Sự thay đổi đặc tính sinh hóa của nước bọt trên bệnh nhân ung thư vòm hầu sau xạ trị

KẾT LUẬN Mối liên quan các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu trước và sau khi kết thúc xạ 1 tháng: - Độ pH: Có tương quan thuận giữa độ pH nước bọt trước xạ và mức độ giảm pH cũng như độ pH nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng. - Khả năng đệm: Có tương quan thuận giữa khả năng đệm nước bọt trước xạ và mức độ giảm khả năng đệm cũng như khả năng đệm của nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng. Có mối tương quan thuận giữa khả năng đệm trước xạ và pH nước bọt sau xạ 1 tháng. Mối liên quan giữa sự thay đổi các đặc điểm nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau kết thúc xạ 1 tháng với tuổi, giới, giai đoạn ung thư và phương pháp điều trị. - Tuổi: không có sự khác biệt về mức độ giảm pH và khả năng đệm nước bọt sau khi kết thúc xạ 1 tháng khi so sánh theo tuổi. - Giai đoạn ung thư: không có sự khác biệt về độ pH và khả năng đệm nước bọt sau khi kết thúc xạ 1 tháng giữa bệnh nhân ung thư ở giai đoạn IV và chưa đến giai đoạn IV. - Phương pháp điều trị: không có sự khác biệt về mức độ giảm độ pH và khả năng đệm nước bọt sau khi kết thúc xạ 1 tháng giữa bệnh nhân xạ trị không có kết hợp hóa trị và bệnh nhân xạ trị có kết hợp hóa trị.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự thay đổi đặc tính sinh hóa của nước bọt trên bệnh nhân ung thư vòm hầu sau xạ trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 215 SỰ THAY ĐỔI ĐẶC TÍNH SINH HÓA CỦA NƯỚC BỌT TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ VÒM HẦU SAU XẠ TRỊ Ngô Thị Quỳnh Lan*, Phan Nguyễn Nhật Phương** TÓM TẮT Mục tiêu: nghiên cứu nhằm mục tiêu: (1) Mô tả các đặc điểm sinh hóa: độ pH, khả năng đệm của nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu tại 2 thời điểm: trước xạ trị và sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng; (2) So sánh và phân tích mối liên quan các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu; (3) So sánh sự thay đổi các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng theo tuổi, giai đoạn ung thư và phương pháp điều trị. Phương pháp: Với thiết kế nghiên cứu mô tả đoàn hệ tiến cứu trên mẫu nghiên cứu thuận tiện gồm 37 bệnh nhân ung thư vòm hầu có chỉ định điều trị xạ trị ngoài với tổng liều là 70 Gy trong thời gian từ tháng 1-7/2014 tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. Kết quả: Trước xạ trị, không có trường hợp nào có độ pH ở mức thấp (từ 5,0 đến 5,8) (0%), 18,9% bệnh nhân có độ pH nước bọt trung bình (từ 6,0 đến 6,6), 81,1% có độ pH nước bọt cao (từ 6,8 đến 7,8), sau kết thúc xạ 1 tháng thì 100% bệnh nhân có độ pH nước bọt thấp. Trước xạ trị, không có trường hợp nào có khả năng đệm nước bọt ở mức thấp (0%), 21,6% có khả năng đệm nước bọt ở mức trung bình, 78,4% ở mức cao, sau khi kết thúc xạ 1 tháng, 16,2% có khả năng đệm nước bọt ở mức thấp, 83,8% ở mức trung bình, không có bệnh nhân nào có khả năng đệm nước bọt ở mức cao (0%). Kết luận: Có tương quan thuận giữa độ pH nước bọt trước xạ trị và mức độ giảm pH cũng như độ pH nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng và giữa khả năng đệm nước bọt trước xạ trị và mức độ giảm khả năng đệm cũng như khả năng đệm của nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng. Không có sự khác biệt về mức độ giảm pH và khả năng đệm nước bọt sau khi kết thúc xạ 1 tháng khi so sánh theo tuổi, giữa bệnh nhân ung thư ở giai đoạn IV và chưa đến giai đoạn IV, giữa bệnh