Mục lục:
A PHẦN MỞ ĐẦU 4
B NỘI DUNG 5
1. Khái niệm đạo đức kinh doanh 5
2. Sự thành công của doanh nghiệp phụ thuộc vào đạo đức kinh doanh của chính họ 8
2.1 Đạo đức kinh doanh góp phần vào chất lượng của doanh nghiệp 9
2.2 Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết và tận tâm của nhân viên 12
2.3 Đạo đức kinh doanh góp phần làm hài lòng khách hàng 13
2.4 Đạo đức kinh doanh góp phần tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp 15
2.5 Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của nền kinh tế quốc gia 16
3. Thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam 18
3.1 Nhận thức của người Việt Nam về đạo đức kinh doanh 19
3.2 Trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội. 20
3.3 Vấn đề sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. 20
3.4 Nghĩa vụ và trách nhiệm đạo đức của doanh nghiệp đối với các nhà đầu tư. 21
3.5 Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động 21
4. Một số đề xuất nhằm phát triển và hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam 22
4.1 cần nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện khung luật pháp Việt nam nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho đạo đức kinh doanh 23
4.2 Cần nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam 23
4.3 Cần có những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh của mình24
C. KẾT LUẬN 25
A PHẦN MỞ ĐẦU
Vấn đề Đạo đức đã được con người nghiên cứu từ rất lâu. Nó gắn liền với cuộc sống, nó có mặt trong tất cả các hoạt động của con người. các vấn đề về đạo đức không được qui định rõ trong một bộ luật cụ thể nào nhưng con người xem nó như những chuẩn mực chung, những qui tắc xử sự chung của toàn xã hội. Bắt đầu từ khi xuất hiện sự trao đổi hàng hóa, thì mối quan hệ giữa con người trở nên phức tạp hơn. Đạo đức xã hội nói chung không đủ để giải thích những hiện tượng phức tạp nay sinh trong những mối quan hệ mới này, và cần có thêm những qui tắc ứng xử mới phù hợp để hướng dẫn hành vi con người trong mối quan hệ mới, khi đó một ngành khoa học mới xuất hiện đó là đạo đức kinh doanh.
Giữa vấn đề “kinh doanh” và “đạo đức” tuy có sự đối lập và mâu thuẫn lẫn nhau về lợi ích của từng chủ thể có liên quan trong việc kinh doanh của doanh nghiệp như giữa nhà kinh doanh với người tiêu dùng, người lao động, đối tác của họ, môi trường sống nơi họ thực hiện kinh doanh song bên cạnh đó đạo đức kinh doanh ngày nay được coi là yếu tố hàng đầu gắng liền với sự thành công về lâu về dài của doanh nghiệp. Để làm sáng tỏ vấn đề trên, chúng tôi những thành viên của nhóm 6, lớp cao học ngày 1 khóa 19 trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện tiểu luận với đề tài: “Sự thành công của doanh nghiệp phụ thuộc vào đạo đức kinh doanh của chính họ”
Đây là một đề tài tương đối mới mẻ, nghiên cứu một trong những yếu tố thành công của doanh nghiệp cũng như nhận thức về đạo đức trong kinh doanh của người Việt Nam. Vì vậy, với khả năng hiểu biết còn hạn chế của chúng tôi nên trong phần trình bày sẽ còn nhiều khiếm khuyết về nội dung, qua đó kính mong sự góp ý của quý thầy, cô và các bạn học viên cao học lớp ngày 1 khóa 19 Đại học kinh tế Tp Hồ Chí Minh, đặc biệc là ý kiến của cô Phan Thị Minh Châu giảng viên hướng dẫn trực tiếp bộ môn Quản trị học để nhóm 6 chúng em hoàn thiện nội dung đề tài này.
26 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 6180 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự thành công của doanh nghiệp phụ thuộc vào đạo đức kinh doanh của chính họ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghiên cứu từ rất lâu. Nó gắn liền với cuộc sống, nó có mặt trong tất cả các hoạt động của con người. các vấn đề về đạo đức không được qui định rõ trong một bộ luật cụ thể nào nhưng con người xem nó như những chuẩn mực chung, những qui tắc xử sự chung của toàn xã hội. Bắt đầu từ khi xuất hiện sự trao đổi hàng hóa, thì mối quan hệ giữa con người trở nên phức tạp hơn. Đạo đức xã hội nói chung không đủ để giải thích những hiện tượng phức tạp nay sinh trong những mối quan hệ mới này, và cần có thêm những qui tắc ứng xử mới phù hợp để hướng dẫn hành vi con người trong mối quan hệ mới, khi đó một ngành khoa học mới xuất hiện đó là đạo đức kinh doanh.
Giữa vấn đề “kinh doanh” và “đạo đức” tuy có sự đối lập và mâu thuẫn lẫn nhau về lợi ích của từng chủ thể có liên quan trong việc kinh doanh của doanh nghiệp như giữa nhà kinh doanh với người tiêu dùng, người lao động, đối tác của họ, môi trường sống nơi họ thực hiện kinh doanh… song bên cạnh đó đạo đức kinh doanh ngày nay được coi là yếu tố hàng đầu gắng liền với sự thành công về lâu về dài của doanh nghiệp. Để làm sáng tỏ vấn đề trên, chúng tôi những thành viên của nhóm 6, lớp cao học ngày 1 khóa 19 trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện tiểu luận với đề tài: “Sự thành công của doanh nghiệp phụ thuộc vào đạo đức kinh doanh của chính họ”
Đây là một đề tài tương đối mới mẻ, nghiên cứu một trong những yếu tố thành công của doanh nghiệp cũng như nhận thức về đạo đức trong kinh doanh của người Việt Nam. Vì vậy, với khả năng hiểu biết còn hạn chế của chúng tôi nên trong phần trình bày sẽ còn nhiều khiếm khuyết về nội dung, qua đó kính mong sự góp ý của quý thầy, cô và các bạn học viên cao học lớp ngày 1 khóa 19 Đại học kinh tế Tp Hồ Chí Minh, đặc biệc là ý kiến của cô Phan Thị Minh Châu giảng viên hướng dẫn trực tiếp bộ môn Quản trị học để nhóm 6 chúng em hoàn thiện nội dung đề tài này.
B NỘI DUNG
1.Khái niệm đạo đức kinh doanh:
Nghiên cứu về đạo đức là một truyền thống lâu đời trong xã hội loài người, bắt nguồn từ những niềm tin về tôn giáo, văn hóa và tư tưởng triết học. Đạo đức liên quan tới những cam kết về luân lý, trách nhiệm và công bằng xã hội. Đạo đức trong tiếng Anh là ethics, từ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ethiko và ethos, nghĩa là phong tục hoặc tập quán.
Như Aristoteles đã nói, khái niệm trên bao gồm ý tưởng cả về tính chất và cách áp dụng. Vì vậy, đạo đức phản ánh tính cách của cá nhân và trong thời đại ngày nay thì có thể nói lên cả tính chất của một doanh nghiệp, vì doanh nghiệp chính là tập hợp của các cá nhân.
Đạo đức kinh doanh là một khái niệm không cũ mà cũng không mới. Với tư cách là một khía cạnh luân lý trong hoạt động thương mại, đạo đức kinh doanh đã lâu đời như chính thương mại vậy. Trong bộ luật Hammurabi từ khoảng 1700 TCN, đã có quy định về giá cả, thuế quan, cách thức hoạt động thương mại và cả hình phạt hà khắc cho những kẻ không tuân thủ. Đó có thể được coi là bằng chứng cho sự nỗ lực đầu tiên của xã hội loài người để phân định ranh giới đạo đức cho các hoạt động kinh doanh. Trong tác phẩm “Politics” (ra đời vào khoảng năm 300 TCN), Aristoteles đã chỉ ra rõ ràng những mối liên hệ thương mại khi bàn về quản lý gia đình. Giáo lý của cả đạo Do Thái và Thiên Chúa giáo, ví dụ như trong Talmud (năm 200 sau Công nguyên) và Mười điều răn (Exodus 20:2 - 17; Deuteronomy 5:6 - 21), đều đã đưa ra những quy tắc đạo đức được áp dụng trong hoạt động thương mại.
