Nghiên cứu sử dụng tập dữ liệu
63 tỉnh, thành tại Việt Nam giai
đoạn từ năm 2000 đến 2017 với
1034 quan sát, áp dụng mô hình
hồi quy bằng phương pháp ước
lượng FEM và phương pháp GLS
đối với biến phụ thuộc tăng trưởng
kinh tế, các biến độc lập lần lượt là
vốn đầu tư và lực lượng lao động.
Kết quả nghiên cứu cho rằng, vốn
đầu tư khu vực công bằng ngân
sách nhà nước (GISB), vốn đầu tư
từ khu vực tư trong nước (PI), vốn
đầu tư từ khu vực FDI (FDI), lực
lượng lao động hàng năm (L) có
mối quan hệ đồng biến và tác động
tích cực đối với tăng trưởng kinh
tế tại Việt Nam, giai đoạn từ năm
2000 đến năm 2017. Bên cạnh đó,
vốn đầu tư khu vực công bằng vốn
vay (GIL) chưa xác định được mối
quan hệ đối với tăng trưởng kinh tế
tại Việt Nam.
Từ những kết quả phân tích
trên, tác giả đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện hơn cơ cấu đầu tư
hiện nay như sau:
(i) Tăng cường đầu tư công
bằng ngân sách nhà nước dựa trên
chất lượng dự án đảm bảo được tốc
độ hoàn thành và phát triển bền bền
vững, tránh tình trạng đầu tư dàn
trải và nợ đọng vốn đầu tư, nếu tình
trạng này tích tụ nhiều năm, gây
lãng phí cực lớn dẫn đến hiệu quả
đầu tư thấp. Vấn đề này được thể
hiện ở giá trị đầu tư công bằng nợ
không có ý nghĩa thống kê.
(ii) Khu vực kinh tế tư nhân tác
động lên tăng trưởng kinh tế được
thể hiện rõ ràng và hiệu quả hơn
đầu tư công do đó cần tạo điều kiện
cho khu vực tư tăng cường phát
triển, hợp tác hai khu vực công, tư
trong việc thực hiện đầu tư bên
cạnh các hình thức truyền thống
như hiện nay cần được đẩy nhanh
tiến độ hơn hay theo Khan và
Kumar (1997), đầu tư tư nhân có
thể sẽ bị lấn át bởi đầu tư công khi
mà đầu tư công tạo ra hàng hóa và
dịch vụ cạnh tranh với khu vực tư
nhân. Có nghĩa là, khi nhà nước
tích cực tham gia vào các dự án
thuộc lĩnh vực thương mại nơi mà
khu vực tư nhân hoạt động có hiệu
quả hơn và đồng thời có năng suất
biên cao hơn so với khu vực công.
Do đó, nên chuyển giao giảm bớt
chức năng đầu tư công để kinh
doanh cho khu vực tư nhân.
(iii) Vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài, đây là khu vực cần
phải thu hút hơn nữa trong tương
lai khi mà các doanh nghiệp FDI
cũng là những đơn vị tiên phong
trong đào tạo, nâng cao trình độ và
tác phong công nghiệp của đội ngũ
công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ
quản lý. Do đó, tăng cường thu hút
đầu tư của nước ngoài sẽ có lợi
cho nhiều mặt về kinh tế - xã hội
Việt Nam.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 327 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Đặt vấn đề
Trong các năm qua, đã có nhiều
nghiên cứu kinh tế về lý thuyết lẫn
thực nghiệm tập trung xem xét tác
động của đầu tư đối với tăng trưởng
kinh tế ở các nước trên thế giới.
Đây cũng là mối quan tâm hàng
đầu và có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc thiết lập hệ thống chính
sách kinh tế thích hợp, để từ đó có
thể định hướng phát triển tốt nhất
cho mỗi quốc gia.