nhân xạ trị không có kết hợp hóa trị và bệnh nhân xạ trị có kết hợp hóa trị. Từ khóa: pH nước bọt, khả năng đệm, ung thư vòm hầu, xạ trị. ABSTRACT MODIFICATION OF BIO-CHEMICAL CHARACTERISTICS OF THE SALIVA IN PATIENTS WITH NASOPHARYNGEAL CANCER AFTER RADIOTHERAPY Ngo Thi Quynh Lan, Phan Nguyen Nhat Phuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 215 - 222 Objectives: (1) Describe pH, buffering capacity of the saliva in patients with nasopharyngeal cancer before and 1 month after radiotherapy; (2) analyze the relation between these characteristics; (3) analyze the modification of these characteristics in relation to age, stage of cancer and treatment modality. Materials and method: The cohort study was conducted on 37 patients with nasopharyngeal cancer undergoing radiotherapy (total dosage 70 Gy) from January 2014 to July 2014 at Hospital of Oncology at Ho Chi Minh City. Result: The results showed that no patient had low salivary pH (pH from 5.0 to 5.8) (0%), 18.9% patients * Bộ môn Nha khoa cơ sở- Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM ** BS RHM Khóa 2008-2014- Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM Tác giả liên lạc: PGS-TS Ngô Thị Quỳnh Lan ĐT: 0903125864 Email: ngothiquynhlan@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 216 had average pH (pH from 6.0 to 6.6), 81.1% had high pH (pH from 6.8 to 7.8). 1 month after radiotherapy, 100% patients had low salivary pH. Before radiotherapy, no patient had low buffering capacity (0%), 21.6% had average buffering capacity, 78.4% had high buffering capacity. 1 month after radiotherapy, 16.2% had low buffering capacity, 83.8% had average buffering capacity and no patient had high buffering capacity (0%). Conclusion: We could observe a positive relation between salivary pH before radiotherapy and the reduction in salivary pH and the salivary pH after radiotherapy, between the buffering capacity at the beginning and the reduction in buffering capacity as well as the buffering capacity itself 1 month after radiotherapy. No significant difference was found in terms of salivary pH reduction and buffering capacity between patients at various ages, at stage IV or below, with or without chemotherapy. Key words: salivary pH, buffering capacity, nasopharyngeal cancer, radiotherapy. ĐẶT VẤN ĐỀ Nước bọt là một chất dịch ngoại tiết, là một trong những hệ thống bảo vệ tự nhiên của cơ thể. Nước bọt toàn phần là hỗn hợp dịch tiết từ các tuyến nước bọt chính (tuyến mang tai, tuyến dưới hàm, tuyến dưới lưỡi) và các tuyến nước bọt phụ nằm rải rác ở niêm mạc môi, má, khẩu cái và một ít từ dịch nướu. Sự hiện diện của nước bọt có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sức khỏe răng miệng(15). pH nước bọt là chỉ số thể hiện độ axit hay bazơ của nước bọt, dao động trong khoảng 5,3 đến 7,8. pH nước bọt phụ thuộc vào nồng độ và khả năng phân ly ra ion H+ của các chất trong nước bọt đặc biệt là nồng độ bicarbonate. Khi nồng độ bicarbonate tăng sẽ kéo theo sự tăng pH và nồng độ bicarbonate lại phụ thuộc vào lưu lượng nước bọt. Khi lưu lượng nước bọt rất thấp, pH có thể chỉ ở mức 5,3; nhưng sau đó có thể tăng lên đến mức 7,8 trong lượng nước bọt kích thích(12). Tính hòa tan của hydroxy apatite (chất cấu thành men răng) phụ thuộc rất nhiều vào pH nước bọt, bình thường pH tới hạn để hòa tan hydroxy apatite là 5,5, khi pH của nước bọt không kích thích giảm dưới mức này sẽ dễ gây mất khoáng hóa. Khi pH nước bọt giảm xuống dưới mức 5,8 cho thấy môi