Tuy nhiên, với tư cách là một khái niệm mang tính hàn lâm, đạo đức kinh doanh cũng mới chỉ tồn tại được khoảng bốn chục năm trở lại đây. Nhà nghiên cứu đạo đức kinh doanh nổi tiếng Norman Bowie là người đầu tiên đã đưa ra khái niệm này trong một Hội nghị Khoa học vào năm 1974. Kể từ đó, đạo đức kinh doanh đã trở thành một chủ đề phổ biến trong các cuộc tranh luận của các lãnh đạo trong giới kinh doanh, người lao động, các cổ đông, người tiêu dùng cũng như các giáo sư đại học ở Mỹ, và từ đó lan ra toàn thế giới.
Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà nghiên cứu, các tác giả và diễn giả đều có chung quan điểm về đạo đức kinh doanh. Trước hết, giữa kinh doanh và đạo đức luôn có sự mâu thuẫn. Một mặt, xã hội luôn mong muốn các công ty tạo ra nhiều việc làm lương cao, nhưng mặt khác, những công ty này lại mong muốn giảm bớt chi phí và nâng cao năng suất lao động. Người tiêu dùng luôn mong muốn mua hàng với giá thấp nhất còn các cơ sở thương mại lại muốn có lãi suất cao nhất. Xã hội mong muốn giảm ô nhiễm môi trường, còn các công ty lại muốn giảm tối đa chi phí phát sinh khi tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất của họ. Chính từ đó đã nảy sinh xung đột không thể tránh khỏi trong quan niệm về đạo đức kinh doanh, do khác biệt về lợi ích của công ty với lợi ích của người lao động, người tiêu dùng và toàn thể xã hội. Vì tất cả những điều đối lập nói trên là tất yếu nên các nhà quản lý buộc phải làm sao để cân bằng lợi ích của công ty với lợi ích của các cổ đông (shareholders) và những người có quyền lợi liên quan (stakeholders), bao gồm nhân viên, khách hàng và toàn thể cộng đồng.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều khái niệm về đạo đức kinh doanh, trong đó khái niệm sau có thể được coi là đơn giản nhất: Đạo đức kinh doanh là những nguyên tắc được chấp nhận để phân định đúng sai, nhằm điều chỉnh hành vi của các nhà kinh doanh. Định nghĩa này khá chung chung, vì thế cũng bỏ qua nhiều nhân tố quan trọng, ví dụ như: những loại hành vi nào những nguyên tắc đạo đức có thể điều chỉnh; Hay những ai có thể được coi là “nhà kinh doanh” và hành vi của họ cần được điều chỉnh như thế nào?
Ý thức được sự phức tạp của vấn đề, giáo sư Phillip V. Lewis từ trường Đại học Abilene Christian, Hoa Kỳ đã tiến hành điều tra và thu thập được 185 định nghĩa được đưa ra trong các sách giáo khoa và các bài nghiên cứu từ năm 1961 đến 1981 để tìm ra “đạo đức kinh doanh” được định nghĩa ra sao trong các tài liệu nghiên cứu và trong ý thức của các nhà kinh doanh. Sau khi tìm ra những điểm chung của các khái niệm trên, ông tổng hợp lại và đưa ra khái niệm về đạo dức kinh doanh như sau:“ Đạo đức kinh doanh là tất cả những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ để cung cấp chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ chức) trong những trường hợp nhất định”.
Như vậy, theo khái niệm này, đạo đức kinh doanh bao gồm những vấn đề sau: Quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc các luật lệ được đưa ra để thực hiện nhằm ngăn chặn các hành vi sai nguyên tắc đạo đức.Ví dụ như: Nếu Luật Lao động của một quốc gia quy định phụ nữ có quyền ngang với đàn ông trong công việc, sẽ có thể ngăn chặn sự phân biệt giới tính của những người thuê lao động khi tuyển dụng. Hành vi đúng với đạo đức - hành vi cá nhân phù hợp với lẽ công bằng, luật pháp và các tiêu chuẩn khác; hành vi cá nhân phải đúng với thực tiễn, hợp lý và trung thực. Một người làm kinh doanh luôn phải lưu ý là mọi người đều phải có trách nhiệm với những hậu quả xuất phát từ hành vi của mình. Nghĩa là, người đó không được phép làm bất kỳ điều gì có thể khiến hình ảnh của họ bị lung lay.
Sự trung thực - mỗi câu nói, mỗi hành động của họ đều phải mang tính thực tế hoặc thể hiện sự thật. Có thể đưa ra ví dụ, như “Lời mở đầu của những quy tắc trong xã hội của các nhà báo chuyên nghiệp” có ghi: “Chúng ta tin vào sự khai sáng xã hội như một người tiên phong của công lý, cũng như tin vào vai trò của Hiến pháp trong tìm ra sự thật vì một phần quyền lợi của xã hội là được biết sự thật.”
Điều khó khăn nhất trong nghiên cứu đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng, chính là xác định cái gì đúng và cái gì sai. Điều được coi là đúng đắn về mặt đạo lý với người này có thể không đúng với người khác; những điều hôm nay còn đúng thì mai đã thành sai. Lewis đã đặt tên nó là “Trường hợp đặc trưng - những tình huống mà sự lúng túng trong suy xét đạo lý cá nhân cần đến phán quyết mang tính đạo đức”. Ví dụ: Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ thông qua nguyên tắc hoạt động khách quan của họ là “phục vụ nhân loại với toàn thể sự tôn trọng phẩm cách con người”. Những bác sĩ điều trị phải quan tâm đến “không chỉ cá nhân người bệnh mà còn đến toàn xã hội”. Như vậy, bất kỳ hành vi nào không vì “mục đích nâng cao sức khỏe và hạnh phúc của cá nhân và cộng đồng” sẽ được coi là phi đạo đức.
Ferrels và John Fraedrich có một cách định nghĩa khác về đạo đức kinh doanh: theo đó “Đạo đức kinh doanh bao gồm những nguyên tắc cơ bản và tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi trong thế giới kinh doanh. Tuy nhiên, việc đánh giá một hành vi cụ thể là đúng hay sai, phù hợp với đạo đức hay không sẽ được quyết định bởi nhà đầu tư, nhân viên, khách hàng, các nhóm có quyền lợi liên quan, hệ thống pháp lý cũng như cộng đồng”.
Vì định nghĩa này có nhiều phần trùng với định nghĩa của Lewis nhưng lại thể hiện rõ ràng hơn những người có liên quan đến đạo đức kinh doanh, nên sẽ được sử dụng trong bài viết này. Theo định nghĩa này, đạo đức kinh doanh có rất nhiều điểm chung với sự tuân thủ luật pháp, trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội, những vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ về mặt đạo lý giữa công ty với cổ đông: như trách nhiệm ủy thác, so sánh khái niệm cổ đông (shareholders) với khái niệm người có chung quyền lợi (stakeholders)…Điều này có nghĩa là đạo đức kinh doanh không chỉ bao gồm việc tuân thủ pháp luật mà còn quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi cho những người có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp và quyền lợi của cộng đồng.
2. Sự thành công của doanh nghiệp phụ thuộc vào đạo đức kinh doanh của chính họ
Lợi nhuận là một trong những yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của một doanh nghiệp và là cơ sở đánh giá khả năng duy trì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu người quản lý doanh nghiệp hiểu sai bản chất của lợi nhuận và coi đấy là mục tiêu chính và duy nhất của hoạt động kinh doanh thì sự tồn tại của doanh nghiệp có thể bị đe doạ. Tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh đối với một tổ chức là một vấn đề gây tranh cãi với rất nhiều quan điểm khác nhau. Nhiều giám đốc doanh nghiệp coi các chương trình đạo đức là một hoạt động xa xỉ mà chỉ mang lại lợi ích cho xã hội chứ không phải doanh nghiệp. Vai trò của sự quan tâm đến đạo đức trong các mối quan hệ kinh doanh tiếp tục bị hiểu lầm. Chúng ta sẽ xem xét ở các nội dung dưới đây về vai trò của đạo đức kinh doanh trong hoạt động quản trị doanh nghiệp.
