Thứ hai, yêu cầu thực hiện trách nhiệm xã
hội ngày càng trở nên quan trọng đối với
doanh nghiệp và cũng trở thành ràng buộc
đối với doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn
liên kết kinh doanh với doanh nghiệp FDI
và doanh nghiệp nước ngoài. Doanh nghiệp
tư nhân Việt Nam phải nhận thức được đây
là một yêu cầu đặc biệt quan trọng, có ảnh
hưởng lớn đến danh tiếng và uy tín của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có chính
sách nhất quán đối với hoạt động trách
nhiệm xã hội với quy trình kiểm soát tốt
các rủi ro về môi trường, xã hội Doanh
nghiệp cũng phải có ý thức trong việc công
bố thông tin về trách nhiệm xã hội trên báo
cáo thường niên về phát triển bền vững.
Hơn thế nữa, Chính phủ cần hỗ trợ doanh
nghiệp bằng cách đưa ra các chính sách yêu
cầu toàn bộ các doanh nghiệp phải công
khai báo cáo phát triển bền vững nhằm đáp
ứng được yêu cầu công khai, minh bạch về
thông tin, mang lại những giá trị tốt đẹp và
bền vững cho cộng đồng và xã hội.
Cuối cùng, trước sự cạnh tranh ngày một
khốc liệt trên thị trường, doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam cần chủ động hơn trong việc
tìm đối tác liên kết kinh doanh để xây dựng
thương hiệu mạnh cho ngành, nhằm cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài và
doanh nghiệp FDI. Mức độ liên kết kinh
doanh giữa các doanh nghiệp phải thật chặt
chẽ để tăng cường mối quan hệ cung cầu,
đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hoá,
xây dựng các kênh phân phối, gia tăng thị
phần. Về chính sách, các cơ quan quản lý
Nhà nước cần tổ chức hiệu quả nhiều hơn
nữa các hoạt động liên kết doanh nghiệp.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần cân nhắc
xem xét sửa đổi, bổ sung các chính sách với
mục tiêu tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh cho doanh nghiệp phát triển.
Tuy đã cố gắng làm rõ thực trạng và tác
động của các nhân tố là cuộc Cách mạng
Công nghiệp 4.0, hoạt động trách nhiệm
xã hội, và mức độ cạnh tranh thị trường
đến liên kết kinh doanh của doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế tư nhân Việt Nam,
nhưng bài viết có hạn chế là chưa tiếp cận
được số liệu và thực hiện nghiên cứu định
lượng để xác nhận thêm các giả thuyết đã
đưa ra trong bài. Vì vậy, các khuyến nghị
chủ yếu dựa trên nghiên cứu định tính nên
không tránh khỏi một phần đánh giá chủ
quan của người viết
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, hoạt động trách nhiệm xã hội và cạnh tranh lên liên kết kinh doanh của kinh tế tư nhân Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
57
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 219- Tháng 8. 2020
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, hoạt
động trách nhiệm xã hội và cạnh tranh lên liên kết
kinh doanh của kinh tế tư nhân Việt Nam1
Đào Thị Thu Giang
Công ty CP VIREX
Hoàng Hà Anh
Trường Đại học Ngoại thương
Ngày nhận: 03/08/2020
Ngày nhận bản sửa: 12/08/2020
Ngày duyệt đăng: 25/08/2020
Liên kết kinh doanh đã và đang mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp thuộc
thành phần kinh tế tư nhân Việt Nam tham gia liên kết. Có nhiều nhân tố tác động
đến sự hình thành cũng như hiệu quả của liên kết kinh doanh mà doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam cần nắm bắt được để có thể khai thác một cách hiệu quả những lợi
ích của liên kết. Bài viết phân tích tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0,
hoạt động trách nhiệm xã hội và cạnh tranh lên liên kết kinh doanh của các doanh
nghiệp tư nhân Việt Nam để đưa ra những khuyến nghị nhằm phát triển và tận dụng
những cơ hội mà liên kết kinh doanh mang lại.
Từ khoá: liên kết kinh doanh, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trách nhiệm xã hội,
cạnh tranh
The impact of the 4th Industrial Revolution, social responsibility, and competition activities on
business linkages of Vietnamese private economy
Abstract: Business linkages have brought lots of benefits to Vietnamese private businesses. There are
many factors affecting the formation and effectiveness of business linkages that private firms need
to capture to exploit the benefits of business linkages. This paper examines the impact of the 4.0
industrial revolution, social responsibility, and competition on business linkages of Vietnamese private
firms in order to suggest solutions to develop and exploit the benefits from these linkages.
Keywords: business linkage, industrial revolution 4.0, social responsibility, competition
Giang Thi Thu Dao
Email: giangdtt@virex.vn
VIREX Joint Stock Company
Anh Ha Hoang
Email: anhhh@ftu.edu.vn
Foreign Trade University
1 Bài viết là sản phẩm thuộc đề tài NCKH cấp Nhà nước, mã số KX.01/16-20.
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, hoạt động trách nhiệm xã hội và cạnh tranh
lên liên kết kinh doanh của kinh tế tư nhân Việt Nam
58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
1. Giới thiệu
Liên kết kinh doanh là tất cả hoạt động
hợp tác giữa các doanh nghiệp nhằm đạt
được mục tiêu phát triển kinh doanh thông
qua liên kết (Schulenburg, 2006; Forsgren,
Holm and Johanson, 2005). Các doanh
nghiệp tiến hành liên kết kinh doanh trên
tinh thần tự nguyện, bình đẳng, hợp tác cùng
có lợi; cùng chia sẻ nguồn lực, lợi ích và
rủi ro (nếu có) dựa trên sự thỏa thuận giữa
các bên khi nhất trí tham gia liên kết kinh
doanh. Theo Eisenhardt và Schoonhoven
(1996), liên kết kinh doanh mở ra những cơ
hội kinh doanh mới, đồng thời giúp doanh
nghiệp có thể tận dụng nguồn lực của đối
tác trong liên kết để hỗ trợ, bổ sung những
nguồn lực doanh nghiệp còn thiếu, từ đó
tận dụng và hiện thực hóa các cơ hội kinh
doanh. Những lợi ích mà liên kết kinh doanh
mang lại cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(SMEs) có thể kể đến bao gồm: hưởng lợi
từ việc chuyển giao công nghệ và đào tạo
thông qua liên kết với các doanh nghiệp lớn
(Đào Thị Thu Giang, 2018); nâng cao năng
suất (Asiedu và Freeman, 2007); tạo lợi
thế cạnh tranh, thu về lợi nhuận, và tham
gia vào thị trường quốc tế (Jun Yeup và
Lê-Yin, 2008). Những lợi ích mà liên kết
kinh doanh mang lại cho các doanh nghiệp
lớn như doanh nghiệp đa quốc gia là giảm
chi phí, tối đa hóa chất lượng, quản lí các
mối quan hệ xã hội, địa chính trị của doanh
nghiệp (Jenkins và cộng sự, 2007).
