Xuất phát từ tính chất đặc thù vốn có
của hợp đồng gia nhập cho thấy, yếu tố ưng
thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập đã
không được diễn ra một cách hoàn chỉnh
như trong hợp đồng thông thường mà gần
như chỉ mang tính lý thuyết, bởi thực tiễn
cho thấy là người tiêu dùng thường phải
chấp nhận tất cả các điều kiện và điều khoản
do thương nhân đưa ra mà không có quyền
đàm phán, thương lượng về các điều kiện và
điều khoản đó. Điều này được phản ánh rõ
trong nội hàm định nghĩa về hợp đồng gia
nhập được quy định tại khoản 1 Điều 405
BLDS năm 2005 “Hợp đồng theo mẫu là
hợp đồng gồm những điều khoản do một
bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong
một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị
trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn
bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề
nghị đã đưa ra”.
Như vậy, về cơ bản thì ý chí của hai bên
vẫn được thể hiện trong quá trình giao kết
hợp đồng gia nhập, song quá trình tương tác
các ý chí để từ đó hai bên đồng ý đi đến ràng
buộc quyền và nghĩa vụ với nhau trong hợp
đồng không tồn tại. Nếu sự ưng thuận trong
giao kết hợp đồng thông thường là một quá
trình được thể hiện qua việc các bên đàm
phán, thượng lượng để sửa đổi, bổ sung các
điều kiện và điều khoản của hợp đồng thì sự
ưng thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập
chỉ là một thời điểm và diễn ra khi người
tiêu dùng chấp nhận hoặc không chấp nhận
toàn bộ nội dung của hợp đồng. Do đó, sự
ưng thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập
gần như bị triệt tiêu trên thực tế và đây chính
là điểm khác biệt cơ bản giữa hợp đồng
thông thường và hợp đồng gia nhập liên
quan đến yếu tố thỏa thuận.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 192 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÛÅ THOÃA THUÊÅN TRONG GIAO KÏËT HÚÅP ÀÖÌNG GIA NHÊÅP
ngô Văn Hiệp*
* ThS, LS. Trưởng Văn phòng Luật sư Hiệp và Liên danh (HALF).
1 Hiện nay, ở góc độ lý luận cũng thực tiễn, có nhiều cách tiếp cận và gọi tên khác nhau đối với loại hợp đồng này. Tuy
nhiên, trong bài viết này, chúng tôi tiếp cận hợp đồng ở góc độ nội dung và phương thức giao kết, do đó dùng thuật ngữ
hợp đồng gia nhập.
2 Paul Latimer, Australian Business Law, CCH Australia Limited, 1987, p. 257.
3 Corinne Renault - Brahinsky, Đại cương về pháp luật hợp đồng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 46.
Theo lý thuyết truyền thống thì hợpđồng là sự thỏa thuận giữa các bênvề việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng. Như
vậy, trước hết hợp đồng là sự kiện pháp lý,
là một giao dịch nhằm tạo lập hệ quả pháp
lý. Với tư cách là một sự kiện pháp lý, hợp
đồng bao gồm hai yếu tố cơ bản là: 1. Sự
thỏa thuận; 2. Mục đích tạo lập hệ quả pháp
lý (mục đích xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng). Như
vậy, hợp đồng chỉ được thiết lập khi có sự
thỏa thuận của hai hoặc nhiều bên, tức là khi
có sự đồng thuận của các ý định hay sự
thống nhất ý chí giữa các chủ thể tham gia
giao kết hợp đồng. Hợp đồng phải chứa
đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết, tức là
nó phải có sự trùng hợp ý chí của các bên,
do đó, yếu tố thỏa thuận trong giao kết hợp
đồng đã bao hàm trong nó yếu tố tự nguyện,
tự định đoạt và sự thống nhất về mặt ý chí.
Đây chính là quan niệm chung về pháp luật
hợp đồng của nhiều nước trên thế giới liên
quan đến các yếu tố bắt buộc của hợp đồng.