Tại Việt Nam, cơ cấu đầu tư
công tiếp tục được xác định là một
trong ba trọng tâm của Kế hoạch cơ
cấu lại nền kinh tế, giai đoạn 2016-
2020 của nước ta, theo Nghị quyết
số 24/2016/QH14, ngày 08/11/2016
của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu
lại nền kinh tế, giai đoạn 2016-2020
và Nghị quyết số 27/NQ-CP, ngày
21/2/2017 về Chương trình hành
động của Chính phủ. Tuy nhiên, tác
động của đầu tư công theo xu
hướng như thế nào trong quá trình
tăng trưởng kinh tế đến thời điểm
hiện tại vẫn còn nhiều tranh cãi, do
có nhiều kết quả khác biệt khi xem
xét qua các nghiên cứu thực nghiệm
trên thế giới. Vì thế, bằng cách tiếp
cận mô hình hồi quy dữ liệu bảng,
nghiên cứu này với mục tiêu tìm ra
xu hướng tác động của đầu tư công
đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam với giai đoạn từ năm 2000 đến
năm 2017. Từ các phát hiện của
nghiên cứu này, bài viết nhằm
khẳng định thêm cơ sở để cấu trúc
lại cơ cấu đầu tư hiện tại và đề xuất
một số khuyến nghị hoàn thiện
chính sách đầu tư công của Việt
Nam, trong thời gian tới.
2. Cơ sở lý luận và phương
pháp nghiên cứu
2.1 Cơ sở lý luận
Nghiên cứu mối quan hệ giữa
đầu tư công và tăng trưởng kinh tế
được thực hiện bởi nhiều tác giả,
với sự đa dạng về phạm vi, dữ liệu
và phương pháp nghiên cứu. Một
trong những công trình tiên phong,
tiêu biểu nghiên cứu về tác động
của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế
tại các quốc gia đang phát triển là
của Khan và Reinhart (1989).
Nghiên cứu này sử dụng mô hình
sản xuất tân cổ điển, điển hình của
Tác động của đầu tư công
đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam
PGS.TS Phan Đình Khôi*
Ths. Trần Phú Lộc Thành**
Bài viết này phân tích tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, nghiên cứu sử dụng tập dữ liệu của 63 tỉnh, thành
phố tại Việt Nam trong giai đoạn năm 2000- 2017 với 1.034 quan sát,
áp dụng mô hình hồi quy bằng phương pháp ước lượng FEM và phương
pháp GLS đối với biến phụ thuộc tăng trưởng kinh tế. Các biến độc lập
lần lượt là vốn đầu tư và lực lượng lao động.
Kết quả nghiên cứu cho rằng, đầu tư khu vực công bằng ngân sách nhà
nước (GISB), đầu tư từ khu vực tư trong nước (PI), đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài (FDI), lực lượng lao động (L) có tác động tích cực đối với
tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, giai đoạn 2000 – 2017. Bên cạnh đó,
vốn đầu tư khu vực công bằng vốn vay (GIL) chưa xác định được mối
quan hệ đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Từ khóa: Đầu tư công, đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, lực lượng lao động, tăng trưởng kinh tế.
Abtract
This paper is aimed to analyzethe impact of public investment on Viet-
nam’s economic growth, using a dataset of 63 provinces, cities in Viet-
nam from 2000 to 2017 with 1034 observations. Applying FEM
estimation model, GLS estimation method for the dependent variable is
economic growth, and the independent variables are investment capital
and labor force. The results of the study suggest that realized invest-
ment capital under the State budget (GISB), private investment (PI),
foreign direct investment (FDI), labor force (L) have a positive impact
on economic growth in Vietnam from 2000 to 2017. In addition, the
borrowing for public investment (GIL) has not yet determined the rela-
tionship to economic growth in Vietnam.
Keywords: Public investment, private investment, foreign direct invest-
ment, labor force, economic growth.
* Đại học Cần Thơ
** Kho bạc Nhà nước Cần Thơ
Nhận: 01/11/2019
Biên tập: 15/11/2019
Duyệt đăng: 02/12/2019
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 12/2019 41
Nghiên cứu trao đổi
Solow (1956) tách đầu tư tổng
hợpra hai thành phần: Đầu tư tư
nhân và đầu tư công, với số quan sát
dựa trên 24 nền kinh tế đang phát
triển, trong thời gian từ 1970 đến
năm 1979.