Lợi ích mà liên kết kinh doanh mang lại
cho doanh nghiệp tham gia liên kết là rất
lớn, tuy nhiên, có rất nhiều nhân tố tác
động đến liên kết kinh doanh của khu vực
kinh tế tư nhân Việt Nam. Doanh nghiệp
khu vực kinh tế tư nhân được hiểu là doanh
nghiệp ngoài nhà nước. Theo Bộ Kế hoạch
và Đầu tư (2020), doanh nghiệp tư nhân có
vốn trong nước thuộc sở hữu tư nhân một
người hoặc nhóm người hoặc thuộc sở hữu
Nhà nước nhưng chiếm từ 50% vốn điều
lệ trở xuống. Loại hình doanh nghiệp tư
nhân gồm: Doanh nghiệp tư nhân; Công ty
hợp danh; Công ty trách nhiệm hữu hạn tư
nhân; Công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn
Nhà nước từ 50% trở xuống; Công ty cổ
phần không có vốn Nhà nước; Công ty cổ
phần có vốn Nhà nước từ 50% trở xuống.
Bài viết này đi sâu phân tích tác động của
một số nhân tố lên liên kết kinh doanh của
kinh tế tư nhân Việt Nam với những mặt
tích cực và những điều còn hạn chế. Cụ
thể, bài viết này phân tích tác động của 3
nhân tố lên liên kết kinh doanh của kinh tế
tư nhân Việt Nam là cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0, mức độ thực hiện trách nhiệm
xã hội, và mức độ cạnh tranh thị trường.
2. Tác động của cuộc Cách mạng Công
nghiệp 4.0 lên liên kết kinh doanh của
kinh tế tư nhân Việt Nam
2.1. Cách mạng Công nghiệp 4.0 và thực
trạng ứng dụng công nghệ trong doanh
nghiệp Việt Nam
Thực tiễn cũng như các vấn đề lý luận trong
thời gian gần đây đã đưa ra nhiều nhân tố
mới có tác động sâu sắc, thậm chí có thể
thay đổi cả bản chất các mối liên kết kinh
doanh cũng như sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân. Trong đó, cuộc Cách mạng
Công nghiệp 4.0 là một trong những nhân
tố có tác động mạnh mẽ nhất đến liên kết
kinh doanh của kinh tế tư nhân Việt Nam.
Nhân loại đã trải qua 03 cuộc Cách mạng
Công nghiệp và cuộc Cách mạng Công
nghiệp lần thứ 4 (Cách mạng Công nghiệp
4.0) đã bắt đầu trên phạm vi toàn cầu. Theo
Nguyễn Thị Hiền và Đỗ Thị Bích Hồng
(2017), tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới lần
thứ 46, GS. Klaus Schwab cho rằng, cuộc
ĐÀO THỊ THU GIANG - HOÀNG HÀ ANH
59Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Cách mạng Công nghiệp 4.0 dựa trên nền
tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các
công nghệ thông minh để tối ưu hoá quy
trình, phương thức sản xuất. Đây là xu
hướng hiện tại của tự động hoá và trao
đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó
bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng
Internet kết nối vạn vật và điện toán đám
mây.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020), doanh
nghiệp tư nhân mà chủ yếu là SMEs của
Việt Nam chiếm khoảng 96% tổng số
doanh nghiệp, với nhiều hạn chế cơ bản
như: Quy mô nhỏ, thậm chí siêu nhỏ với
mức vốn chỉ ở mức từ 4 - 7 tỷ đồng; trình
độ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo
còn thấp, chưa tham gia được vào chuỗi
giá trị sản xuất toàn cầu... Bên cạnh đó,
80% đến 90% máy móc sử dụng trong các
doanh nghiệp Việt Nam là nhập khẩu, gần
80% là những công nghệ cũ từ thập niên
1980 - 1990; khoảng 75% số máy móc và
trang thiết bị đã hết khấu hao, năng suất
sản xuất thấp (Hà Thị Hương Lan, 2019).
Các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam chưa
sẵn sàng trong việc tiếp cận và đưa công
nghệ cao vào sản xuất. Điều này được thể
hiện rõ trong nghiên cứu của Chương trình
Phát triển Liên hiệp quốc, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, và Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam (2019) về sự sẵn sàng tiếp cận
Cách mạng Công nghiệp 4.0 của các doanh
nghiệp thuộc các ngành công nghiệp chế
biến chế tạo Việt Nam. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác
trong nhau ngành công nghiệp chế biến
chế tạo Việt Nam được đánh giá ở mức
đang đứng ngoài cuộc Cách mạng Công
nghiệp 4.0. Tỉ lệ doanh nghiệp của các tiểu
ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt
Nam được đánh giá ở mức “ngoài cuộc”
nằm trong khoảng 73 - 92%; ở mức “mới
bắt đầu” nằm trong khoảng 4 - 25% và số
doanh nghiệp ở mức “trình độ cơ bản” là
khoảng 1 - 6% còn lại.