Hợp đồng gia nhập1 là một dạng đặc thù
của hợp đồng dân sự do được thiết lập giữa
một bên là thương nhân và bên kia là người
tiêu dùng nhằm cung ứng một số loại hàng
hóa, dịch vụ thiết yếu của cuộc sống. Chính
vì vậy, khi nghiên cứu hợp đồng gia nhập,
có một số vấn đề quan trọng cần được đặt
ra là: Khi người tiêu dùng chấp nhận các
điều kiện và điều khoản do thương nhân đưa
ra trong hợp đồng gia nhập thì đã thể hiện
được ý chí đích thực của mình chưa? Bằng
hành vi ký kết hợp đồng gia nhập, các bên
tham gia hợp đồng đã thống nhất ý chí
chưa? Đã cấu thành nên sự thỏa thuận (ưng
thuận) giữa các bên - một trong những yếu
tố cơ bản hình thành lên hợp đồng chưa? Đã
thiết lập nên một hợp đồng có hiệu lực pháp
lý chưa? Chúng tôi sẽ bàn đến các nội dung
cơ bản này.
1. yếu tố thỏa thuận (ưng thuận) trong
hợp đồng
Từ thời La Mã cổ đại, hợp đồng đã
được xem là sự đồng thuận hay hiệp ý (con-
sensus)2, cho nên sự ưng thuận của các bên
kết ước bao giờ cũng được cho là điều kiện
hay thành tố đầu tiên của hợp đồng. Rein-
hard Zimmermann xác nhận rằng, trong luật
hợp đồng hiện đại, ưng thuận là khái niệm
hạt nhân3. Trong khi đó, nội dung các quy
định từ Điều 16 đến Điều 24 của Bộ luật
Dân sự (BLDS) năm 2015 thì lại coi năng
lực giao kết hợp đồng là yếu tố đầu tiên để
25
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
xác định hiệu lực của hợp đồng, còn yếu tố
tự nguyện chỉ được xếp ở hàng thứ yếu.
Chính vì vậy, có thể nói, năng lực giao kết
hợp đồng là một bộ phận hay một phần quan
trọng cấu thành yếu tố ưng thuận.
Học thuyết tự do ý chí - cơ sở triết học
của hợp đồng, có một hạt nhân lý luận hợp
lẽ là con người chỉ bị ràng buộc bởi ý chí
của chính mình. Hợp đồng tạo ra sự ràng
buộc. Nên ý chí ràng buộc hay sự ưng thuận
ràng buộc phải là yếu tố khởi đầu có tính
chất nền tảng cho việc xem xét tới hợp đồng.
Ngày nay, dường như bất kỳ nước nào, xuất
phát từ truyền thống pháp luật nào, cũng
nhìn nhận một cách thích đáng tới yếu tố
ưng thuận của hợp đồng4.
Ưng thuận có bản chất là một trạng thái
tâm lý hay sự mong ước bên trong của các
chủ thể tham gia giao kết hợp đồng và được
biểu lộ ra bên ngoài thông qua việc các bên
chấp thuận các điều kiện và điều khoản của
hợp đồng. Các luật gia Việt Nam luôn có ý
tưởng thống nhất giữa ý chí và sự thể hiện.
Họ cho rằng, mong muốn chủ quan của con
người có nội dung được xác định bởi các
nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng của bản thân,
và phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một
hình thức nhất định để người khác biết. Theo
họ, giao dịch phải là sự thống nhất giữa ý
chí và sự thể hiện, và nếu thiếu đi sự thống
nhất này thì có thể vô hiệu5.
Brian H. Bix phân tích, trong lĩnh vực
hợp đồng, ưng thuận có hai thành tố chủ yếu.