Kết quả thực nghiệm đã cho
thấy, đầu tư tư nhân mang lại nhiều
lợi ích hơn là đầu tư công đối với
quá trình tăng trưởng kinh tế tại các
nền kinh tế đang phát triển. Kết quả
tương tự đối với Khan và Kumar
(1997). Một nghiên cứu khác là
Phetsavong và Ichihashi (2012) đã
xem xét tác động của đầu tư công
và đầu tư tư nhân lên tăng trưởng
kinh tế, đối với 15 nền kinh tế châu
Á đang phát triển. Sử dụng bảng dữ
liệu từ 1984 - 2009, kết quả cho
thấy rằng, đầu tư tư nhân có đóng
góp cho tăng trưởng kinh tế cao hơn
so với đầu tư công. Bằng chứng
thực nghiệm cũng cho thấy, đầu tư
công thấp thúc đẩy đầu tư tư nhân,
tuy nhiên khi vượt quá một ngưỡng
nhất định, nó đã có hiệu ứng lấn át
đối với đầu tư tư nhân, kéo theo ảnh
hưởng tiêu cực.
Hay đối với các nước phát triển,
các nghiên cứu hầu hết tập trung
vào các nền kinh tế lớn tại Bắc Mỹ,
châu Âu, cũng như những nền kinh
tế nổi bật nhất châu Á. Tiên phong
trong các nghiên cứu thực nghiệm
về đầu tư và tăng trưởng tại các
nước phát triển trước tiên là tác giả
Aschauer (1989a, 1989b) với
nghiên cứu về sự lấn át của đầu tư
công và đầu tư tư nhân. Trong
nghiên cứu thực nghiệm, Aschauer
(1989a) đã xem xét tác động của
đầu tư công vào cơ sở hạ tầng phi
quân sự lên năng suất và tăng
trưởng GDP ở Hoa Kỳ, trong giai
đoạn từ 1949 - 1985. Kết quả là đầu
tư công có tác động tích cực đáng
kể đến năng suất biên và tăng
trưởng kinh tế, đồng thời cũng cho
thấy rằng giữa đầu tư công và đầu
tư tư nhân là mối quan hệ bổ sung,
tăng cường đầu tư công góp phần
làm tăng trưởng đầu tư tư nhân. Kết
quả này cũng được kiểm nghiệm
sau đó bởi nghiên cứu của Munnell
(1990, 1992) với kết quả tương
đồng, khi đó GDP sẽ tăng lên 1,4%
cho mỗi 10% tăng đầu tư công vào
cơ sở hạ tầng công cộng cho nền
kinh tế Hoa Kỳ.
Đặc biệt, Pereira (2000) nghiên
cứu cho thấy rằng, đầu tư công và
đầu tư tư nhân trong dài hạn có tác
động lên GDP rất đáng kể với tỷ lệ
hoàn vốn 7,8% (kết quả nhỏ hơn ít
nhất gấp ba lần so với báo cáo trước
đó của Aschauer (1989a). Nghiên
cứu phân tách đầu tư công thành
các lĩnh vực khác nhau, đồng thời
cho thấy có sự lấn át của đầu tư
công đối với đầu tư tư nhân. Ngoài
ra, tác giả cũng kết luận rằng tất cả
các loại đầu tư công trong các lĩnh
vực đều có ý nghĩa tích cực với tăng
trưởng kinh tế, mạnh nhất là đầu tư
vào cơ sở hạ tầng ở các lĩnh vực khí
đốt, điện, xây dựng hệ thống giao
thông và hệ thống cấp thoát nước và
các lĩnh vực này có lợi nhuận biên
cao nhất.
Pereira cũng chỉ ra một vài vấn
đề đối với công trình của Aschauer
và Munnell cùng các nghiên cứu
trước đây khác là có mối quan hệ
nhân quả giữa vốn và tăng trưởng.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu
về đầu tư công và tăng trưởng kinh
tế còn khá hạn chế do ảnh hưởng về
tiếp cận nguồn số liệu. Kết quả
phân tích Hoàng Thị Chinh Thon,
Phạm Thị Hương, Phạm Thị Thủy
(2010), dựa trên cơ sở lý thuyết mô
hình của Barro (1990), Devarajan,
Swaroop và Zou (1996), Davoodi
và Zou (1998) chỉ ra mối tác động
giữa chi tiêu cấp tỉnh và cấp huyện
đến tăng trưởng của địa phương.
