kết luận
Phát triển logistics là một vấn đề rất lớn, mang tính
liên ngành rất cao, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế hết sức sâu, tiến bộ khoa học và công
nghệ, đặc biệt là trong công nghệ thông tin và công
nghệ vận tải như hiện nay. Trong khuôn khổ bài viết
này, bằng cách khảo sát các doanh nghiệp chế biến
về tác động của logistics đến hiệu quả kinh doanh
của họ đã cho thấy khá nhiều vấn đề: nhận thức và
phương thức cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp
rất lạc hậu, sự liên kết giữa doanh nghiệp cung ứng và
sử dụng dịch vụ chưa hình thành, tác động của việc
sử dụng dịch vụ thuê ngoài trong việc nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp chưa rõ nét, chưa
chứng tỏ được ưu việt hơn so với phương thức tự làm,
chủng loại dịch vụ còn đơn giản, nặng về các dịch vụ
truyền thống và rất ít các dịch vụ giá trị gia tăng Bài
viết cũng đã đề xuất một số kiến nghị ban đầu cho các
doanh nghiệp kể, cả doanh nghiệp cung ứng và doanh
nghiệp sử dụng dịch vụ nhằm cải thiện tình hình.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 418 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự tác động của dịch vụ logistics đến hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu - nghiên cứu tại Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Liên kết phát triển logistics miền Trung
23Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH VỤ LOGISTICS ĐẾN HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU -
NGHIÊN CỨU TẠI ĐÀ NẴNG
* GS.TS., Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng.
** TS., Seaprodex Đà Nẵng.
? nguYỄn trƯỜng sƠn* - trần nhƯ thiên mỴ**
1. đặt vấn đề
Logistics là quá trình lập kế hoạch, áp dụng và kiểm
soát các luồng chuyển dịch của hàng hóa hay thông
tin liên quan tới nguyên nhiên liệu vật tư (đầu vào)
và sản phẩm cuối cùng (đầu ra) từ điểm xuất phát tới
điểm tiêu thụ [1]. Hoạt động logistics rất phong phú
bao gồm các dịch vụ nhận hàng, vận chuyển, lưu kho,
lưu bãi, làm thủ tục hải quan và các thủ tục giấy tờ
khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã
hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan
đến hàng hóa thỏa thuận với khách hàng để hưởng
thù lao... Với sự đa dạng và phong phú như vậy, chi
phí logistics chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 21% doanh
thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất.
Dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng, giúp nâng
cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm giải quyết tối ưu
cả đầu vào lẫn đầu ra cho mỗi doanh nghiệp.
Tại Đà Nẵng, doanh nghiệp phần lớn có quy mô
nhỏ, hiệu quả kinh doanh còn thấp. Các doanh nghiệp
sản xuất chưa hiểu được bản chất của logistics cũng
như tác động của nó đến việc giảm chi phí và nâng
cao hiệu quả kinh doanh của chính doanh nghiệp.
Phần lớn các dịch vụ logistics đều do doanh nghiệp
tự làm. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics
phát triển khá tự phát, chưa thật sự tập trung vào các
dịch vụ doanh nghiệp cần, chất lượng dịch vụ thấp,
tác động của dịch vụ đến hiệu quả của doanh nghiệp
do vậy cũng rất hạn chế.
Để góp phần tăng cường nhận thức, tạo động lực
sử dụng các dịch vụ logistics thuê ngoài nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp; để giúp
các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ định hướng
đúng chiến lược phát triển; giúp các nhà quản lý vĩ
mô của thành phố có cơ sở trong việc hoàn thiện môi
trường kinh doanh của địa phương, các nghiên cứu
nhằm lượng hóa, đưa ra các bằng chứng thuyết phục
về sự tác động của logistics đến hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp sản xuất, đề xuất các giải pháp
nhằm phát triển dịch vụ logistics dựa trên các bằng
chứng xác thực này có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
2. cơ sở lý thuyết và khung kế hoạch nghiên cứu
2.1. Khái niệm và phân loại logistics
Dịch vụ logistics là những dịch vụ liên quan đến
hoạt động đảm bảo tối ưu toàn bộ quá trình sản xuất
kinh doanh bao gồm từ việc cung ứng đầu vào đến
tiêu thụ sản phẩm, được các doanh nghiệp sản xuất
Liên kết phát triển logistics miền Trung
24 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
tự tổ chức thực hiện hoặc thuê ngoài mà có tác động
đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp
trên thị trường.