Có một thực tế là các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp tư nhân Việt
Nam nói riêng có xu hướng đầu tư hướng
đến việc duy trì hoặc tăng năng lực sản
xuất nhưng hiếm khi hướng tới nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như
đa dạng hóa và đổi mới. Theo báo cáo “Việt
Nam: Nâng cao năng lực cạnh tranh doanh
nghiệp và liên kết doanh nghiệp vừa và nhỏ”
của Ngân hàng Thế giới (Worl Bank - WB,
2018), dựa trên sự đầu tư vào công nghệ và
tự động hoá, khoảng 23% các doanh nghiệp
Việt Nam tuyên bố đã giới thiệu một sản
Hình 1. Tỷ lệ doanh nghiệp ở các mức độ sẵn sàng tiếp cận công nghiệp 4.0
Nguồn: Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, và
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2019)
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, hoạt động trách nhiệm xã hội và cạnh tranh
lên liên kết kinh doanh của kinh tế tư nhân Việt Nam
60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
phẩm hoặc dịch vụ mới, hoặc sản phẩm cũ
được cải thiện đáng kể so với ba năm trước
dựa trên ứng dụng công nghệ cao hơn. Dữ
liệu cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam
tìm cách cải tiến sản phẩm và quy trình
của họ không kém các doanh nghiệp cùng
ngành ở các quốc gia khác trong khu vực
như là Lào, Cam-pu-chia, Malaysia, Thái
Lan. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam
hiếm khi giới thiệu các sản phẩm mới và
có chức năng hoàn toàn mới so với các sản
phẩm hiện có. Mặc dù một tỷ lệ đáng kể
các doanh nghiệp vẫn đầu tư cho hoạt động
nghiên cứu và phát triển, nhưng rất ít doanh
nghiệp ở Việt Nam được cấp bằng sáng chế
để hiện thực hoá các nỗ lực đổi mới của họ.
Mặt khác, theo khảo sát của
PricewaterhouseCoopers (PWC, 2018) về
Công nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay đầu tư khoảng 9% và
trong 5 năm tới là 22% doanh thu hàng năm
vào hoạt động số hoá doanh nghiệp. Con
số này ở Việt Nam là rất cao so với con
số đầu tư khoảng 5% doanh thu hàng năm
cho hoạt động số hoá doanh nghiệp mà
các doanh nghiệp Hoa Kỳ, Canada, Brazil,
Anh, các nước châu Âu, Nam Phi, Trung
Đông, Trung Quốc, Ấn Độ và Úc... (PWC,
2016).
2.2. Tác động của cuộc Cách mạng Công
nghiệp 4.0 lên liên kết kinh doanh của
kinh tế tư nhân Việt Nam
Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và
đang có những tác động tích cực lên liên
kết kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân
Việt Nam. Cách mạng Công nghiệp 4.0 tạo
ra những cơ hội cho các doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam khi tìm kiếm đối tác trong
việc liên kết kinh doanh để phát triển.. Theo
WB (2018) trong báo cáo “Việt Nam: Nâng
cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và
liên kết doanh nghiệp vừa và nhỏ”, liên kết
kinh doanh các doanh nghiệp nước ngoài
và các doanh nghiệp Việt Nam đã được
hình thành. Tuy nhiên, liên kết kinh doanh
này còn đang rất nhỏ bé. Báo cáo này cũng
khẳng định rằng một số loại hình liên doanh
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có
tiềm năng liên kết cao hơn trong điều kiện
cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.
Yêu cầu về phát triển công nghệ sẽ là động
lực và cơ hội giúp các doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam phát triển trong điều kiện
nắm bắt và thay đổi kịp thời để thích nghi
với công nghệ mới. Cuộc Cách mạng Công
nghiệp 4.0 cho phép doanh nghiệp tiếp cận
với ứng dụng khoa học công nghệ tiện ích,
kỹ thuật hiện đại, từ đó, giúp sử dụng hiệu
quả nguồn lực, tiết kiệm thời gian, nhân
lực, chi phí, và tiếp cận kinh tế quốc tế. Khi
mà doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đạt
được đến trình độ khoa học công nghệ nhất
định, việc tìm kiếm các đối tác liên kết kinh
doanh để cùng nhau phát triển sẽ trở nên
dễ dàng và thiết thực hơn. WB (2018) đã
chỉ ra mối liên quan 2 chiều giữa liên kết
kinh doanh tư nhân trong nước hoặc liên
kết với doanh nghiệp FDI thúc đẩy chuyển
giao và phát triển công nghệ cho Việt Nam,
làm tăng hoạt động sáng tạo và lan toả, và
ngược lại, sự đầu tư và phát triển công nghệ
ở Việt Nam thu hút nhiều liên kết kinh
doanh hơn.
Theo báo cáo của WB (2018), thực tế là tỷ
lệ doanh nghiệp FDI ở Việt Nam sử dụng
nguyên liệu đầu vào được sản xuất từ nội
địa dường như thấp hơn đáng kể so với tỷ
lệ này ở các nước Trung Quốc, Malaysia
và Thái Lan. Doanh nghiệp FDI ở các quốc
gia này được cung cấp gần như toàn bộ
nguyên liệu đầu vào từ nội địa (Hình 2).
Hơn nữa, việc các doanh nghiệp FDI mua
nguyên liệu đầu vào trong nước dường như
ĐÀO THỊ THU GIANG - HOÀNG HÀ ANH
61Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
có mối liên hệ trái chiều với với tỷ trọng
xuất khẩu trực tiếp trong doanh thu và tỷ
lệ sở hữu nước ngoài trong cấu trúc sở
hữu của họ (Hình 3). Việc thiếu các nhà
cung cấp tiềm năng có thể tuân thủ các
tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả và độ tin
cậy của doanh nghiệp nước ngoài đã được
xác định là một trong những hạn chế lớn
trong việc hình thành các mối liên kết kinh
doanh tại Việt Nam. Dữ liệu khảo sát doanh
nghiệp của WB (2018) cho thấy, trong khi
một nửa các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài có chứng nhận chất lượng được
quốc tế công nhận, như ISO 9001 trên các
hệ thống quản lý chất lượng, thì chưa đến
10% doanh nghiệp trong nước có những
chứng chỉ này. Tỷ lệ này tăng lên là 24%
đối với các doanh nghiệp có liên kết kinh
doanh. Nếu nhìn từ góc độ tích cực, nhu
cầu từ thị trường cho thấy cơ hội lớn trong
việc thiết lập liên kết kinh doanh của các
doanh nghiệp trong nước.