Tuy nhiên, nghiên cứu thực nghiệm
trên lại cho kết quả ngược lại, phải
tăng tỷ trọng chi tiêu ngân sách
vượt quá mức giới hạn nào đó thì
mới ảnh hưởng tốt tới tăng trưởng
kinh tế của địa phương.
Một nghiên cứu khác của Sử
Đình Thành (2011) xác định mối
quan hệ chi tiêu công và tăng
trưởng kinh tế Việt Nam, sử dụng
phương pháp kiểm định nhân quả
và mô hình ước lượng VAR đa
biến, trong giai đoạn từ năm 1990
đến năm 2010. Kết quả của công
trình nghiên cứu thể hiện chi tiêu
công quan hệ nhân quả với tăng
trưởng kinh tế và không có chiều
ngược lại. Đây là mối quan hệ tích
cực, đồng thời các biến kiểm soát,
vốn ODA, độ mở thương mại, đầu
tư tư nhân và lao động đều có
quan hệ tích cực với tăng trưởng
kinh tế hay nghiên cứu của Trần
Nguyễn Ngọc Anh Thư và Lê
Hoàng Phong (2014) cho thấy
mức độ tác động của thành phần
vốn đầu tư công lên tăng trưởng
kinh tế là kém nhất so với các
thành phần vốn đầu tư từ khu vực
tư nhân trong nước và khu vực
FDI. Cụ thể, nghiên cứu này cho
thấy vốn đầu tư trên GDP của khu
vực công tăng 1% thì làm cho chỉ
số tăng trưởng kinh tế tăng
khoảng 0,197%, trong khi đó tác
động từ khu vực ngoài quốc
doanh là 0,43% và từ khu vực FDI
là 0,32%.
2.2 Mô hình nghiên cứu thực
nghiệm
Các nghiên cứu về sự đóng góp
của đầu tư công và đầu tư tư nhân
lên tăng trưởng kinh tế đã sử dụng
rộng rãi các biến thể của mô hình
tăng trưởng tân cổ điển. Nghiên cứu
này theo cùng một cách tiếp cận để
xem xét mối quan hệ giữa đầu tư
công và tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam. Trên cơ sở kế thừa từ nghiên
cứu của Aschauer (1989), Luis Ser-
ven và Andres Solimano (1993),
Sahoo, P., Dash, R.K. và Nataraj, G.
(2010), nghiên cứu này kết hợp đầu
tư công và một loạt các biến số khác
ảnh hưởng đến tổng sản phẩm nội
địa. Theo quan điểm kinh tế học
hiện đại, có ba yếu tố trực tiếp tác
động đến tăng trưởng là vốn (K),
lao động (L) và yếu tố năng suất
tổng hợp (A). Nếu bỏ qua nhân tố
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 12/201942
Nghiên cứu trao đổi
năng suất tổng hợp (A) thì hàm sản
xuất tổng quát được viết lại dưới
dạng đơn giản sau:
Y = f (K,L) (1)
Có thể xem xét Y là tổng sản
phẩm trên địa bàn tỉnh, thành, phần
vốn đầu tư K bao gồm các thành
phần GISB (vốn đầu tư khu vực
công bằng ngân sách nhà nước),
GIL (vốn đầu tư khu vực công bằng
vốn vay), PI (vốn đầu tư từ khu vực
tư trong nước) và FDI (vốn đầu tư
từ khu vực FDI). Như vậy, hàm sản
xuất (1) có thể viết lại như sau:
Y = f (GISB, GIL, PI, FDI,L) (2)
Phương trình (2) còn có thể
được viết lại dưới dạng hàm sản
xuất Cobb-Douglas như được sử
dụng trong Aschauer (1989), Al-
bala-Bertrand và Mamatzakis
(2001)như sau:
GRDPit = (Lit)b1 (GISBit)b2
(GILit)b3 (PIit)b4 (FDIit)b5 (3)
Hàm sản xuất (3) cho thấy, tăng