Logistics được phân loại theo nhiều cách khác
nhau, theo góc độ xem xét hoặc theo mục tiêu của
hoạt động quản lý. Các cách phân loại tiêu biểu,
thường được sử dụng hiện nay là:
- Phân theo quá trình thực hiện: logistics sẽ bao
gồm 3 loại:
+ Logistics đầu vào (Inbound logistics), bao gồm
các hoạt động nhằm đảm bảo cung ứng một cách
tối ưu (cả về vị trí, thời gian và chi phí) các đầu vào
(nguyên vật liệu, vốn, thông tin,...) cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Logistics đầu ra (Outbound logistics), bao gồm
các hoạt động đảm bảo cung ứng sản phẩm được sản
xuất ra đến tay khách hàng một cách tối ưu cả về vị
trí, thời gian và chi phí nhằm đáp ứng các mục tiêu
của doanh nghiệp.
+ Logistics ngược (Reverse logistics) là quá trình
thu hồi các phế liệu, phế phẩm, phụ phẩm và tất cả
các yếu tố khác phát sinh từ quá trình sản xuất, phân
phối và tiêu dùng có thể ảnh hưởng đến môi trường
để xử lý hoặc tái chế.
- Theo phương thức khai thác hoạt động logistics,
gồm có:
+ Dịch vụ logistics bên thứ nhất (1PL): Các doanh
nghiệp tự thực hiện các hoạt động logistics của mình.
Doanh nghiệp sở hữu các phương tiện vận tải, nhà
xưởng, thiết bị xếp dỡ và các nguồn lực khác bao gồm
cả con người để thực hiện các hoạt động logistics.
+ Dịch vụ logistics bên thứ hai (2PL): Là việc quản
lý các hoạt động logistics truyền thống như vận
tải hay kho vận. Doanh nghiệp không sở hữu hoặc
không có đủ phương tiện và cơ sở hạ tầng thì có
thể thuê ngoài các dịch vụ logistics nhằm cung cấp
phương tiện thiết bị hay dịch vụ cơ bản.
+ Dịch vụ logistics bên thứ ba (3PL hoặc TPL) hay
còn được gọi là logistics theo hợp đồng. Phương
thức này có nghĩa là doanh nghiệp sử dụng các
doanh nghiệp bên ngoài để thực hiện các hoạt động
logistics, có thể là toàn bộ quá trình quản lý logistics
hoặc chỉ một số hoạt động có chọn lọc. Nói cách khác
3PL là các hoạt động do một doanh nghiệp logistics
(nhà cung cấp dịch vụ logistics) thực hiện trên danh
nghĩa khách hàng của họ, tối thiểu bao gồm quản lý
và thực hiện hoạt động vận tải và kho vận ít nhất 1
năm có hoặc không có hợp đồng hợp tác. Đây được
coi như một liên minh chặt chẽ giữa một doanh
nghiệp và nhà cung cấp dịch vụ logistics, nó không
chỉ nhằm thực hiện các hoạt động logistics mà còn
chia sẻ thông tin, rủi ro và các lợi ích theo một hợp
đồng dài hạn.
Dịch vụ logistics bên thứ tư (4PL hoặc FPL) hay
còn được gọi là logistics chuỗi phân phối. Dịch vụ
logistics bên thứ tư - 4PL là một khái niệm phát triển
trên nền tảng của 3PL nhằm tạo ra sự đáp ứng dịch
vụ, hướng về khách hàng và linh hoạt hơn. 4PL quản
lý và thực hiện các hoạt động logistics phức hợp như
quản lý nguồn lực, trung tâm điều phối, kiểm soát và
các chức năng kiến trúc và tích hợp các hoạt động
logistics. 4PL bao gồm lĩnh vực rộng hơn, gồm cả các
hoạt động của 3PL, các dịch vụ công nghệ thông tin
và quản lý các tiến trình kinh doanh. 4PL được xem
là một điểm liên lạc duy nhất, nơi thực hiện việc
quản lý, tổng hợp các nguồn lực và giám sát các chức
năng 3PL trong suốt chuỗi phân phối để vươn tới thị
trường toàn cầu, lợi thế chiến lược và các mối quan
hệ lâu bền.