Đó là sự hiểu biết và sự lựa chọn hợp lý6. Hai
thành tố này cần được đánh giá khi xem xét
sự ưng thuận về một hậu quả pháp lý nhất
định. Một số luật gia Nhật Bản xuất phát từ
khoa học tâm lý đi tới nhận định, ý chí được
biểu lộ ra bên ngoài cần phải được xem xét
ở ba thành tố: thứ nhất, mong muốn tạo lập
một hậu quả nhất định; thứ hai, mong muốn
biểu lộ liên quan tới hậu quả đó; và thứ ba,
quá trình biểu lộ sự mong muốn đó7.
Các phân tích trên cho chúng ta thấy,
ưng thuận chính là việc biểu lộ ý chí của các
bên tham gia hợp đồng. Do đó, muốn xem
xét một cách cụ thể việc biểu lộ ý chí của
các bên thì cần phải làm rõ ba vấn đề, đó là:
Các bên tham gia hợp đồng có mong muốn
tạo lập ra một hệ quả pháp lý cụ thể không?
Mong muốn đó được biểu lộ ra bên ngoài
như thế nào? Quy trình biểu lộ sự mong
muốn đó ra làm sao? Việc làm rõ được ba
vấn đề này kết hợp với việc đối chiếu các
quy định của pháp luật liên quan đến yếu tố
ưng thuận chính là tiền đề cho việc nhận
định sự biểu lộ ý chí đó có đem lại hệ quả
pháp lý hay không trong thực tế.
2. yếu tố thỏa thuận trong giao kết hợp
đồng gia nhập
Thỏa thuận chính là một trong những
điều kiện quan trọng tạo nên hợp đồng. Thỏa
thuận = Sự thể hiện ý chí làm phát sinh các
quan hệ pháp lý8. Khi một bên đưa ra đề
nghị giao kết hợp đồng và bên còn lại chấp
thuận đề nghị đó, thì đã cấu thành nên một
sự thỏa thuận giữa các bên9. Như vậy, khi
các bên không có sự gặp nhau ở những ý
định và đi đến thống nhất ý chí đối với các
điều kiện và điều khoản liên quan đến hợp
26
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Ngô Huy Cương, Về yếu tố ưng thuận của hợp đồng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7 (168) tháng 4/2010, tr. 23, 24.
5 Paul Latimer, Australian Business Law, CCH Australia Limited, 1987, p. 256 - 257.
6 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất
bản, Sài Gòn, 1963, tr. 121- 122; Corinne Renault - Brahinsky, Đại cương về pháp luật hợp đồng, Nxb. Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội, 2002, tr. 46.
7 Robert W. Emerson, John W. Hardwick, Business Law, Barron’s educational series Inc., USA, 1997, pp. 89 - 91; R. Keith
Yorston and Edward E. Fortescue, Australian Mercantile Law, The Law Book Co. of Australia PTY LTD, Sydney, Melbourne,
Brisbane, 1943, pp. 35 & 37.
8 Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2002), Đại cương pháp luật về hợp đồng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. 4.
9 Daughtrey, William H., Jr., Adapting contract law to accommodate electronic contracts overview and suggestions, Rutgers
đồng thì sẽ không có hợp đồng được ký kết.