trưởng kinh tế (GRDP) phụ thuộc
vào các yếu tố: vốn đầu tư khu vực
công bằng ngân sách nhà nước
(GISB), vốn đầu tư khu vực công
bằng vốn vay (GIL), vốn đầu tư từ
khu vực tư trong nước (PI), vốn đầu
tư từ khu vực FDI (FDI), lực lượng
lao động hàng năm (L) tại tỉnh
thành i, thời gian t. Các biến được
thể hiện ở dạng Logarit cơ số tự
nhiên. Dấu của tất cả các hệ số năng
suất biên b1, b2, b3, b4, b5 được kỳ
vọng là dương. Từ phương trình
(3), có thể viết thành phương trình
hồi quy sau:
lnGRDPit = b0+ b1lnLit +
b2lnGISBit + b3lnGILit + b4lnPIit
+ b4lnFDIit + e (4)
Mô tả các biến:
- Biến tăng trưởng kinh tế:
nghiên cứu sử dụng giá trị GDP
thực tế của các tỉnh, thành (ĐVT:
tỷ đồng, tính theo giá hiện hành),
được sử dụng làm biến phụ thuộc
trong mô hình. Hầu hết các nghiên
cứu thực nghiệm về tác động của
đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế
đều sử dụng chỉ tiêu GDP như là
dẫn xuất cho tăng trưởng kinh tế
(Pereira (2000), Phetsavong và
Ichihashi (2012)).
- Biến vốn: trong xu hướng phát
triển hiện nay các khu vực đầu tư
công, đầu tư tư nhân và đầu tư FDI
đã và đang đóng góp giá trị gia tăng
cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Quan điểm trên
cũng được ủng hộ bởi các nghiên
cứu thực nghiệm tại Việt Nam như
Munnell (1990, 1992) Nguyễn
Ngọc Anh Thư và Lê Hoàng Phong
(2014) Trong nghiên cứu này đưa
ra chỉ tiêu tổng giá trị đầu tư công,
đầu tư tư nhân, đầu tư FDI trong
nước (ĐVT: tỷ đồng) được vào mô
hình phân tích với kỳ vọng là tích
cực (+) đối với tăng trưởng kinh tế
Việt Nam. Ngoài ra, nghiên cứu của
Luis Serven và Andres Solimano
(1993) đã chỉ ra rằng, việc sử dụng
nợ để đầu tư công trong tương lai sẽ
gây những bất lợi đối với khu vực
tư nhân do các chính sách tài chính
có thể sẽ được thực hiện nhằm giảm
áp lực về chi phí sử dụng nợ trong
tương lai; đồng nghĩa sau đó là tỷ lệ
lợi nhuận sau thuế dự kiến sẽ giảm,
tốc độ hình thành vốn mới trong
khu vực tư nhân trở nên chậm hơn
và kéo theo giảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế của quốc gia.
- Biến số lượng lao động: lực
lượng lao động trong nghiên cứu
này là tổng số lao động đang làm
việc tại 63 tỉnh, thành phố qua các
năm, bao gồm những người từ 15
tuổi trở lên đang làm việc hay đang
đi tìm việc. Nghiên cứu này sử
dụng số liệu lao động dựa trên số
liệu dân số làm kinh tế mỗi tỉnh
được thống kê từ Tổng cục Thống
kê (ĐVT: nghìn người). Theo Sử
Đình Thành (2011), số lượng lực
lượng lao động càng tăng sẽ giúp
cho tăng trưởng kinh tế ở địa
phương tăng. Vì vậy, nghiên cứu
này kỳ vọng lao động có mối quan
hệ đồng biến (+) với tăng trưởng
kinh tế.
2.3 Dữ liệu nghiên cứu
Căn cứ trên mô hình nghiên cứu
được chọn, dữ liệu thu thập được
tiếp cận và tổng hợp từ nguồn dữ
liệu thứ cấp tại 63 tỉnh, thành phố.