Hình 1: Vai trò của đạo đức tổ chức trong hoạt động kinh doanh
Sự tồn vong của doanh nghiệp không chỉ đến từ chất lượng của bản thân các sản phẩm - dịch vụ cung ứng mà còn chủ yếu đến từ phong cách kinh doanh của doanh nghiệp. Hành vi kinh doanh thể hiện tư cách của doanh nghiệp, và chính tư cách ấy tác động trực tiếp đến sự thành bại của tổ chức. Đạo đức kinh doanh, trong chiều hướng ấy, trở thành một nhân tố chiến lược trong việc phát triển doanh nghiệp. Chẳng phải vô cớ mà khoảng 15 năm nay một ngạn ngữ ấn Độ được lưu truyền trong giới doanh nghiệp ở các nước phát triển: “Gieo tư tưởng gặt hành vi, gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tư cách, gieo tư cách gặt số phận”.
2.1 Đạo đức kinh doanh góp phần vào chất lượng của doanh nghiệp
Phần thưởng cho một công ty có quan tâm đến đạo đức là được các nhân viên, khách hàng và công luận công nhận là có đạo đức. Phần thưởng cho trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm xã hội trong các quyết định kinh doanh bao gồm hiệu quả trong các hoạt động hàng ngày tăng cao, sự tận tâm của các nhân viên, chất lượng sản phẩm được cải thiện, đưa quyết định đúng đắn hơn, sự trung thành của khách hàng, và lợi ích về kinh tế lớn hơn. Các tổ chức phát triển được một môi trường trung thực và công bằng sẽ
gây dựng được nguồn lực đáng quý có thể mở rộng cánh cửa dẫn đến thành công.
Các tổ chức được xem là có đạo đức thường có nền tảng là các khách hàng trung thành cũng như đội ngũ nhân viên vững mạnh, bởi sự tin tưởng và phụ thuộc lẫn nhau trong mối quan hệ. Nếu các nhân viên hài lòng thì khách hàng sẽ hài lòng; và nếu khách hàng hài lòng thì các nhà đầu tư sẽ hài lòng. Các khách hàng có xu hướng thích mua hàng của các công ty liêm chính hơn, đặc biệt là khi giá cả của công ty đó cũng bằng với giá của các công ty đối thủ. Khi các nhân viên cho rằng tổ chức của mình có một môi trường đạo đức, họ sẽ tận tâm hơn và hài lòng với công việc của mình hơn. Các công ty cung ứng thường muốn làm ăn lâu dài với các công ty mà họ tin tưởng để qua hợp tác họ có thể xoá bỏ được sự không hiệu quả, các chi phí và những nguy cơ để có thể làm hài lòng khách hàng. Các nhà đầu tư cũng rất quan tâm đến vấn đề đạo đức, trách nhiệm xã hội và uy tín của các công ty mà họ đầu tư, và các công ty quản lí tài sản có thể giúp các nhà đầu tư mua cổ phiếu của các công ty có đạo đức. Các nhà đầu tư nhận ra rằng một môi trường đạo đức là nền tảng cho sự hiệu quả, năng suất, và lợi nhuận. Mặt khác, các nhà đầu tư cũng biết rằng các hình phạt hay công luận tiêu cực cũng có thể làm giảm giá cổ phiếu, giảm sự trung thành của khách hàng và đe doạ hình ảnh lâu dài của công ty. Các vấn đề về pháp lí và công luận tiêu cực có những tác động rất xấu tới sự thành công của bất cứ một công ty nào.
Sự lãnh đạo cũng có thể mang lại các giá trị tổ chức và mạng lưới xã hội ủng hộ các hành vi đạo đức. Các nhà lãnh đạo nhận thức được bản chất của mối quan hệ trong kinh doanh, những vấn đề và mâu thuẫn tiềm ẩn, tìm ra biện pháp quản lý khắc phục những trở ngại có thể dẫn đến bất đồng, tạo dựng bầu không khí làm việc thuận lợi cho mọi người hoà đồng, tìm ra được một hướng chung tạo ra sức mạnh tổng hợp của sự đồng thuận, đóng góp cho sự phát triển của tổ chức. Sự lãnh đạo chú trọng vào việc xây dựng các giá trị đạo đức tổ chức vững mạnh cho các nhân viên sẽ tạo ra sự đồng thuận về chuẩn tắc đạo đức và các đặc điểm của những mối quan hệ chung. Các lãnh đạo ở địa vị cao trong tổ chức đóng một vai trò chủ chốt trong việc truyền bá các tiêu chuẩn đạo đức, các chuẩn tắc và quy định đạo đức nghề nghiệp. Sự cần thiết có sự lãnh đạo có đạo đức để cung cấp cơ cấu cho các giá trị của tổ chức và những ngăn cản đối với các hành vi vô đạo đức đã được làm rõ trong nghiên cứu trước. Các nhà lãnh đạo có thể cung cấp cơ cấu này bằng cách thiết lập các chương trình đào tạo đạo đức chính thức và không chính thức, cũng như các hướng dẫn khác, giúp các nhân viên phải lưu tâm đến khía cạnh đạo đức trong quá trình đưa ra quyết định của mình.
Nhận thức của các nhân viên về công ty của mình là có một môi trường đạo đức sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp trong hoạt động của tổ chức. Xét về khía cạnh năng suất và làm việc theo nhóm, các nhân viên trong các phòng ban khác nhau cũng như giữa các phòng ban cần thiết có chung một cái nhìn về sự tin tưởng. Mức độ tin tưởng cao hơn có ảnh hưởng lớn nhất lên các mối quan hệ trong nội bộ các phòng ban hay các nhóm làm việc, nhưng tin tưởng cũng là một nhân tố quan trọng trong các mối quan hệ giữa các phòng ban trong tổ chức. Bởi vậy, các chương trình tạo ra một môi trường lao động có lòng tin sẽ làm cho các nhân viên sẵn sàng hành động theo các quyết định và hành động của các đồng nghiệp. Trong một môi trường làm việc như thế này, các nhân viên có thể mong muốn được các đồng nghiệp và cấp trên đối xử với mình với một sự tôn trọng và quan tâm sâu sắc. Các mối quan hệ có lòng tin trong một tổ chức giữa các giám đốc và cấp dưới của họ và ban quản lí cấp cao góp phần vào hiệu quả của quá trình đưa quyết định.
Hầu hết các công ty đáng ngưỡng mộ nhất trên thế giới đều chú trọng vào phương pháp làm việc theo nhóm, quan tâm nhiều đến khách hàng, đề cao việc đối xử công bằng với nhân viên, và thưởng cho các thành tích tốt, cũng như công cuộc đổi mới.
Minh họa 2.1: Nếu ai quan tâm đến thị trường xe hơi, hẳn sẽ rất biết chuyện hãng ôtô hàng đầu thế giớ Toyota đã thu hồi hơn 8 triệu chiếc xe đã bán trên toàn cầu. nguyên nhân do thảm trải sàn xe thiếu an toàn, có thể chèn vào chân ga, dẫn đến nguy cơ gây tai nạn khi xe tăng tốc ngoài ý muốn. họ thu hồi để sửa chữa. Sau đó, khách hàng sẽ được hẹn ngày "mời" đến lấy xe.
Mỗi đợt thu hồi như thế, tiêu tốn của các công ty này không biết bao nhiêu tiền của. Nhưng họ vẫn làm, vì chữ TÍN. Nếu như một hãng ôtô nào đó, để xảy ra lỗi mà không xử lý theo phương cách như vừa kể trên, chắc chắn, khi thay đổi xe, khách hàng sẽ tìm đến một hãng xe hơi khác.
