ và tôn
trọng, bảo vệ quyền con người. Sự phổ biến
này chứng tỏ sức hấp dẫn của một mô hình
đã được kiểm nghiệm và trở thành một giá
trị phổ quát được thừa nhận rộng rãi bởi gần
như mọi quốc gia và định chế quốc tế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adam Czarnota, Martin Krygier and Wojciech Sadurski (ed.), Rethinking the Rule of Law after Communisme,
Nxb. Central European University Press, 2005.
2. Brian Z. Tamanha, On the Rule of Law: History, Politics, Theory, Nxb. Cambridge University Press, 2004.
3. Claude Lefort, Droits de l’homme et Politique, in Libre n° 7, 1980, Nxb. Payot.
4. Gianluggi Palombelle and Neil Walker (ed.), Relocating the Rule of Law, Hart Publishing, 2009.
5. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà nội, Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, Nxb. Hồng Đức, 2012.
6. Jacques Chevallier, L’Etat de droit, 5e éd. Nxb. Montchrestien, 2010.
7. Jacques Chevallier, L’Etat post-moderne, 4e edittion, Nxb. Lgdj, 2014.
8. Stéphane Beaulac, The Rule of Law Internationalized or the Internationalization of the Rule of Law,
Allocution lors du congrès de l’Association internationale de méthodologie juridique intitulé « Globalisation
du droit et professions juridiques », Aix-en-Provence, France, 17 juin 2010.
9. Pietro Costa, Danilo Zolo (Editors), The Rule of Law History, Theory and Criticism, Nxb. Springer, 2007.
10. Raoul Charles van Caenegen, An Historical Introduction to Western Consti tutional Law, Cambridge,
Cambridge University Press, 1995.
11. Simon Chesterman, An international rule of law?, Americain Journal of Comparative Law, Vol. 56, 2008,
p. 331-361.
12. Spencer Zifcak (ed.), Globalisation and the Rule of Law, Nxb. Routledge, 2005.
13. Đào Trí Úc, Vũ Công Giao, Bảo hiến, chủ nghĩa lập hiến và nhà nước pháp quyền, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp Số 1-2(210-211), 2012, tr. 10-16.
14. Đào Trí Úc, Giáo trình nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2015.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 15(343) T8/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_pho_bien_cua_chu_nghia_hop_hien_va_nha_nuoc_phap_quyen_nh.pdf