3. Hoạt động trách nhiệm xã hội và liên
kết kinh doanh của doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam
3.1. Một số vấn đề chung về hoạt động
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam
Trách nhiệm xã hội là một khái niệm không
còn xa lạ với các doanh nghiệp, nhà quản trị
và nhà nghiên cứu kinh tế. Trách nhiệm xã
hội là một khía cạnh quan trọng của đạo đức
kinh doanh. Có rất nhiều định nghĩa khác
nhau cho khái niệm này, mỗi định nghĩa có
một ý nghĩa và cách tiếp cận riêng. Theo
Mazurkiewicz (2004), trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp là sự cam kết của doanh
nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh
tế bền vững thông qua các hoạt động nhằm
nâng cao chất lượng đời sống của người lao
động và thành viên gia đình họ, cũng như
các hoạt động cho cộng đồng và toàn xã hội
theo cách có lợi nhất cho cả doanh nghiệp
cũng như phát triển chung của xã hội.
Theo Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên
Hiệp Quốc (UNIDO), trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp là một khái niệm quản
lý, theo đó các doanh nghiệp tích hợp các
mối quan tâm xã hội và môi trường trong
hoạt động kinh doanh và tương tác với các
bên liên quan. Trách nhiệm xã hội thường
được hiểu là cách mà một doanh nghiệp
đạt được sự cân bằng giữa phát triển kinh
tế, bảo vệ môi trường và đóng góp cho xã
hội. Thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ trực
tiếp nâng cao danh tiếng, củng cố thương
hiệu của một doanh nghiệp và trách nhiệm
xã hội sẽ còn giúp doanh nghiệp vượt xa
những giới hạn đã có. Diễn giải cụ thể tất
Hình 2. Tỷ lệ doanh nghiệp FDI sử
dụng nguyên liệu đầu vào được
sản xuất từ nội địa của các nước
Hình 3. Mối quan hệ giữa nguồn
cung ứng đầu vào với tỷ lệ xuất khẩu
và với tỷ lệ sở hữu nước ngoài của
doanh nghiệp FDI tại Việt Nam
Nguồn: WB (2018)
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, hoạt động trách nhiệm xã hội và cạnh tranh
lên liên kết kinh doanh của kinh tế tư nhân Việt Nam
62 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
cả nội dung trên về trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp trong thời bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay có thể được
hiểu là: (1) Trách nhiệm với thị trường và
người tiêu dùng; (2) trách nhiệm về bảo vệ
môi trường; (3) trách nhiệm với người lao
động; và (4) trách nhiệm chung với cộng
đồng. Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên
suốt đi cùng sự phát triển kinh tế. Đó là
cần đảm bảo cân bằng, hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, trách
nhiệm xã hội với phát triển xã hội. Tại Việt
Nam, Chính phủ đã ký Quyết định số 1393/
QĐ-TTg năm 2012, phê duyệt “Chiến lược
quốc gia về tăng trưởng xanh” và ban hành
Quyết định số 622/QĐ - TTG năm 2017
về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện
Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển
bền vững phù hợp với các mục tiêu phát
triển bền vững của Liên hợp quốc.
Những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp
tư nhân đã chủ động thực nhiều hoạt động
hiện trách nhiệm xã hội và nhờ đó, thương
hiệu của họ càng được xã hội biết đến. Ví
dụ như “Chương trình Trăng tình thân”
của Công ty Cổ phần Kinh Đô, “Chương
trình Nhịp tim Việt Nam” của Công ty Cổ
phần Xây dựng Coteccons Từ năm 2005,
VCCI, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Bộ Công thương cùng các hiệp hội Da
giày, Dệt may tổ chức giải thưởng “Trách
nhiệm xã hội hướng tới sự phát triển bền
vững” nhằm tôn vinh các doanh nghiệp
thực hiện tốt công tác trách nhiệm xã hội
trong bối cảnh hội nhập.
Có những doanh nghiệp, bên cạnh việc
đóng góp cho xã hội, lấy người lao động
làm mục tiêu và động lực cho phát triển
doanh nghiệp, ví dụ như trường hợp của
Công ty Cổ phần (CTCP) May 10. Mặc
dù có lực lượng lao động lớn nhưng CTCP
May 10 luôn đảm bảo đầy đủ về chế độ
kèm theo, đó là những chính sách an sinh
về dài hạn nhằm giúp người người lao động
yên tâm gắn bó và cống hiến hết mình với
doanh nghiệp. CTCP May 10 tự hào là
doanh nghiệp duy nhất có trường mầm non,
phòng khám đa khoa tương đương với bệnh
viện cấp huyện, có trường cao đẳng đào tạo
nghề cho người lao động (Nguyễn Hằng,
2018).
Bên cạnh đó, có rất nhiều doanh nghiệp
tư nhân lại thực hiện trách nhiệm xã hội
thông qua việc thân thiện và bảo vệ môi
trường (Hoàng Ngọc Hải, 2019). Có thể kể
đến hệ thống cửa hàng đồ uống Phúc Long,
Highlands Coffee, Cộng Café sử dụng cốc
giấy, túi giấy, ống hút giấy; hệ thống siêu
thị Vinmart sử dụng 100% túi nilong tiêu
huỷ được Các doanh nghiệp sản xuất
cũng xu hướng “Sản xuất sạch hơn” bằng
cách ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến
vào sản xuất, nhằm vừa bảo vệ môi trường,
vừa khai thác hiệu quả và tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên. Ví dụ như trường hợp
Tổng Công ty khoáng sản- TKV (Vimico)
vận hành các dự án về môi trường như:
trồng cây xanh hoàn nguyên bãi thải, xử
lý chống thấm các đập hồ thải đã đảm bảo
năng lực chứa an toàn cho hồ chứa quặng
đuôi, tạo môi trường cảnh quan xanh, sạch,
đẹp. Nguồn nước tại các nhà máy cũng đã
được đơn vị thu về hồ và thực hiện các giải
pháp kỹ thuật để dùng tuần hoàn lại. Có
đến 70-80% nước thải được chi nhánh xử
lý tuần hoàn lại nên không xảy ra tình trạng
thiếu nước khi sản xuất và không có vấn đề
về môi trường đối với nước thải của doanh
nghiệp (Thảo Nguyên, 2018).
Bên cạnh các tấm gương tốt, cũng còn tồn
tại các doanh nghiệp chưa nghiêm túc trách
nhiệm xã hội của mình. Điều đó thể hiện
ở các hành vi gian lận trong kinh doanh,
sản xuất hàng kém chất lượng, cố ý gây ô
ĐÀO THỊ THU GIANG - HOÀNG HÀ ANH
63Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
nhiễm môi trường để tối đa hóa lợi nhuận.