2.2 Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết và tận tâm của nhân viên
Sự tận tâm của nhân viên xuất phát từ việc các nhân viên tin rằng tương lai của họ gắn liền với tương lai của doanh nghiệp và chính vì thế họ sẵn sàng hy sinh cá nhân vì tổ chức của mình. Doanh nghiệp càng quan tâm đến nhân viên bao nhiêu thì các nhân viên càng tận tâm với doanh nghiệp bấy nhiêu. Các vấn đề có ảnh hưởng đến sự phát triển của một môi trường đạo đức cho nhân viên bao gồm một môi trường lao động an toàn, thù lao thích đáng, và thực hiện đầy đủ các trách nhiệm được ghi trong hợp đồng với tất cả các nhân viên. Các chương trình cải thiện môi trường đạo đức có thể là chương trình “gia đình và công việc” hoặc chia/bán cổ phần cho nhân viên. Các hoạt động từ thiện hoặc trợ giúp cộng đồng không chỉ tạo ra suy nghĩ tích cực của chính nhân viên về bản thân họ và doanh nghiệp mà còn tạo ra sự trung thành của nhân viên đối với doanh nghiệp.
Sự cam kết làm các điều thiện và tôn trọng nhân viên thường tăng sự trung thành của nhân viên đối với tổ chức và sự ủng hộ của họ với các mục tiêu của tổ chức. Các nhân viên sẽ dành hầu hết thời gian của họ tại nơi làm việc chứ không chây ì, “chỉ làm cho xong công việc mà không có nhiệt huyết” hoặc làm việc “qua ngày đoạn tháng”, không tận tâm đối với những mục tiêu đề ra của tổ chức bởi vì họ cảm thấy mình không được đối xử công bằng.
Môi trường đạo đức tổ chức rất quan trọng đối với các nhân viên. Đa số nhân viên tin rằng hình ảnh của một công ty đối với cộng đồng là vô cùng quan trọng, các nhân viên thấy công ty của mình tham gia tích cực vào các công tác cộng đồng sẽ cảm thấy trung thành hơn với cấp trên và cảm thấy tích cực về bản thân họ. Khi các nhân viên cảm thấy môi trường đạo đức trong tổ chức có tiến bộ, họ sẽ tận tâm hơn để đạt được các tiêu chuẩn đạo đức cao trong các hoạt động hàng ngày. Các nhân viên sẵn lòng thảo luận các vấn đề đạo đức và ủng hộ các ý kiến nâng cao chất lượng trong công ty nếu công ty đó cam kết sẽ thực hiện các quy định đạo đức. Thực chất, những người được làm việc trong một môi trường đạo đức tin rằng họ sẽ phải tôn trọng tất cả các đối tác kinh doanh của mình, không kể những đối tác ấy ở bên trong hay bên ngoài công ty. Họ cần phải cung cấp những giá trị tốt nhất có thể cho tất cả các khách hàng và các cổ đông.
Cam kết của nhân viên đối với chất lượng của công ty có tác động tích cực đến vị thế cạnh tranh của công ty nên một môi trường làm việc có đạo đức có tác dụng tích cực đến các điểm mấu chốt về tài chính. Bởi chất lượng những dịch vụ phục vụ khách hàng tác động đến sự hài lòng của khách hàng, nên những cải thiện trong các dịch vụ phục vụ khách cũng sẽ có tác động trực tiếp lên hình ảnh của công ty, cũng như khả năng thu hút các khách hàng mới của công ty.
Minh họa 2.2: Nokia sẽ cố gắng thanh toán tiền lương công bằng và cung cấp một môi trường làm việc an toàn và khỏe mạnh cho nhân viên. Nokia cam kết mang lại sự bình đẳng về cơ hội trong mọi hoạt động, chính sách và thủ tục tuyển dụng của mình. Khi các yêu cầu công việc được đáp ứng, không có nhân viên hoặc nhân viên thử việc nào nhận được sự đối xử ít ưu tiên hơn vì bất kỳ lý do gì. Nokia sẽ không sử dụng trẻ em hoặc lao động cưỡng bức. Nokia sẽ không khoan dung việc đối xử hoặc những điều kiện làm việc trái với các hiệp định và thông lệ quốc tế. Nokia sẽ tiếp tục đầu tư vào đào tạo và phát triển cá nhân và nghề nghiệp của các nhân viên Nokia. Nokia sẽ khuyến khích nhân viên của mình sống đời sống cân bằng cá nhân và nghề nghiệp. Với chế độ đãi ngộ tốt đối với nhân viêncủa Nokia đã làm cho nhân viên tin rằng tương lai của họ gắn liền với tương lai của công ty và chính vì thế họ sẵn sàng hy sinh cá nhân vì tổ chức của mình. Vì vậy thị phần của Nokia đã tăng từ 37% quý IV/08 lên 39% quý IV/09
2.3 Đạo đức kinh doanh góp phần làm hài lòng khách hàng
Các nghiên cứu và kinh nghiệm hiện thời của nhiều quốc gia cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa hành vi có đạo đức và sự hài lòng của khách hàng. Các hành vi vô đạo đức có thể làm giảm lòng trung thành của khách hàng và khách hàng sẽ chuyển sang mua hàng của các thương hiệu khác, ngược lại hành vi đạo đức có thể lôi cuốn khách hàng đến với sản phẩm của công ty. Các khách hàng thích mua sản phẩm của các công ty có danh tiếng tốt, quan tâm đến khách hàng và xã hội. Khách hàng nói rằng họ ưu tiên những thương hiệu nào làm điều thiện nếu giá cả và chất lượng các thương hiệu như nhau. Các công ty có đạo đức luôn đối xử với khách hàng công bằng và liên tục cải tiến chất lượng sản phẩm, cũng như cung cấp cho khách hàng các thông tin dễ tiếp cận và dễ hiểu, sẽ có lợi thế cạnh tranh tốt hơn và dành được nhiều lợi nhuận hơn. Điểm mấu chốt ở đây là chi phí để phát triển một môi trường đạo đức có thể có một phần thưởng là sự trung thành của khách hàng ngày càng tăng.
Đối với các doanh nghiệp thành công nhất thu được những lợi nhuận lâu dài thì việc phát triển mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau và hợp tác cùng nhau với khách hàng là chìa khoá mở cánh cửa thành công. Bằng việc chú trọng vào sự hài lòng của khách hàng, doanh nghiệp đó tiếp tục làm cho sự phụ thuộc của khách hàng vào công ty ngày càng sâu sắc hơn, và khi niềm tin của khách hàng tăng lên thì doanh nghiệp ấy sẽ có tầm hiểu biết sâu hơn về việc làm thế nào phục vụ khách hàng để phát triển mối quan hệ đó. Các doanh nghiệp thành công mang lại cho khách hàng các cơ hội góp ý kiến phản hồi, cho phép khách hàng được tham gia vào quá trình giải quyết các rắc rối. Một khách hàng cảm thấy vừa lòng sẽ quay lại nhưng một khách hàng không vừa ý sẽ nói cho 10 người khác về việc họ không hài lòng với một công ty nào đó và bảo bạn bè họ tẩy chay công ty đó.
Các khách hàng là đối tượng dễ bị tổn thương nhất vì việc khai thác và hoạt động của các công ty không tôn trọng các quyền của con người. Sự công bằng trong dịch vụ là quan điểm của khách hàng về mức độ công bằng trong hành vi của một công ty. Bởi vậy, khi nghe được thông tin tăng giá dịch vụ thêm và không bảo hành thì các khách hàng sẽ phản ứng tiêu cực đối với sự bất công này. Phản ứng của khách hàng đối với sự bất công - ví dụ như phàn nàn hoặc từ chối không mua bán với doanh nghiệp đó nữa - có thể được thúc đẩy bởi nhu cầu trừng phạt và mong muốn hạn chế sự bất công trong tương lai. Nếu khách hàng phải mua một mặt hàng đắt hơn hẳn thì cảm giác không công bằng sẽ tăng lên và có thể bùng nổ thành một sự giận dữ.
Một môi trường đạo đức vững mạnh thường chú trọng vào các giá trị cốt lõi đặt các lợi ích của khách hàng lên trên hết. Đặt lợi ích của khách lên trên hết không có nghĩa là phớt lờ lợi ích của nhân viên, các nhà đầu tư, và cộng đồng địa phương. Tuy nhiên một môi trường đạo đức chú trọng đến khách hàng sẽ kết hợp được những lợi ích của tất cả các cổ đông trong các quyết định và hoạt động. Những nhân viên được làm việc trong môi trường đạo đức sẽ ủng hộ và đóng góp vào sự hiểu biết về các yêu cầu và mối quan tâm của khách hàng. Các hành động đạo đức hướng tới khách hàng xây dựng được vị thế cạnh tranh vững mạnh có tác dụng tích cực đến thành tích của doanh nghiệp và công tác đổi mới sản phẩm.