trường miệng bệnh nhân có độ axit cao và có nguy cơ sâu răng cao(7,16,18). Khả năng đệm của một dung dịch là khả năng duy trì pH ổn định khi có tác nhân axit hay base tác động làm thay đổi pH của môi trường. Nhờ khả năng đệm mà nước bọt giữ được pH trung tính cho môi trường miệng. Khả năng đệm càng tốt thì càng ít sâu răng(1,5). Trên cùng một người, khả năng đệm của nước bọt là tương đối ổn định, ít thay đổi theo thời gian. Khả năng đệm bình thường của nước bọt kích thích là khoảng pH 5,5- 6,5. Khi khả năng đệm rất thấp (pH<4) nguy cơ sâu răng sẽ tăng cao. Nước bọt có nhiều hệ đệm giúp duy trì pH nước bọt ở mức trung tính (bicarbonate, phosphate, protein, urea). Bicarbonate là hệ đệm quan trọng nhất trong nước bọt kích thích. Trong nước bọt không kích thích, vai trò quan trọng thuộc về hệ đệm phosphate. Protein và urea là các hệ đệm yếu(19). Xạ trị ngoài thường được chỉ định điều trị cho những ung thư ở vùng miệng sau, đặc biệt là ung thư vòm hầu(14). Hầu hết trường chiếu xạ trị ngoài vùng đầu cổ đều ảnh hưởng đến các tuyến nước bọt, gây hủy hoại mô tuyến và dẫn đến suy giảm hoặc mất chức năng tuyến(3,10). Trong xạ trị ung thư vòm hầu, hầu hết các tuyến nước bọt đều nằm trong trường chiếu xạ và bị ảnh hưởng bởi tia xạ(3). Xạ trị làm thay đổi các đặc tính sinh hóa của nước bọt(2,6). Những thay đổi rõ rệt ở đặc điểm sinh hóa của nước bọt là sự giảm độ pH, khả năng đệm, biến đổi nồng độ các chất điện giải, biến đổi hệ thống kháng khuẩn đặc hiệu và không đặc hiệu của nước bọt(8,20). Theo nghiên cứu của Dreizen và cs. (1976)(11), pH trung bình của nước bọt giảm từ 7,0 xuống 6,83 sau xạ trị ung thư đầu cổ. Một kết quả khác từ nghiên cứu của Donia và cs. (2011)(10) cho thấy Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 217 pH nước bọt giảm từ 6,47 trước xạ xuống còn 5,06 sau xạ trị. Về khả năng đệm, nghiên cứu của Cássio và cs. (2004)(6) cho thấy có sự giảm sút của khả năng đệm nước bọt ở bệnh nhân sau xạ trị ung thư đầu cổ. Theo Marks và cs. (1981)(13) khả năng đệm nước bọt giảm chủ yếu là do giảm nồng độ bicarbonate trong nước bọt từ tuyến mang tai . Nghiên cứu của Rode và cs. (2011)(17) cho thấy nồng độ bicarbonate tăng nhẹ trong thời gian xạ trị và bắt đầu giảm sau khi kết thúc xạ trị, nồng độ phosphate giảm trong thời gian xạ trị và tăng trở lại sau 3 tháng kết thúc xạ trị. Nghiên cứu của Vissink và cs. (2003)(21) cho thấy có sự giảm lưu lượng, khả năng đệm và pH của nước bọt ở nửa đầu quá trình xạ trị. Năm 2011, Donia và cs. (2011)(10) nghiên cứu ảnh hưởng của xạ trị vùng đầu cổ lên các đặc tính sinh hóa của nước bọt, kết quả cho thấy có sự giảm lưu lượng nước bọt và khả năng đệm của nước bọt sau xạ trị. Tại nước ta chưa có nghiên cứu nào khảo sát về sự thay đổi các đặc tính sinh hóa của nước bọt sau xạ trị ở bệnh nhân ung thư đầu cổ nói chung và ung thư vòm hầu nói riêng. Các phương pháp đánh giá và điều trị vẫn chủ yếu dựa theo tài liệu nước ngoài và kinh nghiệm. Mục tiêu nghiên cứu 1- Mô tả các đặc điểm sinh hóa: độ pH, khả năng đệm của nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu tại 2 thời điểm: trước xạ trị và sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng. 2- So sánh và phân tích mối liên quan các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu trước và sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng. 3- So sánh sự thay đổi các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng theo tuổi, giai đoạn ung thư và phương pháp điều trị. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Mô tả đoàn hệ tiến cứu Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thời gian từ 1/2014 đến tháng 7/2014 tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. Mẫu nghiên cứu 37 bệnh nhân ung thư vòm hầu có chỉ định điều trị xạ trị ngoài với tổng liều là 70 Gy trong tại Khoa Xạ III - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM, có thể kết hợp hóa trị hay không. Chọn mẫu thuận tiện bằng cách sàng lọc dựa trên bệnh án tại Khoa Xạ III - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM và chọn ra những bệnh nhân ung thư vòm hầu chuẩn bị xạ trị tại đây, đồng ý tham gia nghiên cứu và tuân thủ đúng quy trình khám đánh giá. Phương tiện nghiên cứu: - Kẹo cao su không đường của hãng Lotte. - Bộ sản phẩm GC Saliva-Check Buffer: đo độ pH và khả năng đệm của nước bọt. Định nghĩa biến số: - Độ pH của nước bọt: là biến thứ tự, đánh giá qua độ pH nước bọt không kích thích, được đo bằng giấy chỉ thị màu, có các giá trị: 5,2; 5,4; 5,6; 5,8; 6,0; 6,2; 6,4; 6,6; 6,8; 7,0; 7,2; 7,4; 7,8. - Khả năng đệm của nước bọt: là biến thứ tự, đánh giá qua khả năng đệm của nước bọt kích thích. Trong nghiên cứu này khả năng đệm của nước bọt được đánh giá bằng giấy chỉ thị màu, có các giá trị: 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12. - Mức độ giảm: là biến định lượng, đơn vị là phần trăm (%). Ví dụ mức độ giảm của pH nước bọt là phần trăm giảm pH nước bọt sau xạ 1 tháng so với pH nước bọt trước xạ: Mức độ giảm pH = [(pHtrước xạ - pHsau xạ)/pHtrước xạ] x 100% Phương pháp nghiên cứu Đo và đánh giá độ pH và khả năng đệm nước bọt của bệnh nhân tại các thời điểm: thời điểm 1: trước khi xạ trị; thời điểm 2: sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng. Nhập số liệu và xử lý số liệu thống kê bằng chương trình SPSS 16.0 - Xác định độ pH nước bọt Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 218 Nhúng ngập miếng giấy thử pH vào nước bọt không kích thích, để trong 10 giây rồi so sánh với bảng màu của nhà sản xuất để xác định và đánh giá độ pH. Hình 1: Bảng so màu đánh giá pH Hình 2 Xác định pH nước bọt bằng giấy thử pH KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Sự thay đổi các đặc điểm sinh hóa nước bọt trước xạ và sau khi kết thúc xạ 1 tháng Độ pH nước bọt Bảng 2: Độ pH nước bọt trước xạ và sau xạ 1 tháng ở bệnh nhân ung thư vòm hầu. Độ pH Trước xạ Sau xạ 1 tháng TB ± ĐLC 6,98 ± 0,36 5,25 ± 0,21 Min-max 6,2-7,4 5,0-5,8 p 0,001 Kiểm định Paired-Samples T-Test Biểu đồ 1 cho thấy ở thời điểm trước xạ, không có trường hợp nào có độ pH ở mức thấp (từ 5,0 đến 5,8) (0%), 18,9% bệnh nhân có độ pH nước bọt trung bình (từ 6,0 đến 6,6), 81,1% có độ pH nước bọt cao (từ 6,8 đến 7,8). Sau kết thúc xạ 1 tháng thì 100% bệnh nhân có độ pH nước bọt thấp. Biểu đồ 1: Độ pH nước bọt trước xạ và sau khi kết thúc xạ 1 tháng Sau khi kết thúc xạ 1 tháng độ pH nước bọt trung bình giảm 24,7 ± 3,6% so với pH nước bọt trước xạ trị (thấp nhất là 15,6% và cao nhất là 30,6%). So sánh độ pH nước bọt giữa hai thời điểm này, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt có ý nghĩa, tức là độ pH nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng thấp hơn có ý nghĩa so với trước xạ (p<0,05). Với pH trung bình sau xạ thấp như vập, thấp hơn pH tới hạn để hòa tan hydroxy apatite, không những không thể hỗ trợ cho quá trình tái khoáng mà còn dễ gây mất khoáng, dẫn đến nguy cơ xoi mòn răng và sâu răng cao. Nước bọt sau xạ có pH trung bình là 5,25 cho thấy môi trường miệng có tính acid