2.2. Logistics và hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp sản xuất
Doanh nghiệp sản xuất có chức năng chính là sản
xuất ra sản phẩm để cung cấp cho thị trường nhằm
tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp và cho xã hội.
Hoạt động sản xuất đòi hỏi doanh nghiệp phải giải
quyết tốt các khâu cung ứng đầu vào, tổ chức quá
trình sản xuất, tổ chức cung ứng và tiêu thụ sản phẩm
đến tay người tiêu dùng, do vậy hoạt động của doanh
nghiệp gắn liền với việc sử dụng thường xuyên các
dịch vụ logistics cả đầu vào lẫn đầu ra. Trên cả góc độ
lý luận và thực tiễn, tác động của logistics đến hiệu
quả của doanh nghiệp thể hiện trên các khía cạnh cơ
bản sau [4]:
- Dịch vụ logistics góp phần giảm thiểu chi phí trong
quá trình sản xuất. Chi phí logistics chiếm tỷ trọng
lớn, khoảng 21% doanh thu tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp. Ở góc độ vĩ mô, chi phí cho hoạt động
logistics chiếm khoảng 10 - 13% GDP ở các nước phát
triển, ở các nước đang phát triển thì cao hơn, khoảng
15 - 20% [3]. Với việc chiếm tỷ trọng rất cao trong
chi phí, việc tổ chức quá trình cung ứng và sử dụng
logistics trong doanh nghiệp, cũng như trên giác độ
Liên kết phát triển logistics miền Trung
25Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
ngành là một hướng quan trọng nhằm tăng năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng trong
việc rút ngắn thời gian, bảo đảm tính đúng thời điểm
của quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm gia
tăng sự hài lòng của khách hàng. Quá trình toàn cầu
hóa kinh tế đã làm cho hàng hóa và sự vận động của
chúng phong phú và phức tạp hơn nhiều lần so với
thời kỳ trước đây, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ, đặt
ra yêu cầu mới đối với dịch vụ vận tải và giao nhận.
Đồng thời, để tránh hàng tồn kho, doanh nghiệp phải
tính toán để lượng hàng tồn kho luôn là nhỏ nhất.
Kết quả là hoạt động lưu thông nói chung và hoạt
động logistics nói riêng phải bảo đảm yêu cầu giao
hàng đúng lúc, kịp thời, mặt khác phải bảo đảm mục
tiêu khống chế lượng hàng tồn kho ở mức tối thiểu.
Sự phát triển mạnh mẽ của tin học cho phép kết hợp
chặt chẽ quá trình cung ứng, sản xuất, lưu kho hàng
hóa, tiêu thụ với vận tải giao nhận, làm cho cả quá
trình này trở nên hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn,
nhưng đồng thời cũng phức tạp hơn.
- Dịch vụ logistics hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định
chính xác trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh
nghiệp luôn phải giải quyết nhiều bài toán khó về
nguồn nguyên liệu cung ứng, số lượng và thời điểm
để bổ sung hiệu quả nguồn nguyên liệu, phương tiện
và hành trình vận tải, địa điểm, thời gian giao nhận và
kho bãi chứa thành phẩm, bán thành phẩm, Để giải
quyết những vấn đề này một cách hiệu quả không thể
thiếu vai trò của dịch vụ logistics vì nó cho phép nhà
quản lý kiểm soát và ra quyết định chính xác về các
vấn đề nêu trên để giảm tối đa chi phí phát sinh, bảo
đảm hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Dịch vụ logistics góp phần gia tăng giá trị kinh
doanh của các doanh nghiệp thông qua việc thực hiện
các dịch vụ lưu thông bổ sung (các dịch vụ tiếp tục
quá trình sản xuất trong khâu phân phối lưu thông).
Logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và
phức tạp hơn nhiều so với hoạt động vận tải giao
nhận thuần túy. Trước kia, người kinh doanh dịch vụ
vận tải giao nhận chỉ cung cấp cho khách hàng những
dịch vụ đơn giản, thuần túy và đơn lẻ. Ngày nay, do
sự phát triển của sản xuất, lưu thông, các chi tiết của
một sản phẩm có thể do nhiều quốc gia cung ứng
và ngược lại một loại sản phẩm của doanh nghiệp
có thể tiêu thụ tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường
khác nhau. Vì vậy dịch vụ mà khách hàng yêu cầu từ
các nhà phân phối, các doanh nghiệp kinh doanh vận
tải giao nhận phải đa dạng và rất phong phú. Người
vận tải giao nhận ngày nay phải triển khai thực hiện
nhiều dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế ngày
càng tăng của khách hàng. Họ trở thành người cung
cấp logistics và logistics đã góp phần làm gia tăng giá
trị kinh doanh của các doanh nghiệp logistics.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu đánh giá tác động của logistics đến
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, thông qua
đó đánh giá mức độ liên kết và gắn bó giữa doanh
nghiệp sản xuất và doanh nghiệp cung ứng dịch vụ
logistics, nghiên cứu này chủ yếu sử dụng phương
pháp thống kê mô tả nhằm làm rõ sự tác động theo
các khía cạnh khác nhau của việc sử dụng logistics.
Các dịch vụ logistics được đánh giá là những dịch
vụ căn bản thuộc về cả logistics đầu vào và logistics
đầu ra.
Dữ liệu sử dụng chủ yếu là các dữ liệu sơ cấp được
điều tra từ việc điều tra các doanh nghiệp sản xuất.
3. kết quả điều tra về tác động của logistics đến
hiệu quả sản xuất nhìn từ phía các doanh nghiệp
sản xuất và xuất khẩu
Tổng hợp kết quả điều tra, xử lý dữ liệu nhằm
đánh giá mức độ nhận thức trong việc sử dụng dịch
vụ logistics, sự gắn kết giữa các doanh nghiệp và sự
tác động của logistics đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, kết quả phân tích
thể hiện trên từng khía cạnh như sau:
- Mức độ nhận thức của doanh nghiệp về tác động
của logistics đến hiệu quả sản xuất:
Câu hỏi đặt ra nhằm thăm dò mức độ nhận biết và
đánh giá cá nhân của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp
về vị trí quan trọng của việc sử dụng dịch vụ logistics,
kết quả nhận được thể hiện trên Biểu đồ 1.
Biểu đồ 1: đánh giá của doanh nghiệp về vai
trò của logistics đối với hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp
Nguồn: Điều tra của tác giả (2016)
Liên kết phát triển logistics miền Trung
26 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Mặc dù các doanh nghiệp phải thường xuyên
thực hiện các hoạt động logistics, tuy nhiên trong số
các chủ doanh nghiệp có khá nhiều người chưa hiểu
về dịch vụ này. Họ cho rằng thuật ngữ logistics muốn
chỉ đến các hoạt động bên ngoài doanh nghiệp, của
các doanh nghiệp khác và mình không hoặc ít có liên
quan. Con số 52% doanh nghiệp cho rằng dịch vụ
logistics không quan trọng đối với doanh nghiệp là
một thực tế rất đáng suy ngẫm về mức độ nhận thức
của doanh nghiệp đối với vai trò của logistics. Điều
này có nguyên nhân từ phía doanh nghiệp sử dụng
lẫn phía doanh nghiệp cung ứng dịch vụ.
- Về mức độ đảm nhận dịch vụ logistics:
Dù nhận thức thế nào thì việc thực hiện các dịch
vụ logistics trong các doanh nghiệp vẫn buộc phải
tiến hành. Chỉ khác nhau ở chỗ một số doanh nghiệp
thực hiện thông qua việc thuê hoặc mua dịch vụ từ
các nhà cung cấp chuyên nghiệp, điều này hứa hẹn
sẽ dẫn đến chuyên nghiệp hóa việc cung cấp dịch vụ;
hoặc doanh nghiệp phải tự mình thực hiện dịch vụ.
Kết quả điều tra được thể hiện ở Biểu đồ 2.
Kết quả điều tra cho thấy phần lớn dịch vụ logistics
tại Đà Nẵng vẫn do các doanh nghiệp tự làm lấy,
logistics chưa thể hiện là một ngành chuyên môn kỹ
thuật riêng biệt. Tính chất chuyên môn hóa thấp làm
hạn chế chất lượng dịch vụ. Các doanh nghiệp sản
xuất, xuất khẩu vừa phải tổ chức sản xuất vừa phải tự
ôm đồm hết các khâu dịch vụ, điều này làm cho chi
phí sản xuất tăng lên, làm giảm hiệu quả kinh doanh
của cả doanh nghiệp sản xuất lẫn doanh nghiệp dịch
vụ. Kết quả thu nhận được cũng phản ánh một khía
cạnh khác: mức độ liên kết giữa doanh nghiệp cung
ứng logistics và doanh nghiệp sản xuất tại Đà Nẵng
rất thấp.