Minh họa 2.3 : Tầm nhìn FPT (Điều lệ FPT 1988)
* Làm khách hàng hài lòng: Tận tụy với khách hàng và luôn phấn đấu để đáp ứng tốt nhất những nhu cầu, vượt trên mong đợi của họ.
* Đề cao đạo đức kinh doanh: Mỗi nhân viên là một đại diện của Công ty, có nghĩa vụ tuân thủ đạo đức kinh doanh cao nhất, luôn hợp tác, cởi mở và thân thiện với đồng nghiệp, đóng góp cho cộng đồng và xã hội…”
* Kết thúc năm tài chính 2009, với những nỗ lực trong kinh doanh, quản trị, doanh số toàn tập đoàn đạt mức 18.751 tỷ đồng (tương đương trên 1 tỷ USD), đạt 109,8% kế hoạch đề ra, tăng 11,6% so với năm 2008.
2.4 Đạo đức kinh doanh góp phần tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp
Theo một nghiên cứu tiến hành với 500 tập đoàn lớn nhất ở Mỹ thì những doanh nghiệp cam kết thực hiện các hành vi đạo đức và chú trọng đến việc tuân thủ các quy định đạo đức nghề nghiệp thường đạt được thành công lớn về mặt tài chính. Sự quan tâm đến đạo đức đang trở thành một bộ phận trong các kế hoạch chiến lược của các doanh nghiệp, đây không còn là một chương trình do các chính phủ yêu cầu mà đạo đức đang dần trở thành một vấn đề quản lý trong nỗ lực để dành lợi thế cạnh tranh.
Trách nhiệm công dân của một doanh nghiệp gần đây cũng được đề cập nhiều có liên hệ tích cực đến lãi đầu tư, tài sản và mức tăng doanh thu. Trách nhiệm công dân của doanh nghiệp là đóng góp của một doanh nghiệp cho xã hội bằng hoạt động kinh doanh chính của mình, đầu tư xã hội, các chương trình mang tính nhân văn và sự cam kết của doanh nghiệp vào chính sách công, là cách mà doanh nghiệp đó quản lý các mối quan hệ kinh tế, xã hội, môi trường và là cách mà doanh nghiệp cam kết với các bên liên đới có tác động trên thành công dài hạn của doanh nghiệp đó.
Một doanh nghiệp không thể trở thành một công dân tốt, không thể nuôi dưỡng và phát triển một môi trường tổ chức có đạo đức, nếu kinh doanh không có lợi nhuận. Các doanh nghiệp có nguồn lực lớn hơn, thường có phương tiện để thực thi trách nhiệm công dân của mình cùng với việc phục vụ khách hàng, tăng giá trị nhân viên, thiết lập lòng tin với cộng đồng. Nhiều nghiên cứu đã tìm ra mối quan hệ tích cực giữa trách nhiệm công dân với thành tích công dân. Các doanh nghiệp tham gia các hoạt động sai trái thường phải chịu sự giảm lãi trên tài sản hơn là các doanh nghiệp không phạm lỗi. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tác động tiêu cực lên doanh thu không xuất hiện trước năm thứ ba từ sau khi doanh nghiệp vi phạm lỗi.
Như vậy, đầu tư vào cơ sở hạ tầng đạo đức trong tổ chức sẽ mang lại cơ sở cho tất cả các hoạt động kinh doanh quan trọng của tổ chức cần thiết để thành công. Có nhiều minh chứng cho thấy việc phát triển các chương trình đạo đức có hiệu quả trong kinh doanh không chỉ giúp ngăn chặn các hành vi sai trái mà còn mang lại những lợi thế kinh tế.
Minh họa 2.4 : Gần 300 em nhỏ được phẫu thuật nụ cười thành công
- Chiến dịch phẫu thuật mang tên “Nụ Cười Trẻ Thơ” do Viettel phối hợp với tổ chức Operation Smile Vietnam (Phẫu Thuật Nụ Cười Việt Nam), Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương TP. Hồ Chí Minh.
- Vietel mong muốn chung tay cùng xã hội giúp các em có hoàn cảnh đặc biệt tại Việt Nam có được sức khỏe tốt, tự tin bước vào đời. Viettel luôn tâm niệm rằng, làm cho xã hội tốt đẹp hơn qua các chiến dịch, hoạt động nhân đạo chính là sự đền đáp đối với sự ủng hộ của cộng đồng trong những bước đường phát triển, góp phần tạo nên Viettel lớn mạnh như ngày hôm nay.
2.5 Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của nền kinh tế quốc gia
Một câu hỏi quan trọng và thường được nêu ra là liệu hành động đạo đức trong kinh doanh có tác động đến kinh tế của một quốc gia hay không. Các nhà kinh tế học thường đặt câu hỏi tại sao một số nền kinh tế thị trường mang lại năng suất cao, công dân có mức sống cao, trong khi đó các nền kinh tế khác lại không như thế.
Các thể chế xã hội, đặc biệt là các thể chế thúc đẩy tính trung thực, là yếu tố vô cùng quan trọng để phát triển sự phồn vinh về kinh tế của một xã hội. Các nước phát triển ngày càng trở nên giàu có hơn vì có một hệ thống các thể chế, bao gồm đạo đức kinh doanh, để khuyến khích năng suất. Trong khi đó, tại các nước đang phát triển, cơ hội phát triển kinh tế và xã hội bị hạn chế bởi độc quyền, tham nhũng, hạn chế tiến bộ cá nhân cũng như phúc lợi xã hội.
Niềm tin là cái mà các cá nhân xác định, có cảm giác chia sẻ với những người khác trong xã hội. ở mức độ hẹp nhất ở niềm tin trong xã hội là lòng tin vào chính mình. Rộng hơn nữa là thành viên trong gia đình và họ hàng. Các quốc gia có các thể chế dựa vào niềm tin sẽ phát triển môi trường năng suất cao vì có một hệ thống đạo đức giúp giảm thiếu các chi phí giao dịch, làm cạnh tranh trở nên hiệu quả hơn. Trong hệ thống dựa vào thị trường có niềm tin lớn như Nhật Bản, Anh Quốc, Canada, Hoa Kỳ, Thuỵ Điển, các doanh nghiệp có thể thành công và phát triển nhờ có một tinh thần hợp tác và niềm tin.
Chúng ta tiến hành so sánh tỷ lệ tham nhũng trong các thể chế xã hội khác nhau, Nigêria và Nga có tỷ lệ tham nhũng cao trong khi đó Canada và Đức có tỷ lệ tham nhũng thấp, ta có thể thấy được điểm khác biệt chính giữa các cấp độ về sự vững mạnh và ổn định kinh tế của các nước này chính là vấn đề đạo đức. Điểm khác biệt giữa sự vững mạnh và ổn định về kinh tế của các nước này cho ta một minh chứng là đạo đức đóng một vai trò chủ chốt trong công cuộc phát triển kinh tế. Tiến hành kinh doanh theo một cách có đạo đức và có trách nhiệm tạo ra niềm tin và dẫn tới các mối quan hệ giúp tăng cường năng suất và đổi mới.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy vai trò quan trọng của đạo đức kinh doanh đối với các cá nhân, đối với doanh nghiệp và đối với xã hội và sự vững mạnh của nền kinh tế quốc gia nói chung. Các cổ đông muốn đầu tư vào các doanh nghiệp có chương trình đạo đức hiệu quả, quan tâm đến xã hội và có danh tiếng tốt. Các nhân viên thích làm việc trong một công ty để họ có thể tin tưởng được và khách hàng đánh giá cao về tính liêm chính trong các mối quan hệ kinh doanh. Môi trường đạo đức của tổ chức vững mạnh sẽ đem lại niềm tin cho khách hàng và nhân viên, sự tận tâm của nhân viên và sự hài lòng của khách hàng, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tư cách công dân của doanh nghiệp cũng có mối quan hệ tích cực với lợi nhuận mang lại của các khoản đầu tư, tài sản và tăng doanh thu của doanh nghiệp. Đạo đức còn đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển và thịnh vượng của một quốc gia. Đạo đức kinh doanh nên được tập thể quan tâm trong khi lập kế hoạch chiến lược như các lĩnh vực kinh doanh khác, như sản xuất, tài chính, đào tạo nhân viên, và các mối quan hệ với khách hàng.