cao, điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Ben-Aryeh và cs. (1975)(4) về ảnh hưởng của xạ trị lên nước bọt ở bệnh nhân ung thư đầu cổ, kết quả nghiên cứu này nhận thấy pH nước bọt giảm và trở nên acid sau quá trình xạ trị. pH nước bọt phụ thuộc vào nồng độ và khả năng phân ly ra ion H+ của các chất trong nước bọt đặc biệt là nồng độ bicarbonate. Khi nồng độ bicarbonate tăng sẽ kéo theo sự tăng pH. Nhiều nghiên cứu cho thấy có sự sụt giảm nồng độ bicarbonate trong nước bọt ở bệnh nhân sau xạ trị ung thư đầu cổ (Dreizen và cs., 1976; Rode và cs., 2001)(11,17). Sự sụt giảm này làm cho khả năng trung hòa ion H+ trong nước bọt giảm xuống, từ đó nồng độ ion H+ trong nước bọt cao hơn và nước bọt có tính acid hơn; do đó, nước bọt sau xạ có độ pH thấp hơn nước bọt trước xạ. Khi đối Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 219 chiếu với kết quả nghiên cứu của Dreizen và cs. (1976)(11) (trước xạ: 7,01; sau xạ: 6,83) và nghiên cứu của Donia và cs. (2011)(10) (trước xạ: 6,47; sau xạ: 5,06) về sự thay đổi pH nước bọt sau xạ cho thấy nghiên cứu này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Donia và cs., pH nước bọt trung bình sau xạ trong cả hai nghiên cứu đều có sự giảm xuống nhiều hơn 1 đơn vị so với pH trước xạ. Kết quả pH nước bọt sau xạ của hai nghiên cứu gần như tương đương nhau và đều nằm ở mức pH thấp. Đối chiếu với nghiên cứu của Dreizen và cs.(11), pH trung bình trước xạ trong nghiên cứu này là 6,98, xấp xỉ nghiên cứu của Dreizen, nhưng giá trị pH trung bình sau xạ là 5,25, thấp hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của Dreizen. Có sự khác biệt lớn như vậy vì trong nghiên cứu của Dreizen đối tượng nghiên cứu chỉ nhận liều xạ từ 50 Gy đến 60 Gy, còn trong nghiên cứu này liều xạ là 70 Gy; trường chiếu của hai nghiên cứu đều bao trùm hết các tuyến nước bọt chính. Sự khác biệt về liều xạ làm mức độ suy giảm chức năng tuyến nước bọt trong nghiên cứu này trầm trọng hơn dẫn đến giá trị pH nước bọt sau xạ thấp hơn. Ngoài ra, do nồng độ bicarbonate tăng nhẹ trong quá trình xạ trị và giảm mạnh sau khi kết thúc xạ trị (Rode và cs., 2001)(17). Như vậy, pH trung bình của Dreizen là ở thời điểm ngay khi kết thúc xạ, tức là pH vừa bắt đầu giảm; còn pH trung bình nghiên cứu này là ở thời điểm sau khi kết thúc xạ 1 tháng; nên pH trung bình sau xạ trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của Dreizen. Khả năng đệm của nước bọt Bảng 3: Khả năng đệm nước bọt trước xạ và sau xạ 1 tháng ở bệnh nhân ung thư vòm hầu. Khả năng đệm Trước xạ Sau xạ 1 tháng TB ± ĐLC 10,49 ± 1,59 6,16 ± 1,28 min - max 8-12 4-8 p 0,001 Kiểm định Paired-Samples T-Test Biểu đồ 2: Khả năng đệm nước bọt trước xạ và sau xạ 1 tháng ở bệnh nhân ung thư vòm hầu Biểu đồ 2 cho thấy trước xạ, không có trường hợp nào có khả năng đệm nước bọt ở mức thấp (0-5 điểm) (0%), 21,6% có khả năng đệm nước bọt ở mức trung bình (6-9 điểm), 78,4% ở mức cao (10-12 điểm). Sau khi kết thúc xạ 1 tháng, 16,2% có khả năng đệm nước bọt ở mức thấp, 83,8% ở mức trung bình, không có bệnh nhân nào có khả năng đệm nước bọt ở mức cao (0%). Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, trước xạ trị, khả năng đệm trung bình của nước bọt là 10,49 và giảm xuống còn 6,16 ở thời điểm sau khi kết thúc xạ 1 tháng. Như vậy có sự thay đổi về khả năng đệm của nước bọt trong nhóm nghiên cứu, từ mức cao trước xạ xuống mức trung bình sau xạ. So sánh khả năng đệm nước bọt giữa hai thời điểm này, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt có ý nghĩa, chứng tỏ khả năng đệm nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng thấp hơn so với thời điểm trước xạ (p<0,05). Giá trị khả năng đệm của nước bọt sau xạ trong nghiên cứu vẫn nằm trong giới hạn bình thường của nước bọt, tuy nhiên sự giảm xuống đáng kể của khả năng đệm nước bọt cho thấy khả năng duy trì ổn định pH môi trường miệng cũng giảm xuống, và cho thấy có sự gia tăng nguy cơ sâu răng. Nước bọt có nhiều hệ đệm khác nhau giúp duy trì pH nước bọt ở mức trung tính (bicarbonate, phosphate, protein, urea). Đối với nước bọt kích thích, khả năng đệm phụ thuộc nhiều nhất vào nồng độ bicarbonate trong nước bọt, và nồng độ này lại phụ thuộc vào lưu lượng của nước bọt. Cụ thể, nồng độ bicarbonate trong nước bọt tăng khi lưu lượng nước bọt tăng lên. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 220 Do đó có thể thấy rằng khả năng đệm của nước bọt kích thích phụ thuộc vào nồng độ bicarbonate và cũng bị ảnh hưởng bởi lưu lượng nước bọt. Nhiều nghiên cứu cho thấy có sự sụt giảm nồng độ bicarbonate trong nước bọt ở bệnh nhân sau xạ trị ung thư đầu cổ (Dreizen và cs., 1976; Rode và cs., 2001)(11,17). Chính sự sụt giảm của nồng độ bicarbonate trong nước bọt sau xạ là nguyên nhân làm cho nước bọt sau xạ có khả năng đệm thấp hơn nước bọt trước xạ (Daws, 1996)(9). Theo Marks (1981)(13), khả năng đệm nước bọt giảm chủ yếu là do giảm nồng độ bicarbonate trong nước bọt từ tuyến mang tai; và có thể tình trạng giảm lưu lượng nước bọt sau xạ cũng góp phần vào sự giảm của khả năng đệm. Thêm vào đó, tuy hệ thống đệm phosphate không có vai trò quan trọng trong nước bọt kích thích, nhưng sự giảm nồng độ photphate sau xạ cũng góp phần làm giảm khả năng đệm của nước bọt sau xạ (Dreizen và cs., 1976)(11). Theo nghiên cứu của Dreizen và cs. (1976)(11), cho thấy khả năng đệm ở bệnh nhân ung thư đầu cổ sau xạ giảm 44,4% so với khả năng đệm trước xạ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Dreizen, mức độ giảm của khả năng đệm trong nghiên cứu này là 40,8%. So sánh và phân tích mối liên quan các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu trước xạ và sau khi kết thúc xạ 1 tháng. Với hệ số tương quan Pearman, chúng tôi nhận thấy có mối tương quan thuận giữa độ pH nước bọt trước xạ và mức độ giảm pH cũng như độ pH của nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng (mức độ giảm: r = 0,673 và p<0,05; pH sau xạ: r = 0,484 và p<0,05). Điều này cho thấy bệnh nhân có độ pH nước bọt trước xạ cao thì mức độ giảm pH sẽ nhiều hơn nhưng độ pH sau xạ vẫn cao hơn so với bệnh nhân có độ pH nước bọt trước xạ thấp và ngược lại. Với hệ số tương quan Pearman, chúng tôi nhận thấy có mối tương quan thuận giữa khả năng đệm nước bọt trước xạ và mức độ giảm cũng như khả năng đệm nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng (mức độ giảm: r = 0,279 và p<0,05; pH sau xạ: r = 0,505 và p<0,05). Điều này cho thấy bệnh nhân có khả năng đệm nước bọt trước xạ cao thì mức độ giảm sẽ nhiều hơn nhưng khả năng đệm sau xạ vẫn cao hơn so với bệnh nhân có khả năng đệm nước bọt trước xạ thấp và ngược lại. Sự thay đổi các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau khi kết thúc xạ 1 tháng theo tuổi, giai đoạn ung thư và phương pháp điều trị. Bảng 4: So sánh mức độ thay đổi các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau khi kết thúc xạ 1 tháng theo tuổi < 50 tuổi (n = 18) ≥ 50 tuổi (n =19 ) p Giảm pH (%) 24,5 ± 4,1 24,8 ± 3,3 0,837 Giảm khả năng đệm (%) 43,7 ± 9,7 37,9 ± 12,5 0,130 Kiểm định Independent-Samples