- Tác động của việc sử dụng dịch vụ logistics thuê
ngoài đến giảm chi phí:
Số lượng các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu
sử dụng các dịch vụ logistics thuê ngoài rất hạn chế,
tuy nhiên để có cái nhìn chính xác hơn tác động của
dịch vụ thuê ngoài như thế nào, nhóm nghiên cứu
cũng đã khảo sát các doanh nghiệp này trong việc
ghi nhận những ý kiến của họ trong việc so sánh
giảm chi phí giữa phương thức tự làm và thuê ngoài.
Kết quả ghi nhận được như sau:
Biểu đồ 3: đánh giá của doanh nghiệp về hiệu
quả của việc sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài
đến giảm chi phí so với tự thực hiện
Nguồn: Điều tra của tác giả (2016)
Biểu đồ 2: mức độ đảm nhận dịch vụ logistics
cơ bản
Nguồn: Điều tra của tác giả (2016)
Liên kết phát triển logistics miền Trung
27Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Mặc dù chưa có điều kiện để tiếp cận với các số
liệu tài chính để đưa ra các phân tích chính xác hơn,
tuy nhiên qua đánh giá của các doanh nghiệp việc
sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài không giúp
doanh nghiệp tiết giảm được chi phí so với tự làm.
Phần đông các doanh nghiệp đều cho rằng sử dụng
dịch vụ thuê ngoài chưa tạo được tác động giảm chi
chí cho doanh nghiệp. Tác động không rõ ràng luôn
được lựa chọn ở mức rất cao, phần lớn trên 63%. Đây
là một kết quả rất đáng suy ngẫm trong việc phát
triển logistics hiện nay tại Đà Nẵng.
- Tác động của việc sử dụng dịch vụ logistics thuê
ngoài đến tăng doanh thu:
Về lý thuyết, với vai trò kết nối giữa yếu tố đầu vào
và đầu ra, dịch vụ logistics có thể là nhân tố cơ bản
tạo định hướng thị trường cho doanh nghiệp. Dịch
vụ logistics được xem như một nhân tố xúc tác, nhân
tố hỗ trợ cho các ý tưởng về chuỗi cung ứng liên chức
năng. Chức năng logistics được đặt ở một vị trí đặc
biệt để chia sẻ và phổ biến các thông tin thị trường
trong toàn hệ thống. Hoạt động logistics có cơ hội
để đánh giá các thông tin thị trường cũng như hỗ
trợ trong việc trao đổi các thông tin đó. Việc sử dụng
các dịch vụ logistics thuê ngoài sẽ góp phần trực tiếp
giúp doanh nghiệp sản xuất thúc đẩy tiêu thụ, giảm
tồn kho. Kết quả điều tra từ các doanh nghiệp về tác
động của sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài đến
việc tăng doanh thu thể hiện trên Biểu đồ 4.
Biểu đồ 4: đánh giá của doanh nghiệp về hiệu
quả việc sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài đến
tăng doanh thu
Nguồn: Điều tra của tác giả (2016)
Nhìn chung sử dụng logistics thuê ngoài chưa cho
thấy tác dụng rõ rệt trong việc tăng doanh thu tiêu
thụ. Có lẽ doanh nghiệp phải sử dụng dịch vụ thuê
ngoài chủ yếu do nguồn lực thực hiện bị hạn chế,
không có điều kiện thực hiện chứ chưa hẳn là do hiệu
quả hơn.
Với một số phân tích nêu trên, có thể rút ra một số
nhận định ban đầu về tác động của logistics đến hiệu
quả của doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu tại Đà
Nẵng như sau:
- Phần lớn các doanh nghiệp tại Đà Nẵng chưa
đánh giá cao, chưa sẵn sàng cho việc sử dụng các
dịch vụ logistics thuê ngoài, tỷ trọng doanh nghiệp
tự thực hiện các dịch vụ vẫn còn rất lớn.
- Dịch vụ logistics chưa chứng tỏ được ưu thế nổi
bật trong việc giúp doanh nghiệp tăng hiệu quả kinh
doanh do việc giảm chi phí và tăng doanh thu tiêu thụ.