Minh họa 2.5: Ngay từ đầu năm 2008, hàng chục công ty sữa khác của Trung Quốc cũng bị phát hiện có chứa chất melamine - một hợp chất hữu cơ dùng để sản xuất nhựa và phân bón, bị cấm dùng trong sản xuất thực phẩm. Melamine được trộn vào sữa, là do chạy theo lợi nhuận. Các nhà sản xuất sữa, các đại lý thu mua sữa đã cho thêm nước vào sữa nguyên liệu để tăng sản lượng, khiến cho hàm lượng chất dinh dưỡng rất thấp. Để nâng chất, tăng lượng protein, họ cho melamine vào cho đúng quy chuẩn để bán được giá, bất chấp sự nguy hại của nó đối với sức khỏe con người.
Ngay sau khi Trung Quốc thừa nhận có chất melamine trong sữa, một "hiệu ứng domino" đã xảy ra trên khắp thế giới. Hàng loạt công ty phải thiêu hủy sản phẩm của mình do sản phẩm đó nhập sữa từ Trung Quốc. Nhưng đó chưa phải là điều tồi tệ nhất. Hàng chục quốc gia tuyên bố chấm dứt nhập sữa của Trung Quốc. Chưa hết, Trung Quốc vốn là cường quốc về xuất khẩu thực phẩm và hàng tiêu dùng, nay ánh mắt người tiêu dùng nghi ngờ lan sang nhiều mặt hàng “made in China” khác.
3. Thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Đạo đức kinh doanh là một vấn đề mới ở Việt Nam. Các vấn đề như đạo đức kinh doanh, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp… mới chỉ nổi lên kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách Đổi mới và tham gia vào quá trình quốc tế hóa và tòan cầu hóa vào năm 1991. Trước đó, trong thời kinh tế kế hoạch tập trung, những vấn đề này chưa bao giờ được nhắc tới. Trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động kinh doanh đều do Nhà nước chỉ đạo, vì thế những hành vi có đạo đức được coi là những hành vi tuân thủ lệnh cấp trên. Do khan hiếm hầu hết hàng hóa tiêu dùng, để mua được đã là rất khó, nên không ai có thể phàn nàn về chất lượng hàng hóa. Vì cầu vượt quá cung, chất lượng phục vụ trong mạng lưới cung cấp vô cùng thấp nhưng ít người dám than phiền. Vào thời gian đó, các ngành công nghiệp của Việt Nam chưa phát triển, có rất ít nhà sản xuất và hầu hết đều thuộc sở hữu nhà nước, nên không cần quan tâm đến vấn đề thương hiệu hay sở hữu trí tuệ. Hầu hết lao động đều làm việc cho nhà nước, nơi mà kỷ luật và chế độ lương thưởng đều thống nhất và đơn giản. Tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước là rất khó khăn nên không có chuyện đình công hay mâu thuẫn lao động. Mọi hoạt động trong xã hội đều phải tuân thủ quy định của Nhà nước nên những phạm trù trên là không cần thiết.
Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam tham gia quốc tế hóa, có nhiều phạm trù mới được xuất hiện như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, đình công, thị trường chứng khoán… và vì thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở nên phổ biến hơn trong xã hội. Qua kết quả phân tích các số liệu điều và những tài liệu thu thập qua sách báo, chúng ta có thể rút ra được những kết luận sau về thực trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam.
3.1. Nhận thức của người Việt Nam về đạo đức kinh doanh
Cho đến nay, có rất ít sách chuyên môn về đạo đức kinh doanh được xuất bản ở Việt Nam, và hầu hết là được dịch từ sách của Mỹ. Cuốn sách đầu tiên về đề tài này được xuất bản ở Việt Nam có lẽ là cuốn: “WHAT'S ETHICAL IN BUSINESS?” by Verne E. Henderson, của Nhà xuất bản McGraw - Hill Ryerson. Cuốn sách này được dịch giả Hồ Kim Chung dịch là “Đạo đức kinh doanh là gì?” và được Nhà Xuất bản Văn hóa phát hành tháng 11 năm 1996. Tuy nhiên, nội dung cuốn sách khá mơ hồ, không đầy đủ, nên đã không gây được nhiều sự chú ý trong giới nghiên cứu ở Việt Nam.
Thời gian gần đây, do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, đã có khá nhiều bài báo trên các báo và tạp chí như: Chúng ta (Tạp chí lưu hành nội bộ của công ty FPT, website: www.chungta.com) hay báo Diễn đàn doanh nghiệp (tờ thời báo cho giới doanh nhân Việt Nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI phát hành, website: www.dddn.com.vn) và một số báo và tạp chí khác như: Saigon Times, Thời báo kinh tế Sài Gòn, báo Lao động, etc. Nhưng các bài báo này thường chỉ dừng ở việc nhận định về những sự kiện gần đây ở Việt Nam có liên quan đến đạo đức kinh doanh hoặc cung cấp về một số vụ việc trên các sach báo nước ngoài, chứ không tiến hành khảo sát hay đưa ra một khái niệm cụ thể nào về đạo đức kinh doanh. Hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng dạy về kinh doanh ở Việt Nam đều chưa có môn học này, hoặc nếu có cũng chỉ dừng ở hình thức môn tự chọn. Trong nội dung của các môn học có liên quan như kinh doanh quốc tế hay quản trị kinh doanh cũng chưa đề cập đến khái niệm này, hoặc nếu có thì nội dung cũng quá sơ sài.
Do áp lực của tiến trình toàn cầu hóa, các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam đề cập khá nhiều đến vấn đề này nhưng lại không đưa ra được một khái niệm chuẩn mực nào. Chính vì vậy, mặc dù thường được nghe về đạo đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người dân, của các doanh nghiệp về vấn đề này còn khá mơ hồ. Thực trạng đó đã được thể hiện khá rõ qua kết quả của cuộc điều tra. 40/60 số người được hỏi thường xuyên nghe nhắc đến những vấn đề liên quan đến đạo đức kinh doanh, 20/60 đôi khi nghe nhắc đến vấn đề này. Lưu ý là cuộc điều tra này được tiến hành ở Hà Nội, thủ đô và là thành phố lớn thứ hai của Việt Nam, nên con số này chưa phải là cao. Nhưng khi được hỏi về quan niệm, thế nào là đạo đức kinh doanh, 55/60 số người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là tuân thủ đúng pháp luật”, chỉ có 5/60 người được hỏi cho “Đạo đức kinh doanh là bảo vệ quyền lợi cho khách hàng” và không ai cho đạo đức kinh doanh phải bao gồm cả hai khái niệm trên! Chính sự hiểu biết mơ hồ này về đao đức kinh doanh đã dẫn đến những thiếu hụt trong thực thi của doanh nghiệp.
3.2 Trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội
Về trách nhiệm của doanh nghiệp với môi trường cũng dựa trên thực tế là có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt nam đã lợi dụng những yếu kém trong quy định về bảo vệ môi trường của Việt Nam để sử dụng những công nghệ sản xuất gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động và dân cư, nhằm tiết kiệm chi phí.Các ví dụ cho vấn đề này rất phổ biến ở Việt Nam như: các nhà máy dệt không có thiết bị làm sạch không khí, gây bệnh phổi cho công nhân và cư dân xung quanh, nhà máy da giầy sử dụng xả nước thải gây ô nhiễm nguồn nước, các công ty xây dựng không che chắn công trình gây ô nhiễm cho khu vực, không có thiết bị bảo hộ cho người lao động dẫn đến tỷ lệ tai nạn lao động cao….Trong trường hợp này, doanh nghiệp tuy không vi phạm luật pháp nhưng rõ ràng đã cố tình vi phạm đạo đức kinh doanh, vì họ hoàn toàn ý thức được tác hại của hành vi này. Nhưng quan điểm của người được hỏi ở đây lại khá bao dung và ôn hòa! Trả lời cho câu hỏi: “Cho biết quan điểm của bạn về việc một công ty nước ngoài đến lập nhà máy ở Việt Nam để lợi dụng sự lỏng lẻo trong những quy định về môi trường của Việt Nam?“, chỉ có 75% cho là “Không thể chấp nhận được, họ đã vi phạm đạo đức kinh doanh”, còn 25% lại cho là “Bình thường thôi, kinh doanh cần biết tận dụng cơ hội”. Kết quả này cho thấy thực tế là vấn đề môi trường còn ít được quan tâm ở Việt Nam và người Việt Nam còn quá lệ thuộc vào luật pháp khi đánh giá về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp.