Cụ thể, các biến tăng trưởng kinh tế
GRDP tổng sản phẩm trên địa bàn
tỉnh, đầu tư công, đầu tư tư nhân,
năng suất lao động được thu thập từ
Niên giám thống kê các tỉnh, thành
từ năm 2000- 2017.
2.4 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện dựa trên
các lý thuyết về mối liên hệ giữa
đầu tư công, đầu tư tư nhân, năng
suất lao động và tăng trưởng kinh
tế; các công trình nghiên cứu lý
thuyết và thực nghiệm trước có liên
quan. Nghiên cứu sử dụng phương
pháp thống kê mô tả, phương pháp
định lượng với kỹ thuật phân tích
hồi quy với tập dữ liệu bảng (Panel
Regression) để xây dựng hai mô
hình hồi quy bội và kiểm định các
giả thiết nghiên cứu đặt ra nhằm
kiểm chứng vai trò của đầu tư công
tác động đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam, giai đoạn 2000 - 2017.
- Hướng tiếp cận mô hình tác
động cố định FEM (Fixed effects
model); tác động ngẫu nhiên REM
(Randomeffects model) và OLS
gộp (Pooled OLS). Đồng thời bài
viết sử dụng các kiểm định Likeli-
hoodratio, Hausman, Modified
Wald, Wooldridge để lựa chọn mô
hình phù hợp nhất cho chuỗi dữ liệu
bảng.
- Hồi quy theo phương pháp
GLS (Generalized Least Squares)
để khắc phục phương sai thay đổi
và/hoặc tự tương quan nhằm đạt
được tính hiệu quả cho mô hình.
3. Kết quả và thảo luận
Nghiên cứu tiến hành kiểm tra
tính đa cộng tuyến bằng lệnh VIF,
kết quả cho thấy tất cả các hệ số
đều nhỏ hơn 10. Kết luận: không có
hiện tượng đa cộng tuyến, bảng 1.
Để phân tích tác động mối liên
hệ giữa đầu tư công, đầu tư tư nhân,
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 12/2019 43
Nghiên cứu trao đổi
lực lượng lao động và tăng trưởng kinh tế, bài viết sử
dụng các phương pháp ước lượng bằng POOL, FEM,
REM đồng thời thực hiện các kiểm định để lựa chọn
phương pháp cho kết quả tối ưu. Kết quả cho thấy mô
hình FEM là tối ưu (Kiểm định Hausman), bảng 2.
Kết quả hồi quy của các mô hình POOL, REM,
FEM đều có hệ số R2 đạt rất tốt, trong đó FEM (mô
hình lựa chọn) có R2 là giải thích 89% cho sự tác
động của các yếu tố trong mô hình đối với tăng
trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, khi kiểm định các khuyết tật của mô
hình FEM, nhận thấy mô hình có vi phạm hiện tượng
phương sai thay đổi, nên tác giả xử lý khuyết tật bằng
cách sử dụng hồi quy theo phương pháp GLS (Gener-
alized Least Squares) để khắc phục phương sai thay
đổi nhằm đạt được tính hiệu quả cho mô hình, bảng 3.
Kết quả từ Bảng 4 cho thấy: Ngoại trừ vốn đầu tư
khu vực công bằng vốn vay GIL, các yếu tố còn lại
đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1% tác động đến tăng
trưởng kinh tế GRDP, cụ thể như sau:
Lực lượng lao động hàng năm L có tác động tích
cực lên tăng trưởng kinh tế, lao động là một nguồn lực
sản xuất chính và không thể thiếu được trong các hoạt
động kinh tế. Hiện nay, tăng trưởng kinh tế của các
nước đang phát triển như Việt Nam được đóng góp
phần lớn bởi quy mô, số lượng lao động.
Vốn đầu tư khu vực công bằng ngân sách nhà nước
GISB có mối quan hệ đồng biến đối với tăng trưởng
kinh tế, có nghĩa là sử dụng ngân sách nhà nước chi
đầu tư phát triển làm tăng cơ sở vật chất quốc gia sẽ
làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước.
Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân trong nước PI có
tác động dương lên tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa
thống kê 1%, có nghĩa là khi các yếu tố khác không
đổi tăng vốn đầu tư tư nhân thì tăng trưởng kinh tế sẽ
tăng trong tương lai. Kết quả cũng cho thấy, tác động
của khu vực kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế rõ
ràng và hiệu quả hơn đầu tư công. Đây là kết quả phù
hợp với các nghiên cứu trên thế giới, tại các quốc gia
đang phát triển.
Vốn đầu tư từ khu vực FDI cho thấy, mối quan hệ
cùng chiều với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, tuy vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài là khu vực vốn đầu
tư có tác động đến tăng trưởng kinh tế thấp nhất.
Nhưng, trải qua chặng đường hơn 30 năm từ năm
1987, khi Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội
thông qua đến nay, khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài (FDI) đã ngày càng thể hiện được vai trò
quan trọng và đóng góp đáng kể vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Vốn đầu tư khu vực công bằng vốn vay GIL theo
báo cáo của Bộ Tài chính đến hết năm 2010, nợ công
của Việt Nam đã lên đến 56,7% GDP. Trong đó, nợ
nước ngoài chiếm 44,5% GDP và đến năm 2018, mức
58,4% GDP. Đồng thời, việc trả lãi cho số nợ vay của
nước ngoài trong năm 2018 là 97.250 tỷ đồng, kết hợp
tất cả các yếu tố về sử dụng nợ để đầu tư công thì đâylà
Bảng 1. Kiểm tra tính đa cộng tuyến giữa các
biến nghiên cứu
Bảng 2. Tổng hợp kết quả hồi quy OLS, Hiệu ứng
ngẫu nhiên và Hiệu ứng cố định
Bảng 3: Các kiểm định sai phạm của mô hình
FEM
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo Stata
Bảng 4. Kết quả ước lượng mô hình GLS
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 12/201944
Nghiên cứu trao đổi
mức đã vượt ngưỡng giới hạn an
toàn tài chính quốc gia đã được
Chính phủ xác định. Do đó, việc sử
dụng vốn đầu tư khu vực công bằng
vốn vay hiện tại không có ý nghĩa
thống kê là điều hợp lý.
4. Kết luận và đề xuất
Nghiên cứu sử dụng tập dữ liệu
63 tỉnh, thành tại Việt Nam giai
đoạn từ năm 2000 đến 2017 với
1034 quan sát, áp dụng mô hình
hồi quy bằng phương pháp ước
lượng FEM và phương pháp GLS
đối với biến phụ thuộc tăng trưởng
kinh tế, các biến độc lập lần lượt là
vốn đầu tư và lực lượng lao động.
Kết quả nghiên cứu cho rằng, vốn
đầu tư khu vực công bằng ngân
sách nhà nước (GISB), vốn đầu tư
từ khu vực tư trong nước (PI), vốn
đầu tư từ khu vực FDI (FDI), lực
lượng lao động hàng năm (L) có
mối quan hệ đồng biến và tác động
tích cực đối với tăng trưởng kinh
tế tại Việt Nam, giai đoạn từ năm
2000 đến năm 2017. Bên cạnh đó,
vốn đầu tư khu vực công bằng vốn
vay (GIL) chưa xác định được mối
quan hệ đối với tăng trưởng kinh tế
tại Việt Nam.
Từ những kết quả phân tích
trên, tác giả đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện hơn cơ cấu đầu tư
hiện nay như sau:
(i) Tăng cường đầu tư công
bằng ngân sách nhà nước dựa trên
chất lượng dự án đảm bảo được tốc
độ hoàn thành và phát triển bền bền
vững, tránh tình trạng đầu tư dàn
trải và nợ đọng vốn đầu tư, nếu tình
trạng này tích tụ nhiều năm, gây
lãng phí cực lớn dẫn đến hiệu quả
đầu tư thấp. Vấn đề này được thể
hiện ở giá trị đầu tư công bằng nợ
không có ý nghĩa thống kê.