- Thị trường logistics tại Đà Nẵng có dung lượng
khá lớn, tuy nhiên mức độ khai thác còn thấp. Điều
này có cả những nguyên nhân về phía cung cấp dịch
vụ và phía sử dụng dịch vụ.
4. nguyên nhân
Để lý giải cho thực trạng nêu trên, có rất nhiều
nguyên nhân cả về phía quản lý nhà nước lẫn phía
các doanh nghiệp. Trong phạm vi bài viết này nhấn
mạnh các nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp cả
về phía cung lẫn phía cầu.
- Nhận thức về logistics của các doanh nghiệp còn
khá đơn giản và chưa đầy đủ: Đây là nguyên nhân đầu
tiên, và là nguyên nhân khá quan trọng. Đối với lãnh
đạo doanh nghiệp, nguyên nhân chủ yếu mà nhiều
doanh nghiệp chưa thấy được tầm quan trọng của
dịch vụ logistics được chia làm 3 nhóm: Một số doanh
nghiệp chưa hiểu rõ về dịch vụ logistics và những lợi
ích do dịch vụ logistics đem lại; Một số doanh nghiệp
cho rằng đây là một dịch vụ còn mới, chưa phổ biến
và chưa có thông tin đầy đủ; Có những doanh nghiệp
còn coi đây là lĩnh vực không liên quan đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình [5].
- Việc chậm thay đổi phương thức cung cấp dịch vụ
logistics trong các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp
sản xuất phát triển và quản lý theo truyền thống, kinh
nghiệm, chưa thường xuyên quan tâm các loại dịch
vụ cả đầu vào và đầu ra, tư tưởng kinh doanh không
theo đúng quy tắc của thị trường còn khá phổ biến
trong các doanh nghiệp. Trên thế giới việc cung ứng
logistics đã được thay thế dần từ 1PL sang 2PL cho
đến nay phổ biến đã là 3PL, thậm chí 4PL, trong khi
đó các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Đà Nẵng
nói riêng vẫn đang hết sức cố thủ ở phương thức 1PL.
Liên kết phát triển logistics miền Trung
28 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
- Thiếu sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp
logistics chuyên nghiệp và các doanh nghiệp chế biến
và xuất khẩu, kinh doanh hàng hóa dịch vụ Nhìn
chung mức độ gắn kết chưa cao được coi là nguyên
nhân quan trọng nhất, điều này làm hạn chế rất lớn
đến việc phát triển thị trường logistics của thành phố.
Trong số các doanh nghiệp đã sử dụng dịch vụ,
phương thức cung ứng chủ yếu là mua dịch vụ theo
từng lô hàng, các hình thức cung ứng thông qua việc
ký kết hợp đồng cung ứng rất ít xuất hiện. Tổ chức
các mối quan hệ kinh tế trong kinh doanh dịch vụ
logistics chưa phát triển, đa số các nhà cung cấp
dịch vụ logistics chưa thiết lập được các mối quan hệ
cung ứng dịch vụ lâu dài, phát triển các loại dịch vụ
logistics chủ yếu trong ngắn hạn, chưa có chiến lược
lâu dài nên các doanh nghiệp có xu hướng thiên về
tự đảm nhiệm các dịch vụ logistics cả đầu vào và đầu
ra, chưa tối ưu hóa khâu vận chuyển vật tư cho sản
xuất và cung ứng sản phẩm cho khách hàng, từ đó đã
làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của chính
doanh nghiệp. Nhìn chung các doanh nghiệp dịch vụ
chuyên nghiệp cũng chưa sẵn sàng cho việc chia sẻ
rủi ro với các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc ký
kết các hợp đồng cung ứng dịch vụ với doanh nghiệp
chế biến.
Các nhà cung cấp logistics và thị trường dịch vụ
logistics chưa thực sự phát triển ngang tầm tiềm
năng và lợi thế của Đà Nẵng, thể hiện sự cung ứng
dịch vụ còn mang tính nhỏ lẻ, số lượng công ty
logistics chuyên nghiệp sử dụng chưa nhiều, chưa
kết nối được chuỗi các dịch vụ logistics trên địa bàn
Đà Nẵng với toàn quốc và với các nước trong khu vực
cũng như thế giới.
- Chủng loại dịch vụ logistics ở Đà Nẵng hạn
chế: Phần lớn các doanh nghiệp chuyên nghiệp về
logistics ở Đà Nẵng mới chỉ dừng lại ở việc cung ứng
những dịch vụ cơ bản: kho vận, vận tải, giao nhận, hải
quan, thiếu vắng những dịch vụ thiên về chiều sâu.