Minh họa 3.2: Sông Thị Vải bị ô nhiễm: Vedan góp 90%
Tháng 9/2008, công ty Vedan bị cảnh sát môi trường phát hiện xả nước thải chui ra sông Thị vải trong nhiều năm gây bức xúc trong dư luận. Kết quả khảo sát của Viện môi trường và tài nguyên TPHCM cho thấy mức độ ô nhiễm chiếm 90%.Có lẽ đến giờ, mặc dù sản phẩm của Công ty Vedan được tiêu thụ trên thị trường vẫn đảm bảo chất lượng, không gây độc hại gì cho cơ thể con người. Nhưng đứng trong siêu thị, hẳn người ta sẽ suy nghĩ khi nhìn thấy sản phẩm bột ngọt của Công ty này, sau scandal xả nước ra sông Thị Vải (tại tỉnh Đồng Nai) bị phát giác.
3.3 Vấn đề sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
Đây là vấn đề nóng, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các nước đang phát triển khác. Tình trạng vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân. Trước hết, cho đến đầu thế kỷ XX Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, những thành tựu về các sản phẩm cần bảo hộ như kiểu dáng công nghiệp, phát minh,… hầu như chưa có, nên không có các quy định về bảo hộ SHTT. Hơn nữa, là nước có nền văn hóa trọng tập thể, người Việt Nam không có truyền thống bảo hộ sở hữu cá nhân. Trong thời phong kiến và cả thời kỳ trước hội nhập ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ, đều sống bằng lương chứ luật pháp không quy định chế độ bản quyền tác giả, thù lao cho tác giả rất ít ỏi vì quan niệm là phải phục vụ tập thể. Vấn đề này chỉ được thật sự đặt ra sau năm 1991, khi Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập và nhất là sau năm 1997, khi Việt Nam ký Hiệp định TRIPS. Nhưng với thời gian quá ngắn ngủi, chỉ hơn 10 năm so với lịch sử bảo hộ hàng trăm năm của các nước Âu - Mỹ, ý thức về bảo hộ quyền SHTT của người dân Việt Nam còn rất sơ sài. Một lý do nữa cho việc vi phạm SHTT tràn lan ở Việt Nam là nguyên nhân kinh tế. Khi thu nhập của người dân còn quá thấp, trong khi giá cả các sản phẩm có bản quyền lại quá cao và rất phổ biến thì khó có thể hy vọng SHTT sẽ được tôn trọng
Một cách vi phạm SHTT khá phổ biên ở Việt Nam là việc công ty cố tình đặt tên cho nhãn hiệu hàng hóa của mình tương tự một nhãn hiệu nổi tiếng đã có trước để trốn tránh luật pháp và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Ví dụ cho tình trạng này quá nhiều, như Hongda và Honda, La Vierge và La Vie, v.v..
3.4 Nghĩa vụ và trách nhiệm đạo đức của doanh nghiệp đối với các nhà đầu tư
Đây là vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam do thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất non trẻ nên những quy định về tính trung thực trong báo cáo tài chính, công khai thông tin với các nhà đầu tư của doanh nghiệp… vẫn còn chưa chặt chẽ. Vì vậy, thời gian qua đã xuất hiện hiện tượng các doanh nghiệp đưa ra những thông tin chưa chính xác để trục lợi, gây lao đao cho nhiều nhà đầu tư.
Minh họa 3.4: Thanh tra của UBND TP. HCM đã kết luận Công ty CP Bông Bạch Tuyết (BBT) công bố thông tin sai lệch.
Từ năm 2004 đến quý II-2008, hoạt động kinh doanh của công ty CP Bông Bạch Tuyết (BBT) thua lỗ, chỉ có năm 2005 là có lãi hơn 982 triệu đồng. Nhưng khoản lãi này cũng phản ánh không minh bạch, chưa tuân thủ đầy đủ chuẩn mực kế toán trong báo cáo tài chính. (theo quy định của HOSE, công ty phải kinh doanh có lãi mới đủ điều kiện niêm yết )
3.5. Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động
Thời gian qua, đình công đang là một vấn đề nóng ở Việt Nam. Theo thống kê, từ năm 1995 đến nay tại Việt Nam đã xảy ra hơn 1.000 cuộc đình công lớn nhỏ Nhiều nhất là tại Đồng Nai với 35 cuộc, tiếp đến là Bình Dương 22 cuộc, Tp.HCM 26 cuộc.. Các nguyên nhân chính dẫn đến đình công bao gồm:
- Người lao động không hài lòng với điều kiện làm việc, môi trường ô nhiễm, công cụ lao động không được thẩm tra, an toàn lao động kém, không có kiểm tra sức khỏe định kỳ cho nhân công và tình trạng tai nạn nghề nghiệp khá phổ biến.
- Để thu hút đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư Việt Nam đưa ra mức lương tối thiểu rất thấp (chỉ có 35USD/tháng trong Luật ĐTNN 1997) nên mặc dù không làm trái luật pháp nhưng mức lương các doanh nghiệp trả cho lao động vẫn rất thấp so với mặt bằng giá cả. Vì thế, người lao động không hài lòng và không trung thành với doanh nghiệp.
- Xuất thân từ nông dân, hầu hết người lao động thiếu kiến thức về Luật Lao động và thiếu kỹ năng làm việc trong môi trường công nghiệp nên năng suất lao động thấp và có những phản ứng trái pháp luật khi có xung đột.
Kết quả của một cuộc điều tra của Viện Công nhân và Công đoàn năm 2007, được tiến hành ở các địa phương tập trung nhiều công ty vốn đầu tư nước ngoài như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hải Dương, cho thấy công nhân tại 45% các công ty FDI than phiền về lương thấp, tại 16% công ty, công nhân phải làm thêm giờ quá nhiều (có doanh nghiệp làm thêm đến 500 - 600 giờ/năm). Hầu hết các công nhân ở các công ty có vốn đầu tư nước ngoài nhận mức lương chỉ khoảng từ 800.000 VND (50USD) đến 1.000.000 VND (62 USD) một tháng. Như vậy, chỉ có 30% công nhân ở công ty FDI có thể trang trải được chi phí cuộc sống. Để nâng cao thu nhập hàng tháng cho chi tiêu hàng ngày, 42,5% công nhân phải làm thêm giờ, đặc biệt là những người làm trong ngành may mặc và thuộc da8. Ở trong nhiều xí nghiệp may mặc, tỷ lệ nữ công nhân làm việc thêm giờ lên tới 55%, nhiều người làm 16h một ngày đến khi ngất xỉu, nhưng cũng chỉ được nghỉ hôm đó, hôm sau phải đi làm tiếp nếu không muốn bị đuổi việc!9. Đây là một hành vi không thể tha thứ được!
Để giải quyết tình trạng này, Viện đã tổ chức một cuộc thanh tra gắt gao và đưa ra những hình phạt cứng rắn cho những công ty vi phạm luật lao động, bao gồm cả thiếu cung cấp bảo hiểm y tế và bảo hiểm thân thể. Viện cũng đề nghị Nhà nước sửa đổi Luật Lao động và các luật có liên quan để xây dựng khung pháp lý cho đình công, bảo vệ được quyền lợi của cả người lao động lẫn chủ xí nghiệp10. Đây là một vấn đề cần được sớm giải quyết để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và nâng cao tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư ở Việt Nam, nhằm thu thút các nhà đầu tư nước ngoài.