Chẳng hạn như trường hợp của Công ty
TNHH Hải sản Thịnh Phát xả chất thải ra
suối Lương Hoà (tỉnh Khánh Hoà), Công
ty CP Sonadezi Long Thành xả thải ra rạch
Bà Chèo (tỉnh Đồng Nai), Công ty mía
đường Hoà Bình xả thải làm cá chết hàng
loạt trên sông Bưởi (tỉnh Hoà Bình) (Tuyết
Nhung, 2016) Ngoài ra, việc các doanh
nghiệp khai thác bừa bãi thiếu quy hoạch
các tài nguyên khoáng sản từ dầu khí đến
than đá, quặng đã và đang gây tổn thất
lớn nguồn tài nguyên không tái tạo được
của Việt Nam.
3.2. Tác động của hoạt động trách nhiệm
xã hội lên liên kết kinh doanh của doanh
nghiệp tư nhân Việt Nam
Hoạt động trách nhiệm xã hội có những tác
động nhất định đến liên kết kinh doanh của
doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Khi mà
mục đích của liên kết kinh doanh là hợp
tác giữa các doanh nghiệp nhằm đạt được
mục tiêu phát triển kinh doanh, các doanh
nghiệp có thể liên kết với nhau nhằm giảm
thiểu chi phí sản xuất và đây là một trong
những lợi ích mà thực hiện trách nhiệm xã
hội có thể mang lại cho doanh nghiệp. Ví
dụ, các doanh nghiệp sản xuất không đầu
tư riêng lẻ máy móc thiết bị hiện đại để
xử lý chất thải mà hợp với nhau thành các
cụm sản xuất, khu công nghiệp và đầu tư
hệ thống xử lý chất thải tập trung. Theo báo
cáo từ Tổng cục Thống kê, tính đến năm
2015, 212/283 khu công nghiệp tại Việt
Nam đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống
xử lý nước thải tập trung và không xả thải
ra môi trường.
Yêu cầu thực hiện trách nhiệm xã hội cũng
trở thành ràng buộc đối với doanh nghiệp
nếu muốn liên kết kinh doanh. Hầu hết các
đơn hàng đến từ châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật
Bản đều yêu cầu các doanh nghiệp Việt
Nam áp dụng chế độ lao động tốt (ví dụ
như tiêu chuẩn SA8000 đối với các doanh
nghiệp dệt may) hay đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm (đối với các doanh nghiệp
nông nghiệp và thủy sản). Trong khi đó,
các doanh nghiệp nước ngoài hợp tác kinh
doanh với các doanh nghiệp Việt còn yêu
cầu đáp ứng các tiêu chuẩn quản trị doanh
nghiệp tốt, đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp tài chính và ngân hàng (Hoàng
Ngọc Hải, 2019). Vì vậy, khi đứng trước
các yêu cầu về thực hiện trách nhiệm xã
hội của đối tác liên kết, các doanh nghiệp
tư nhân Việt Nam bắt buộc phải thay đổi và
thực hiện tốt các hoạt động trách nhiệm xã
hội để duy trì liên kết kinh doanh lâu dài và
bền vững.
Như vậy, tác động của hoạt động trách
nhiệm xã hội đến liên kết kinh doanh của
doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là tác động
hai chiều. Khi doanh nghiệp thực hiện tốt
trách nhiệm với xã hội, cơ hội hình thành
các liên kết kinh doanh với các doanh
nghiệp khác để cùng nhau phát triển là lớn
hơn. Ngược lại, khi không thực hiện đầy đủ
và có chất lượng các hoạt động trách nhiệm
xã hội, sẽ rất khó để doanh nghiệp có thể
hình thành các liên kết kinh doanh. Thậm
chí, các đối tác hiện tại cũng sẽ rời bỏ
doanh nghiệp để hình thành liên kết kinh
doanh khác.
4. Mức độ cạnh tranh trên thị trường và
liên kết kinh doanh của doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam
4.1. Thực trạng mức độ cạnh tranh của
thị trường Việt Nam
Mức độ cạnh tranh của một vùng kinh tế
được đo lường dưới rất nhiều thông số.
Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF,
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, hoạt động trách nhiệm xã hội và cạnh tranh
lên liên kết kinh doanh của kinh tế tư nhân Việt Nam
64 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
2019) công bố trong Báo cáo Năng lực
cạnh tranh toàn cầu năm 2019 (The Global
Competitiveness Report 2019), Việt Nam
đứng vị trí thứ 67/141 quốc gia và vùng
lãnh thổ trong bảng xếp hạng, tăng 10 bậc
so với năm trước khi ở vị trí 77/140. So với
các quốc gia trong cùng khu vực, Việt Nam
xếp dưới Singapore (thứ 1), Malaysia (thứ
27), Thái Lan (thứ 40), Phillippines (thứ
64); và xếp trên Cam-pu-chia (thứ 106),
Lào (thứ 113), và các nước ASEAN khác
không được xếp hạng.
Không có quốc gia nào phát triển kinh tế
thành công mà không mở cửa cho thương
mại quốc tế, đầu tư và sự di chuyển của
người dân. Đây là những nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến năng suất và sự đổi mới của
các doanh nghiệp địa phương do nhân tố
cạnh tranh quốc tế, cùng với áp lực lên
chính quyền địa phương để đưa ra các chính
sách thân thiện với doanh nghiệp hơn. Việt
Nam trở thành thành viên của ASEAN năm
1995, sau đó là ký kết Hiệp định Thương
mại song phương với Mỹ năm 2000 và gia
nhập WTO năm 2007. Năm 2015, Việt
Nam đã ký kết Hiệp định Thương mại tự
do Hàn Quốc Việt Nam và năm 2018 chính
thức ký kết Hiệp định Toàn diện tiến bộ về
quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP). Năm 2019, Việt Nam đã ký kết
Hiệp định EVFTA với Liên minh châu Âu.
Hiệp định này sẽ có hiệu lực trong thời gian
tới và được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều lợi
ích cho lĩnh vực xuất khẩu đi Châu Âu của
Việt Nam.