Nhìn chung những loại dịch vụ tương đối chuyên
biệt, đòi hỏi đầu tư nhiều trong nghiên cứu thiết kế,
kết nối các khâu trong chuỗi cung ứng ít được chú
trọng nghiên cứu phát triển. Các doanh nghiệp cung
ứng chưa thực sự chú trọng nghiên cứu khách hàng
để thiết kế các loại dịch vụ theo nhu cầu riêng của
họ. Nhìn chung “Bán những cái mình có” vẫn là tư duy
chủ đạo của việc cung ứng logistics hiện nay. Hiện
nay nhu cầu logistics đầu ra cho các doanh nghiệp
sản xuất khá lớn nhưng ít được chú trọng phát triển.
Điều này cũng làm hạn chế sự gắn kết giữa hai bên
cung và cầu logistics. Các nhà cung cấp logistics và
thị trường dịch vụ logistics chưa thực sự phát triển
ngang tầm tiềm năng và lợi thế của thành phố, thể
hiện sự cung ứng dịch vụ còn mang tính nhỏ lẻ, số
lượng công ty logistics chuyên nghiệp sử dụng chưa
nhiều, chưa kết nối được chuỗi các dịch vụ logistics
của thành phố với toàn quốc và với các nước trong
khu vực cũng như thế giới.
- Chất lượng dịch vụ logistics chưa đáp ứng được
nhu cầu của doanh nghiệp sản xuất: Hiện nay các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics tại Đà Nẵng
được hình thành từ các hãng vận tải trước đây chiếm
tỷ trọng lớn. Quá trình phát triển cũng đã thúc đẩy
các doanh nghiệp đa dạng hóa dịch vụ, tuy nhiên
nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực logistics chưa
đáp ứng kịp. Điều này dẫn đến chất lượng dịch vụ
thấp, cũng chính vì vậy nhiều khi doanh nghiệp tự
làm lại có hiệu quả hơn khi thuê ngoài. Chất lượng
dịch vụ thấp, với nguyên nhân chính là trình độ nhân
lực chưa thích ứng nổi đang là một hạn chế lớn trong
việc tăng cường tác động của logistics đến hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
5. một số đề xuất
Để khắc phục tình trạng trên, tăng cường phát
triển dịch vụ logistics ở Đà Nẵng, từ kết quả nghiên
cứu của bài viết này có thể đề xuất một số kiến nghị
đối với các doanh nghiệp như sau:
- Đối với doanh nghiệp sản xuất: Các doanh nghiệp
sản xuất sử dụng dịch vụ logistics tự đảm nhiệm (1PL)
tức là tự tổ chức hoạt động logistics phục vụ cho
sản xuất của mình chắc chắn đòi hỏi chi phí lớn, dẫn
đến hiệu quả thấp, đặc biệt trong lĩnh vực cung ứng
Liên kết phát triển logistics miền Trung
29Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
nguyên vật liệu và phân phối sản phẩm. Do vậy, ngày
càng có nhiều công ty đa quốc gia chuyển từ tự tổ
chức hoạt động logistics sang thuê dịch vụ logistics
từ các công ty logistics chuyên nghiệp, còn đối với
các công ty vừa và nhỏ việc sử dụng dịch vụ của các
công ty logistics chuyên nghiệp là nhu cầu tất yếu.
Điều này gắn liền với việc phát triển nhận thức, nâng
cao trình độ tổ chức và quản trị của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp phải tự thay đổi cho phù hợp với
quy luật chung, không ai có thể tác động được.
- Đối với doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics:
+ Phải luôn phấn đấu nâng cao chất lượng dịch
vụ cung ứng, giảm chi phí logistics cho các doanh
nghiệp, tạo mối quan hệ chặt chẽ, lâu bền hơn với
khách hàng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp
logistics phải luôn giữ chữ tín trong cung ứng các
dịch vụ bằng chất lượng cao và giá rẻ hơn, chi phí
logistics thấp hơn, tư vấn cho khách hàng những giải
pháp tốt hơn trong hoạt động kinh doanh. Hiện nay,
các doanh nghiệp logistics ở Đà Nẵng đều mới chỉ
có lợi thế cạnh tranh giá rẻ mà chưa chú trọng đến
dịch vụ giá trị gia tăng cũng như kiến thức tư vấn cho
khách hàng về quản trị logistics.