4. Một số đề xuất nhằm phát triển và hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Qua những ví dụ thực tế và số liệu thu thập được về trạng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy mặc dù có một số tín hiệu khả quan, nhưng hiểu biết về đạo đức kinh doanh của cả giới trí thức và giới doanh nghiệp ở Việt Nam đều có những thiếu sót nghiêm trọng. Những thiếu sót này không những đã gây tác hại cho người tiêu dùng, cho các nhà kinh doanh, cho xã hội mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của doanh nghiệp, làm doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và lâu dài sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia trên thị trường quốc tế. Sau đây là một số đề xuất
4.1 Cần nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện khung luật pháp Việt nam nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho đạo đức kinh doanh
Đây là biện pháp tiên quyết, vì luật pháp chính là khung dễ thấy nhất cho đạo đức kinh doanh. Cần hoàn thiện các Bộ Luật có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ Người tiêu dùng, Luật Môi trường… Một nguyên nhân quan trọng cho tình trạng yếu kém của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay xuất phát từ sự thiếu hoàn thiện trong pháp luật Việt nam. Nếu luật pháp quy định chặt chẽ hơn, hợp lý hơn sẽ tránh được tình trạng doanh nghiệp nệ vào sự sơ hở của luật pháp mà trốn tránh nghĩa vụ đạo đức của mình. Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là Luật bảo vệ người tiêu dùng. Vừa qua, tại Hội thảo “Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và định hướng xây dựng Luật Bảo vệ quyền người tiêu dùng” do Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) vừa tổ chức tại Hà Nội, ông Hank Baker (đại diện Dự án Star Việt Nam) khẳng định, người tiêu dùng Việt Nam chưa được đảm bảo quyền lợi khi sử dụng các hàng hóa, dịch vụ. Đa số vẫn trông chờ vào “lòng tốt” của người bán hàng khi mua các sản phẩm trên thị trường.Theo ông Baker : “Khi gặp một sản phẩm không ưng ý, chúng ta vẫn hy vọng mình sẽ may mắn lấy lại được tiền. Trong khi đó, trên thị trường lại có quá nhiều người bán hàng không có tâm với hàng hóa mình bán ra. Hậu quả cuối cùng là người tiêu dùng phải chịu thiệt thòi”. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng tại Việt Nam chưa được thực thi một cách hiệu quả.
4.2 Cần nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
Cần lưu ý là không chỉ các nhà kinh doanh, các nhà nghiên cứu mới cần nắm được kiến thức về đạo đức kinh doanh mà cả xã hội cần ý thức điều này. Vi vậy, trước hết các phương tiện thông tin đại chúng nên tiến hành phổ cập các kiến thức về đạo đức kinh doanh nhằm định hướng hành vi của người dân, để người dân có thể nắm được nhằm tự bảo vệ quyền lợi cho mình và giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Tiếp theo, các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, hướng dẫn doanh nghiệp như Bộ Công thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam, Sở Kế hoạch - Đầu tư ở các tỉnh, Thành phố cần quan tâm phổ biến những kiến thức chung nhất về đạo đức kinh doanh. Việc này có thể tiến hành bằng nhiều cách như tổ chức các lớp học cho doanh nghiệp về đạo đức kinh doanh, chọn lựa dịch và xuất bản một số sách có uy tín của nước ngoài về đề tài này… Nên lưu ý là sách cho doanh nghiệp cần ngắn gọn, nhiều tình huống thực tế, kiểu Cẩm nang về đạo đức kinh doanh chẳng hạn… Các Trường Cao đẳng, Đại học khối Kinh tế cũng cần đưa nội dung về đạo đức kinh doanh vào chương trình đào tạo của mình, có thể dưới dạng một môn riêng hay gài vào các môn học khác như quản trị nhân sự, nghiệp vụ kinh doanh…
4.3 Cần có những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh của mình
Chúng ta cần ý thức rằng, không có ranh giới cố định nào đạo đức mà đạo đức là một phạm trù mà con người luôn cần vươn lên để đạt đến nó. Rất khó kiểm soát đạo đức vì nó vượt xa hơn việc tuân thủ pháp luật rất nhiều. Với đạo đức kinh doanh, vấn đề còn phức tạp hơn vì việc tuân thủ đạo đức trong ngắn hạn thường không đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, trong khi lợi nhuận mới là mục đích chính của doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan hữu quan cần có những biện pháp để khuyến khích doanh nghiệp có thành tích trong đạo đức kinh doanh như trong các giải Sao Vàng Đất Việt, Bông Hồng Vàng… có thể đưa việc có thành tích trong đạo đức kinh doanh là một tiêu chuẩn để xét. Các cơ quan thông tin đại chúng có thể đăng bài tôn vinh những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này… Ngược lại, các cơ quan quản lý cũng cần có biện pháp phạt những doanh nghiệp vi phạm đạo đức kinh doanh với mức phạt tương xứng. Không thể tiếp tục tình trạng doanh nghiệp buộc người lao động làm thêm giờ 16 - 20h/ngày hàng tuần liền đến mức lao động ngất xỉu mà chỉ bị phạt vài triệu VND; Các doanh nghiệp vi phạm quy định bảo vệ môi trường như xả hóa chất ra sông làm cá chết hàng loạt, người dân không có nước sinh hoạt... mà lại được cho phép tiếp tục hoạt động trong khi tìm biện pháp xử lý.
Cũng như văn hóa, đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng là những phạm trù phức tạp, cần nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện và phát triển. Là một quốc gia đang phát triển, mới tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa, những phạm trù như văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh còn khá mới mẻ ở Việt nam. Được biết trong thời gian tới,chính phủ Việt Nam đang có chủ trương nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang khuyến cáo các trường Đại học và Cao đẳng cần đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với trình độ chung trên thế giới. Có được những yếu tố thuận lợi này và truyền thống đạo đức lâu đời của người Việt Nam, hy vọng là trong thời gian tới, nhận thức của người Việt Nam về đạo đức kinh doanh sẽ nhanh chóng được nâng cao, góp phần duy trì sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân Việt Nam .
C KẾT LUẬN:
Gắn với sự thành công của doanh nghiệp gồm nhiều yếu tố như : chiến lược kinh doanh, sự nhạy bén với thị trường, có chính sách quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, thương hiệu tốt … Tuy nhiên, sự sống còn của doanh nghiệp về lâu dài tất yếu cần đến yếu tố “đạo đức kinh doanh”. “Đạo đức kinh doanh” với những vai trò của mình đã giúp doanh nghiệp vừa tạo ra lợi nhuận là mục tiêu của doanh nghiệp vừa tạo ra một sự uy tín về chất lượng sản phẩm và một hình ảnh tốt của doanh nghiệp đi vào lòng khách hàng cũng như đối tác của doanh nghiệp đó. Hơn thế nữa, “đạo đức kinh doanh” còn tạo ra cho doanh nghiệp một sự gắng kết lâu dài với người lao động của mình trên cơ sở nền tảng đạo đức kinh doanh phù hợp sẽ phát huy tính sáng tạo và sự trung thành của nhân viên trong doanh nghiệp. Sự thành công của doanh nghiệp gắng liền với thương hiệu của nó sẽ góp phần nâng cao hình ảnh thương hiệu sản phẩm của một quốc gia, sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp cũng là yếu tố góp phần vững mạnh cho nền kinh tế quốc gia. Như vậy, đạo đức doanh nghiệp là yếu tố góp phần tạo nên thành công của doanh nghiệp hay nói cách khác “Sự thành công của doanh nghiệp phụ thuộc vào đạo đức kinh doanh của chính họ”
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Đạo đức kinh doanh tại Việt Nam. Thực tại – giải pháp. TS Nguyễn Hoàng Ánh. Đại học Ngoại thương Hà Nội.
Bải giảng: Đạo đức kinh doanh. TS Phan Thị Minh Châu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ti7875u lu7853n dao duc KD hon ch7881nh nhm 61.doc
- VHDDTKD_2.ppt