Trong các hợp đồng, yếu tố quan trọng nhất
chính là sự thỏa hiệp giữa các ý chí, tức là
có sự ưng thuận giữa các bên với nhau liên
quan đến các điều kiện và điều khoản của
hợp đồng. Đương nhiên, tự do hợp đồng
không phải là tự do tuyệt đối thể hiện ở việc
Nhà nước buộc các bên giao kết hợp đồng
phải tôn trọng đạo đức, trật tự xã hội, trật tự
công cộng. Chính vì vậy, trong một số
trường hợp luật định, nhân danh tổ chức
quyền lực công, Nhà nước có thể can thiệp
vào việc thỏa thuận hợp đồng và do đó đã
giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng của
các bên. Tuy nhiên, sự can thiệp này của
Nhà nước phải là sự can thiệp hợp lý và
được pháp luật quy định chặt chẽ để tránh
sự lạm dụng, vi phạm quyền tự do hợp đồng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay,
yếu tố thỏa thuận trong giao kết hợp đồng
được đề cao. Tất cả các hợp đồng có hiệu
lực pháp luật đều là hệ quả sự thỏa thuận
cho dù sự thỏa thuận đó được thể hiện ở
hình thức này hay hình thức khác. Tuy
nhiên, không thể suy luận ngược lại là mọi
sự thỏa thuận của các bên đều là hợp đồng,
bởi sự thỏa thuận chỉ được coi là hợp đồng
nếu những thỏa thuận đó phù hợp với ý chí
của các bên, tức là có sự ưng thuận đích thực
của các bên. Hợp đồng phải là giao dịch hợp
pháp, do vậy, sự ưng thuận ở đây phải là sự
ưng thuận hợp lẽ công bằng, không trái pháp
luật, đạo đức xã hội. Các hợp đồng được
giao kết dưới tác động của lừa dối, đe dọa,
cưỡng bức hoặc mua chuộc là không có sự
ưng thuận đích thực. Những trường hợp có
sự lừa dối, đe dọa, cưỡng bức thì dù có sự
ưng thuận cũng không được coi là hợp đồng,
tức là hợp đồng thuộc các trường hợp vô
hiệu theo quy định của pháp luật. Như vậy,
mọi sự thỏa thuận không thể hiện ý chí đích
thực của các bên thì không phát sinh các
quyền và nghĩa vụ pháp lý theo hợp đồng.
Khi so sánh sự thỏa thuận trong hợp
đồng thông thường với sự thỏa thuận trong
hợp đồng gia nhập có thể thấy sự thỏa thuận
trong hợp đồng gia nhập đã bị cắt đi do quá
trình đàm phán, thương lượng không được
hình thành giữa thương nhân và người tiêu
dùng, hay nói một cách khác thì sự thỏa
thuận chỉ mang tính lý thuyết. Điều này xuất
phát từ đặc trưng của hợp đồng gia nhập là
dạng hợp đồng đã được chuẩn hóa các điều
kiện và điều khoản để sử dụng thường
xuyên cho một loại hàng hóa, dịch vụ nhất
định và được soạn thảo bởi một bên tham
gia hợp đồng (thường là bên có vị thế mạnh
như người bán hàng, bên cung ứng dịch vụ,
ngân hàng hay công ty bảo hiểm) để giao
dịch với nhiều người (người tiêu dùng) và
thường được cho là có hiệu lực miễn là nó
hợp lý và công bằng với bên còn lại.
Khi xem xét về yếu tố thỏa thuận trong
hợp đồng nói chung và hợp đồng gia nhập
nói riêng, có thể thấy là ngoài yếu tố mục
đích mà các bên hướng tới khi giao kết hợp
đồng thì cần phải xem xét thấu đáo đến hai
yếu tố cơ bản cấu thành lên sự thỏa thuận đó
là: tự do ý chí và sự ưng thuận.
Tự do ý chí là một nguyên tắc cơ bản của
giao kết hợp đồng nói chung (principle de l’
autonomie de la volonté - the principle of autonomy)
và được thể hiện khá dài dòng trong khoản 2
Điều 3 BLDS năm 2005 tại Điều 410. Mặc dù
27
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Computer & Technology Law Journal, 2000,
business/644084-1.html.
10 Khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự: Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực
hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa
thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được
chủ thể khác tôn trọng.
nguyên tắc tự do ý chí được quy định dài dòng
như vậy trong luật thực định, nhưng hiểu
chung nhất thì đó chính là việc tổ chức, cá
nhân có quyền tự do giao kết hợp đồng theo ý
chí của mình nhưng không được trái pháp
luật, trái đạo đức xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của bên thứ ba. Trong đó, việc không
được trái pháp luật, trái đạo đức xã hội cũng
như không được làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của bên thứ ba chính là
những hạn chế được đặt ra đối với nguyên tắc
tự do ý chí này, do đó, tự do ý chí trong hợp
đồng không phải là sự tự do tuyệt đối.