+ Chú trọng đa dạng hóa các loại hình dịch vụ,
phát triển các dịch vụ giá trị gia tăng cung cấp cho
các doanh nghiệp để tiến tới phát triển toàn diện
dịch vụ logistics. Tổ chức tốt các dịch vụ cung ứng
cho khách hàng, nhất là các dịch vụ tiếp tục quá trình
sản xuất trong khâu lưu thông gia tăng giá trị sẽ giúp
các doanh nghiệp tiết giảm kho bãi, nhân sự, phương
tiện vận chuyển trong các công đoạn của dòng chu
chuyển hàng hóa, sản xuất được rút ngắn, sản phẩm
nhanh chóng có mặt trên thị trường, đáp ứng được ý
tưởng kinh doanh hiện đại “đúng thời điểm”.
6. kết luận
Phát triển logistics là một vấn đề rất lớn, mang tính
liên ngành rất cao, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế hết sức sâu, tiến bộ khoa học và công
nghệ, đặc biệt là trong công nghệ thông tin và công
nghệ vận tải như hiện nay. Trong khuôn khổ bài viết
này, bằng cách khảo sát các doanh nghiệp chế biến
về tác động của logistics đến hiệu quả kinh doanh
của họ đã cho thấy khá nhiều vấn đề: nhận thức và
phương thức cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp
rất lạc hậu, sự liên kết giữa doanh nghiệp cung ứng và
sử dụng dịch vụ chưa hình thành, tác động của việc
sử dụng dịch vụ thuê ngoài trong việc nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp chưa rõ nét, chưa
chứng tỏ được ưu việt hơn so với phương thức tự làm,
chủng loại dịch vụ còn đơn giản, nặng về các dịch vụ
truyền thống và rất ít các dịch vụ giá trị gia tăng Bài
viết cũng đã đề xuất một số kiến nghị ban đầu cho các
doanh nghiệp kể, cả doanh nghiệp cung ứng và doanh
nghiệp sử dụng dịch vụ nhằm cải thiện tình hình.
n.t.s. - t.n.t.m.
tÀi liỆu tham khẢo
1. Lê Công Hoa. 2013. Giáo trình Quản trị hậu cần
(Logistics management). Hà Nội: Đại học Kinh tế Quốc dân.
2. Đặng Đình Đào, Nguyễn Minh Sơn. 2012. Phát triển
dịch vụ logistics ở nước ta trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
3. Nguyễn Xuân Hảo, Nguyễn Đức Diệp, Lê Công Hội.
2013. “Một số giải pháp phát triển dịch vụ logistics của các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh”. Kỷ yếu Hội thảo quốc
tế Phát triển hệ thống logistics của Việt Nam theo hướng bền
vững. Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển - Đại học Kinh
tế Quốc dân. Hà Nội: Lao động - Xã hội. 265 - 270.
4. Nguyễn Xuân Hảo. 2011. “Nhận diện các nhân tố cơ
bản ảnh hưởng đến sự phát triển của các dịch vụ logistics ở
nước ta”. Kỷ yếu hội thảo khoa học của đề tài độc lập cấp Nhà
nước - ĐTĐL 2010 T/33: Khả năng và giải pháp phát triển dịch
vụ logistics của Việt Nam trong điều kiện mở cửa thị trường
dịch vụ. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
291 - 304.
5. Nguyễn Xuân Hảo. 2015. “Phát triển dịch vụ logistics
nhằm nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp Quảng
Bình”. Kinh tế và Dự báo. Số 02. 59 - 61.
6. Nguyễn Trường Sơn. 2014. Phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Hà Nội:
Chính trị Quốc gia.
7. Nguyễn Trường Sơn. 2013. “Phát triển công nghiệp
hỗ trợ tại Quảng Ngãi”. Đề tài nghiên cứu khoa học công
nghệ cấp tỉnh.
8. Nguyễn Trường Sơn. 2015. “Phát triển liên kết trong
chuỗi cung ứng sản xuất xuất khẩu nông sản tại miền
Trung và Tây Nguyên”. Chuyên đề nghiên cứu thuộc đề tài
cấp tỉnh, tỉnh Đắk Nông.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_tac_dong_cua_dich_vu_logistics_den_hoat_dong_cua_cac_doan.pdf