T-Test Bảng 5: So sánh sự thay đổi các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở hai thời điểm khảo sát theo giai đoạn ung thư ở bệnh nhân ung thư vòm hầu Thời điểm < Giai đoạn IV Giai đoạn IV p pH T0 7,09 ± 0,28 6,94 ± 0,37 0,290 T1 5,20 ± 0,20 5,26 ± 0,22 0,439 Khả năng đệm T0 11,33 ± 1,00 10,21 ± 1,66 0,066 T1 6,89 ± 1,05 5,93 ± 1,27 0,049 Kiểm định Independent-Samples T-Test Bảng 6: So sánh sự thay đổi các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở hai thời điểm khảo sát theo phương pháp điều trị ở bệnh nhân ung thư vòm hầu Thời điểm Không hóa trị (n = 24) Có hóa trị (n = 13) p pH T0 6,95 ± 0,36 7,03 ± 0,35 0,517 T1 5,25 ± 0,23 5,25 ± 0,18 0,959 Khả năng đệm T0 10,42 ± 1,67 10,62 ± 1,50 0,722 T1 6,33 ± 1,27 5,85 ± 1,28 0,275 Kiểm định Independent-Samples T-Test Khi phân bố các các đặc điểm nước bọt (ở cả hai thời điểm trước xạ và sau xạ) và mức độ giảm của các đặc điểm này theo tuổi (dưới 50 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 221 tuổi và từ 50 tuổi trở lên), giai đoạn ung thư (ung thư chưa đến giai đoạn IV và ung thư giai đoạn IV (theo phân loại của UICC)) và hóa trị (có kết hợp hóa trị và không có kết hợp hóa trị); chúng tôi nhận thấy có một số thay đổi: Độ pH nước bọt sau xạ ở bệnh nhân trên 50 tuổi thấp hơn so với bệnh nhân dưới 50 tuổi, tuy nhiên không có sự khác nhau về mức độ giảm pH nước bọt khi so sánh theo tuổi. Khả năng đệm nước bọt sau xạ ở bệnh nhân ung thư giai đoạn IV thấp hơn so với bệnh nhân chưa đến giai đoạn IV nhưng không có sự khác nhau về mức độ giảm khả năng đệm nước bọt ở hai nhóm bệnh nhân này. Các so sánh khác dù có khác biệt nhưng đều không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Đây mới chỉ là những kết quả ban đầu trong một nghiên cứu với cỡ mẫu nhỏ và chỉ khảo sát trong một thời gian ngắn, đồng thời chúng tôi cũng chưa tìm được nhiều tài liệu đề cập đến vấn đề này cũng như những nghiên cứu tương đồng khác để đối chiếu. Do đó, với mong muốn có được những kết luận chính xác và toàn diện hơn, chúng tôi hy vọng sẽ có những nghiên cứu tiếp theo qui mô hơn. KẾT LUẬN Mối liên quan các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu trước và sau khi kết thúc xạ 1 tháng: - Độ pH: Có tương quan thuận giữa độ pH nước bọt trước xạ và mức độ giảm pH cũng như độ pH nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng. - Khả năng đệm: Có tương quan thuận giữa khả năng đệm nước bọt trước xạ và mức độ giảm khả năng đệm cũng như khả năng đệm của nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng. Có mối tương quan thuận giữa khả năng đệm trước xạ và pH nước bọt sau xạ 1 tháng. Mối liên quan giữa sự thay đổi các đặc điểm nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau kết thúc xạ 1 tháng với tuổi, giới, giai đoạn ung thư và phương pháp điều trị. - Tuổi: không có sự khác biệt về mức độ giảm pH và khả năng đệm nước bọt sau khi kết thúc xạ 1 tháng khi so sánh theo tuổi. - Giai đoạn ung thư: không có sự khác biệt về độ pH và khả năng đệm nước bọt sau khi kết thúc xạ 1 tháng giữa bệnh nhân ung thư ở giai đoạn IV và chưa đến giai đoạn IV. - Phương pháp điều trị: không có sự khác biệt về mức độ giảm độ pH và khả năng đệm nước bọt sau khi kết thúc xạ 1 tháng giữa bệnh nhân xạ trị không có kết hợp hóa trị và bệnh nhân xạ trị có kết hợp hóa trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Almeida Pdel V et al. (2008), “Saliva composition and functions: a comprehensive review”, Journal of Contemporary Dental Practice, 9(3), pp 72-80. 