Sau khi ý chí của các bên giao kết hợp
đồng được tự do thể hiện trong khuôn khổ
quy định của pháp luật như đã đề cập thì
bước tiếp theo là ý chí đó sẽ gặp nhau và có
thể được thống nhất dẫn đến hệ quả là hợp
đồng được giao kết. Thông thường, một bên
của hợp đồng (bên đề nghị) sẽ đưa ra ý chí
của mình trước, bên còn lại (bên được đề
nghị) tiếp xúc với ý chí đó, nếu có sự gặp gỡ
giữa ý chí của các bên thì kết quả sẽ tạo ra
một thỏa thuận. Quá trình này chính là quá
trình của sự ưng thuận11. Chính vì vậy, ý chí
chính là nguyên liệu, là tiền đề và sự ưng
thuận chính là một quá trình chế biến
nguyên liệu đó để tạo ra một thỏa thuận, một
hợp đồng. Để một hợp đồng được giao kết
thì ý chí giữa các bên, sự trao đổi giữa các
bên là vô cùng quan trọng và sự ưng thuận
muốn đạt được hiệu quả cao thì thiện chí của
các bên giao kết hợp đồng là nhân tố có ý
nghĩa quyết định. Các bên càng bình đẳng,
thiện chí trong giao dịch, càng hiểu rõ về
nhau thì hợp đồng được giao kết sẽ càng
giảm thiểu được những rủi ro cũng như
tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai.
Xuất phát từ tính chất đặc thù vốn có
của hợp đồng gia nhập cho thấy, yếu tố ưng
thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập đã
không được diễn ra một cách hoàn chỉnh
như trong hợp đồng thông thường mà gần
như chỉ mang tính lý thuyết, bởi thực tiễn
cho thấy là người tiêu dùng thường phải
chấp nhận tất cả các điều kiện và điều khoản
do thương nhân đưa ra mà không có quyền
đàm phán, thương lượng về các điều kiện và
điều khoản đó. Điều này được phản ánh rõ
trong nội hàm định nghĩa về hợp đồng gia
nhập được quy định tại khoản 1 Điều 405
BLDS năm 2005 “Hợp đồng theo mẫu là
hợp đồng gồm những điều khoản do một
bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong
một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị
trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn
bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề
nghị đã đưa ra”.
Như vậy, về cơ bản thì ý chí của hai bên
vẫn được thể hiện trong quá trình giao kết
hợp đồng gia nhập, song quá trình tương tác
các ý chí để từ đó hai bên đồng ý đi đến ràng
buộc quyền và nghĩa vụ với nhau trong hợp
đồng không tồn tại. Nếu sự ưng thuận trong
giao kết hợp đồng thông thường là một quá
trình được thể hiện qua việc các bên đàm
phán, thượng lượng để sửa đổi, bổ sung các
điều kiện và điều khoản của hợp đồng thì sự
ưng thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập
chỉ là một thời điểm và diễn ra khi người
tiêu dùng chấp nhận hoặc không chấp nhận
toàn bộ nội dung của hợp đồng. Do đó, sự
ưng thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập
gần như bị triệt tiêu trên thực tế và đây chính
là điểm khác biệt cơ bản giữa hợp đồng
thông thường và hợp đồng gia nhập liên
quan đến yếu tố thỏa thuận.
Mặc dù hầu như không có quyền đàm
phán, thương lượng về các điều kiện và điều
khoản của hợp đồng gia nhập do thương nhân
28
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 13(317) T7/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
(Xem tiÕp trang 51)
11 Theo cách diễn đạt của tác giả Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo, Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, Phần thứ nhất:
Nguồn gốc của nghĩa vụ (1962), trang 92: “Phân tích sự ưng thuận của các người kết ước, có thể nói rằng sự ưng thuận
này gồm hai yếu tố: Thứ nhất: Sự đề ước (l’ offre on la pollicitation); Thứ hai: Sự ưng nhận (l’ acceptation). Sự ưng
thuận chính là sự thỏa hợp của hai ý chí ấy”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_thoa_thuan_trong_giao_ket_hop_dong_gia_nhap.pdf