Thương mại và cạnh tranh là các cấu phần
thiết yếu và quan trọng trong chuỗi giá trị
toàn cầu, là động lực chính của việc làm,
năng suất, và tăng trưởng ở tất cả các quốc
gia. Việt Nam đang tiếp cận một cách tự tin
để phát triển hơn nữa nền kinh tế và củng
cố khả năng cạnh tranh trên trường quốc
tế. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020),
Việt Nam duy trì mức tăng GDP và GDP
đầu người trung bình là 6% trong 30 năm
trở lại đây, thể hiện Việt Nam một quốc gia
có môi trường kinh doanh khá hấp dẫn cho
các nhà đầu tư nước ngoài và có thể cạnh
tranh với các quốc gia khác trong khu vực.
Thị trường Việt Nam được coi là một thị
trường tiềm năng, là nơi thu hút lượng lớn
dòng vốn FDI hàng năm (WB, 2018). Bộ
Kế hoạch và Đầu tư (2020) cho thấy, trong
những năm gần đây, lượng FDI thu hút và
giải ngân vào Việt Nam đều tăng, trung
bình tăng ở mức 9% mỗi năm. Sự gia tăng
của FDI và xuất khẩu được dự báo sẽ tiếp
tục do các hiệp định thương mại tự do mới
mà Việt Nam đồng ý tham gia.
4.2. Tác động của mức độ cạnh tranh trên
thị trường lên liên kết kinh doanh của
doanh nghiệp tư nhân Việt Nam
Từ thực trạng mức độ cạnh tranh, có thể
thấy thị trường Việt Nam đang ở một vị
thế sẵn sàng cho sự phát triển thịnh vượng
và bền vững. Theo Báo cáo Năng lực cạnh
tranh Việt Nam của Viện Nghiên cứu Quản
lý Kinh tế Trung ương và Học viện Năng
lực Cạnh tranh Châu Á (2010), mức độ
mở cửa của thị trường Việt Nam tương đối
lớn. Tuy nhiên, trong khi các công ty nước
ngoài đánh giá môi trường ở Việt Nam là
khá cởi mở thì các doanh nghiệp tư nhân
trong nước lại đang phải chật vật khẳng
định vai trò lớn hơn của mình trong nền
kinh tế. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
chủ yếu vẫn tập trung về giá và đối đầu trực
tiếp, chứ không phải dựa trên chất lượng và
khác biệt hoá sản phẩm dịch vụ.
Cũng theo báo cáo này, các cụm liên kết
kinh doanh hình thành một cách tự phát chủ
yếu là do các doanh nghiệp cùng ngành quy
tụ về mặt địa lý để thuận lợi cho việc tiến
ĐÀO THỊ THU GIANG - HOÀNG HÀ ANH
65Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
hành các hoạt động kinh tế tương tự nhau.
Nhưng hoạt động và sự liên kết trong các
cụm liên kết kinh doanh chỉ tập trung vào
một số lĩnh vực hẹp, ví dụ như cụm du lịch
miền Trung, cụm dầu khí vùng Đông Nam
Bộ, cụm nông sản vùng đồng bằng Sông
Cửu Long. Các cụm công nghiệp nhẹ hoặc
chế biến xuất khẩu thường tập trung nhiều
ở phía Nam, khu vực xung quanh thành phố
Hồ Chí Minh như là dệt may, da giầy, chế
biến thực phẩm, điện tử Trong khi các
cụm công nghiệp nặng, sử dụng nhiều vốn
thường có xu hướng tập trung ở phía Bắc
nhiều hơn, khu vực xung quanh Hà Nội và
các tỉnh lân cận như là cụm cơ khí ô tô,
xe máy, điện tử điện lạnh, đóng tàu... Theo
Báo cáo Năng lực cạnh tranh Việt Nam
năm 2010, sự phân bổ của các cụm liên kết
kinh doanh tại Việt Nam là do điều kiện
tiếp cận đất đai và cơ sở hạ tầng. Điều này
cũng sẽ xảy ra với các ngành và sản phẩm
khác. Do đó, có thể kết luận rằng, sự hình
thành cụm liên kết kinh doanh ở Việt Nam
chủ yếu là do nhân tố cơ sở hạ tầng, lao
động giá rẻ chứ ko phải vì mục đích liên kết
kinh doanh để thắt chặt mối quan hệ cung
cầu, mở rộng thị phần, cạnh tranh, và cùng
phát triển ngành.
Theo Tiến sĩ Đoàn Duy Khương, Phó Chủ
tịch VCCI, Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Kinh
doanh Asean (ASEAN-BAC) năm 2019,
nhận thức của các doanh nghiệp tư nhân
Việt Nam về tầm quan trọng của liên kết
kinh doanh vẫn còn hạn chế, đặc biệt là
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tế cho thấy
hầu hết các doanh nghiệp tư nhân chỉ tập
trung cạnh tranh cho lợi ích riêng lẻ, chỉ
quan tâm đến thương hiệu riêng, sản phẩm
riêng của mình chứ không thấy rõ được
lợi ích to lớn của việc liên kết kinh doanh
để xây dựng thương hiệu cho ngành kinh
doanh của mình. Các doanh nghiệp Việt
Nam còn ít coi trọng sự hợp tác (theo cả
chiều dọc và chiều ngang về ngành nghề)
để tạo nên sự tích tụ vốn, liên kết thị trường
trước sức ép của các đối tác nước ngoài
(Vietnamnet News, 2019).
Tóm lại, theo đánh giá của WB, Việt Nam
là một quốc gia có môi trường cạnh tranh
được đánh giá tương đối tốt (WB, 2018).
Tuy nhiên, các doanh nghiệp tư nhân Việt
Nam lại chưa nắm bắt được cơ hội liên kết
kinh doanh để xây dựng thương hiệu cho
ngành và thu hút được đối tác nước ngoài.