2. Almstahl A, Wikstrom M, Groenink J. (2001), "Lactoferrin, amylase and mucin MUC5B and their relation to the oral microflora in hyposalivation of different origins", Oral Microbiol Immunol, 16, pp 345-52. 3. Bangalore LGP, el al. (2011), "Assessment of parotid salivary gland function in head and neck cancer patients receiving radiation therapy using quantitative salivary gland scintigraphy", Pakistan Journal of Physiology, 7(1). 4. Ben-Aryeh et al. (1975), “Effects of irradiation on saliva in cancer patients”, International Journal Oral Surgery, 4, pp 205– 10. 5. Cao Hữu Tiến (2002), Khảo sát một số yếu tố sinh hóa và vi khuẩn trong nước bọt liên quan đến sâu răng, Luận văn thạc sĩ Y học. 6. Cassio BP, et al. (2004), "Clinical and biochemical evaluation of the saliva of patients with xerostomia induced by radiotherapy", Braz. oral res. vol.18 7. Cate ten B, (1996), “The role of saliva in mineral equilibria- Caries ans calculus formation”, British Dental Association, 2nd ed., pp 123-136. 8. Chua DT, et al (2007), "Late oral complications following radiotherapy for head and neck cancers", Expert Review of Anticancer Therapy, 7(9), pp 1215-24. 9. Dawes C (1996), “Factors influencing salivary flow rate and composition”, British Dental Association, 2nd eddition, pp 27- 41. 10. Donia S (2011), "Effect of Head and Neck Radiotherapy on Saliva Biochemical Indicators". International Journal of Oral & Maxillofacial Pathology, 2(4), pp 11-15. 11. Dreizen S, Brown LR, Handler S, Johnston DA (1975), "Effect of radiation - induced xerostomia on human oral microflora", Journal of Dental Restoration, 54, pp 740-750 12. Huỳnh Anh Lan, “Các xét nghiệm nước bọt tại ghế nha”, Khám chẩn đoán vùng miệng, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 13. Marks el al. (1981), “The effects of radiation on parotid salivary function”, International Journal Oncology Biology Physics, 7, pp 1013-1019. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 222 14. Million RR el al. (1988), “Treatment results for simultaneous primary squamous cell carcinoma of the head and neck”, Laryngoscope, 98, pp 79-82. 15. Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2011), Các yếu tố nước bọt liên quan đến mức độ trầm trọng sâu răng, nghiên cứu trên học sinh 9-10 tuổi huyện Bình Chánh, TPHCM, Luận văn thạc sĩ Y học. 16. Philip C (2004), "Salivary Enhancement Therapies", Caries Research 38, pp 241–246. 17. Rode M, el al. (2001), "The influence of pilocarpine and biperiden on pH value and calcium, phosphate, and bicarbonate concentrations in saliva during and after radiotherapy for head and neck cancer", Oral Surgery Oral Medicine Oral Pathology, 92(5), pp 509-14. 18. Stookey GK (2008), “The effect of saliva on dental caries”, Journal American Dental Association, 139 Suppl, pp 11S-17S. 19. Tabak LA, et al. (1982), “Role of salivary mucins in the protection of the oral cavity”, Journal of Oral Pathology & Medicine, 11(1), pp 1-17. 20. Valdez IH, (1991), “Radiation-induced salivary dysfunction: clinical course and significance”, Spec Care Dentist, 11, pp 252-255. 21. Vissink, el al (2003), "Oral Sequelae of head and neck Radiotherapy", International and American Associations for Dental Research, 14, pp 199. Ngày nhận bài báo: 31/01/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/03/2015 Người phản biện: TS Trần Xuân Vĩnh Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsu_thay_doi_dac_tinh_sinh_hoa_cua_nuoc_bot_tren_benh_nhan_un.pdf