Đây cũng là sức ép rất lớn cho các doanh
nghiệp tư nhân Việt Nam phải có sự đầu
tư đúng đắn cho việc hình thành những
liên kết kinh doanh trong tương lai. Đây
là một nhiệm vụ khả thi đối với các doanh
nghiệp tư nhân Việt Nam khi có rất nhiều
hoạt động liên kết các doanh nghiệp như
là chương trình Diễn đàn doanh nghiệp
Việt Nam, chương trình Phát triển hiệp
hội doanh nghiệp địa phương, chương
trình Xúc tiến thương mại- đầu tư theo thị
trường, ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh cụ
thể, các hoạt động cung cấp và tư vấn cho
các doanh nghiệp, chương trình Tôn vinh
Thương hiệu nổi tiếng Việt Nam đã được
VCCI tổ chức hàng năm. Các chương trình
này nhằm kết nối các doanh nghiệp, vận
động và hỗ trợ các doanh nghiệp khai thác
thế mạnh của nhau, cùng tạo nên những
sản phẩm chất lượng và uy tín để xây dựng
thương hiệu ngành hàng lớn mạnh, chiếm
lĩnh thị trường nội địa và đủ sức cạnh tranh
ở thị trường quốc tế, tăng cường khả năng
liên kết các ngành kinh doanh, sản xuất
đảm bảo cho sự phát triển doanh nghiệp
bền vững.
5. Kết luận và khuyến nghị
Bài viết đã tìm hiểu và đánh giá tác động
của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, hoạt
động trách nhiệm xã hội, và mức độ cạnh
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, hoạt động trách nhiệm xã hội và cạnh tranh
lên liên kết kinh doanh của kinh tế tư nhân Việt Nam
66 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
tranh thị trường đến liên kết kinh doanh của
doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư
nhân Việt Nam. Đứng trước các tác động
mạnh mẽ của các nhân tố này lên liên kết
kinh doanh của doanh nghiệp, nhóm tác
giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát
triển liên kết kinh doanh kinh tế tư nhân
Việt Nam.
Thứ nhất, cuộc Cách mạng Công nghiệp
4.0 đã có những tác động tích cực, tạo ra
cơ hội cho khu vực kinh tế tư nhân Việt
Nam trong việc tìm kiếm và mở rộng liên
kiết kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân
Việt Nam để có thể tăng cường liên kết
kinh doanh thì cần đẩy mạnh đầu tư nghiên
cứu các công nghệ và giải pháp tiên tiến;
ứng dụng những công nghệ và giải pháp
nhằm cải thiện chất lượng sản phẩm dịch
vụ, tự động hoá quy trình sản xuất, tạo ra
sản phẩm mới nhằm đáp ứng yêu cầu của
đối tác liên kết, đặc biệt là đối tác liên kết
là doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nước
ngoài. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần
tăng cường hoạt động huấn luyện và đào
tạo các kỹ năng mới cho toàn bộ người lao
động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Về phía Chính
phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước cần
đưa ra các chính sách khuyến khích và hỗ
trợ nhằm nâng cao năng lực công nghệ, cải
tiến quy trình sản xuất, áp dụng công nghệ
tiên tiến, phát triển sản phẩm mới, và bảo
vệ tài sản trí tuệ của doanh nghiệp. Đồng
thời, Chính phủ cần đổi mới lĩnh vực giáo
dục, đào tạo, dạy nghề theo hướng hội nhập
quốc tế, tạo và bổ sung để phát triển nguồn
nhân lực có kỹ năng phù hợp, có thể tiếp
thu và làm chủ công nghệ cao.
Thứ hai, yêu cầu thực hiện trách nhiệm xã
hội ngày càng trở nên quan trọng đối với
doanh nghiệp và cũng trở thành ràng buộc
đối với doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn
liên kết kinh doanh với doanh nghiệp FDI
và doanh nghiệp nước ngoài. Doanh nghiệp
tư nhân Việt Nam phải nhận thức được đây
là một yêu cầu đặc biệt quan trọng, có ảnh
hưởng lớn đến danh tiếng và uy tín của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có chính
sách nhất quán đối với hoạt động trách
nhiệm xã hội với quy trình kiểm soát tốt
các rủi ro về môi trường, xã hội Doanh
nghiệp cũng phải có ý thức trong việc công
bố thông tin về trách nhiệm xã hội trên báo
cáo thường niên về phát triển bền vững.
Hơn thế nữa, Chính phủ cần hỗ trợ doanh
nghiệp bằng cách đưa ra các chính sách yêu
cầu toàn bộ các doanh nghiệp phải công
khai báo cáo phát triển bền vững nhằm đáp
ứng được yêu cầu công khai, minh bạch về
thông tin, mang lại những giá trị tốt đẹp và
bền vững cho cộng đồng và xã hội.
Cuối cùng, trước sự cạnh tranh ngày một
khốc liệt trên thị trường, doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam cần chủ động hơn trong việc
tìm đối tác liên kết kinh doanh để xây dựng
thương hiệu mạnh cho ngành, nhằm cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài và
doanh nghiệp FDI. Mức độ liên kết kinh
doanh giữa các doanh nghiệp phải thật chặt
chẽ để tăng cường mối quan hệ cung cầu,
đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hoá,
xây dựng các kênh phân phối, gia tăng thị
phần. Về chính sách, các cơ quan quản lý
Nhà nước cần tổ chức hiệu quả nhiều hơn
nữa các hoạt động liên kết doanh nghiệp.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần cân nhắc
xem xét sửa đổi, bổ sung các chính sách với
mục tiêu tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh cho doanh nghiệp phát triển.
Tuy đã cố gắng làm rõ thực trạng và tác
động của các nhân tố là cuộc Cách mạng
Công nghiệp 4.0, hoạt động trách nhiệm
xã hội, và mức độ cạnh tranh thị trường
đến liên kết kinh doanh của doanh nghiệp
ĐÀO THỊ THU GIANG - HOÀNG HÀ ANH
67Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
thuộc thành phần kinh tế tư nhân Việt Nam,
nhưng bài viết có hạn chế là chưa tiếp cận
được số liệu và thực hiện nghiên cứu định
lượng để xác nhận thêm các giả thuyết đã
đưa ra trong bài. Vì vậy, các khuyến nghị
chủ yếu dựa trên nghiên cứu định tính nên
không tránh khỏi một phần đánh giá chủ
quan của người viết ■
Tài liệu tham khảo
1. Asiedu and Freeman (2007). ‘The Effect of Globalization on the Performance of Small- and Medium-Sized
Enterprises in the United States: Does Owners’ Race/Ethnicity Matter?’. Globalization and economic outcomes for
minority groups, 07 (2)
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020). Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2020. NXB Thống kê.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016). Thanh tra hạ tầng BVMT. Truy cập ngày 20/06/2020 từ < https://thanhtra.
com.vn/theo-dong-thoi-cuoc/Thanh-tra-ha-tang-BVMT-110557.html>
4. Chính phủ (2012). Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Chính phủ về Chiến lược quốc gia về tăng
trưởng xanh.
5. Chính phủ (2012). Quyết đinh số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Chính phủ về Chiến lược phát triển khoa học và
công nghệ giai đoạn 2011–2020.
6. Chính phủ (2017). Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Chính phủ về Kế hoạch hành động quốc gia
thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
7. Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, và Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
(2019). Báo cáo “Năng suất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam”.
8. Đào Thị Thu Giang (2018). ‘Vai trò của liên kết kinh doanh đối với việc phát triển kinh tế tư nhân và kinh nghiệm
của Nhật Bản’. Kỷ yếu hội thảo Liên kết kinh doanh để phát triển kinh tế tư nhân: Lý thuyết và thực tiễn, Hà Nội, Đại
học Ngoại thương.
9. Dost, Najim, Jaime Frias, Irene Liu, Ziang Tony Ngo, and Markus Taussig (2008). ‘Analysis and Recommendations
on the Development of Vietnam’s Electronic Cluster’. Harvard Business School
10. Eisenhardt K.M and Schoonhoven C.B (1996). ’Resource-based View of Strategic Alliance Formation: Strategic
and Social Effects in Entrepreneurial Firms’. Organization Science, 1996, 7(2), p. 136-150.
11. Forsgren, M., Holm, U., and Johanson, J. (2005) Managing the embedded multinational: A business network view.
Cheltenham: Edward Elgar.
12. Hà Thị Hương Lan (2019). Giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0. Truy
cập ngày 10/6/2020 từ <
cuoc-cach-mang-cong-nghiep-40-302110.html>
13. Hoàng Ngọc Hải (2019). Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Truy
cập ngày 11/6/2020 từ <
nam-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te-310809.html>
14. ILO (1988), Current International Recommendations on Labour Statistics, 1988 Edition, ILO, Geneva, p. 47
15. Jenkins, Beth, Anna Akhalkatsi, Brad Roberts, and Amanda Gardiner (2007). Business Linkages: Lessons,
Opportunities, and Challenges. CSR Initiative Report No. 16. Cambridge, MA: Harvard Kennedy School.
16. Jun Yeup, K., and Le-Yin, Z, (2008). ‘Formation of Foreign Direct Investment Clustering- A new path to local
economic development? The case of Qingdao’. Region studies, 22(2), 265-280.
17. Kuchiki, A. (2004). Industrial Clusters In Asia. Chiba.
18. Mazurkiewicz, P. (2004), Corporate environmental responsibility: Is a common CSR framework posssible?. World Bank.
19. Nguyễn Hằng (2018). Phát triển doanh nghiệp phải gắn với trách nhiệm xã hội. Truy cập ngày 08/6/2020 từ
20. Nguyễn Thị Hiền và Đỗ Thị Bích Hồng, (2017). Tác động của cách mạng công lần thứ 4 tới lĩnh vực tài chính ngân
hàng. Truy cập ngày 15/6/2020 từ <
thu-4-toi-linh-vuc-tai-chinh-ngan-hang-126472.html>
21. PWC (2018). Industry 4.0 Vietnam Survey 2018, Access on 09/06/2020 at < https://www.pwc.com/vn/en/
publications/2018/pwc-vietnam-industry-40-report-en.pdf>
22. Schulenburg (2006). Promoting Business Linkages: Overview and Tool, Economic Reform and Private Sector
Development Section, Deutsche Gesellschaft für.
23. Tạp chí tài chính (2019). Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Kinh nghiệm ở một số quốc gia và khuyến nghị
cho Việt Nam. Truy cập ngày 15/6/2020 từ <
doanh-nghiep-kinh-nghiem-mot-so-quoc-gia-va-khuyen-nghi-cho-viet-nam-302704.html>
24. Thảo Nguyên (2018). Giải pháp nào giúp doanh nghiệp bảo vệ môi trường và giảm chi phí sản xuất?. Truy cập
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, hoạt động trách nhiệm xã hội và cạnh tranh
lên liên kết kinh doanh của kinh tế tư nhân Việt Nam
68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
ngày 15/6/2020 từ < https://bnews.vn/giai-phap-nao-giup-doanh-nghiep-bao-ve-moi-truong-va-giam-chi-phi-san-
xuat-/101518.html>
25. Tuyết Nhung (2016). “Điểm Mặt” 10 Công Ty Gây Ô Nhiễm Nghiêm Trọng Nhất Ở Việt Nam. Truy cập ngày
15/6/2020 từ <
trong-nhat-o-viet-nam-1840492.html>
26. UNIDO (2020). Access at < https://www.unido.org/our-focus/advancing-economic-competitiveness/competitive-
trade-capacities-and-corporate-responsibility/corporate-social-responsibility-market-integration/what-csr> on
10/6/2020
27. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương và Học viện Năng lực Cạnh tranh Châu Á (2010). Báo cáo Năng lực
cạnh tranh Việt Nam. Asia Competitiveness Institute.
28. Vietnamnet News (2019). Chủ tịch Phạm Nhật Vượng chỉ ra một điểm sẽ khiến doanh nghiệp Việt ‘hỏng, không
thể lớn được’ và đây là lời giải của Jack Ma. Truy cập ngày 15/6/2020 từ < https://ictnews.vietnamnet.vn/khoi-nghiep/
chu-tich-pham-nhat-vuong-chi-ra-mot-diem-se-khien-doanh-nghiep-viet-hong-khong-the-lon-duoc-va-day-la-loi-giai-
cua-jack-ma-34401.html >
29. World Bank (2018). Vietnam: Enhancing Enterprise Competitiveness and SME Linkages. Access on 09/6/2020 at <
https://elibrary.worldbank.org/doi/pdf/10.1596/30047>
30. World Economic Forum (2019). The Global Competitiveness Index 2019. Access on 10/6/2020 at <
weforum.org/docs/WEF_TheGlobalCompetitivenessReport2019.pdf>
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_cuoc_cach_mang_cong_nghiep_hoat_dong_trach_nhie.pdf