(ii) Khu vực kinh tế tư nhân tác
động lên tăng trưởng kinh tế được
thể hiện rõ ràng và hiệu quả hơn
đầu tư công do đó cần tạo điều kiện
cho khu vực tư tăng cường phát
triển, hợp tác hai khu vực công, tư
trong việc thực hiện đầu tư bên
cạnh các hình thức truyền thống
như hiện nay cần được đẩy nhanh
tiến độ hơn hay theo Khan và
Kumar (1997), đầu tư tư nhân có
thể sẽ bị lấn át bởi đầu tư công khi
mà đầu tư công tạo ra hàng hóa và
dịch vụ cạnh tranh với khu vực tư
nhân. Có nghĩa là, khi nhà nước
tích cực tham gia vào các dự án
thuộc lĩnh vực thương mại nơi mà
khu vực tư nhân hoạt động có hiệu
quả hơn và đồng thời có năng suất
biên cao hơn so với khu vực công.
Do đó, nên chuyển giao giảm bớt
chức năng đầu tư công để kinh
doanh cho khu vực tư nhân.
(iii) Vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài, đây là khu vực cần
phải thu hút hơn nữa trong tương
lai khi mà các doanh nghiệp FDI
cũng là những đơn vị tiên phong
trong đào tạo, nâng cao trình độ và
tác phong công nghiệp của đội ngũ
công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ
quản lý. Do đó, tăng cường thu hút
đầu tư của nước ngoài sẽ có lợi
cho nhiều mặt về kinh tế - xã hội
Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Albala-Bertrand, J .M& Mamatza-
kis, E. C., 2001. Is public infrastructurepro-
ductive? Evidence from Chile.Applied
Economics Letters, 8:3, pp. 195-198.
2. Aschauer, D., 1989a. Is Public Ex-
penditure Productive?.Journal of Monetary
Economics, 23, pp. 167-200.
3. Aschauer, D., 1989b. Does Public
Capital Crowd Out Private Capital?.Jour-
nal of Monetary Economics, 24, pp. 171-
188.
4. Devarajan, S., Swaroop, V. & Heng-
fuZou., 1996. The Composition of Public
Expenditure and Economic Growth.Jour-
nal of Monetary Economics, 37, pp.313-
344.
5. Hoàng Thị Chinh Thon, Phạm Thị
Hương, Phạm Thị Thủy, 2010. Tác động
của chi tiêu công tới tăng trưởng kinh tế tại
các địa phương ở Việt Nam. VietNam Cen-
tre for Economic and Policy Research-
VEPR, Bài Nghiên cứu NC-19.
6. Khan, M.S. & Kumar, M.S., 1997.
Public and Private Investment and the
Growth Process in Developing Countries,
Oxford Bulletin of Economics and Statis-
tics, 59(1), pp.69-88.
7. Khan, M.S. & Reinhart, C.M., 1989.
Private Investment and Economic Growth
in Developing Countries, International
Monetary Fund, IMF Working Paper,
WP/89/60.
8. Munnell, A., 1992. Policy Watch, In-
frastructure Investment and Economic
Growth.Journal of Economic Perspectives,
6(4), pp.189-198.
9. Munnell, A., 1990. Why Has Produc-
tivity Growth Declined? Productivity and
Public Investment.New England Economic
Review, January/ February, pp.3-22.
10. Pereira, A., 2000. Is all Public
Capital Created Equal?,The Review of
Economics and Statistics, 82(3), pp.513-
518.
11. Phetsavong, K. & Ichihashi, M.,
2012. The Impact of Public and Private In-
vestment on Economic Growth: Evidence
from Developing Asian Countries, Interna-
tional Development and Cooperation,
IDEC Discussion Paper 2012, Hiroshima
University.
12. Sahoo, P., Dash, R.K. & Nataraj,
G., 2010. Infrastructure Development and
Economic Growth in China.Institute of De-
veloping Economies, IDE Discussion
Paper No. 261.
13. Serven, L. & Solimano, A., 1989.
Private Investment and Macroeconomic
Adjustment: An Overview. World Bank
Working Papers, WPS 339.
14. Sử Đình Thành, 2011. Chi tiêu công
và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam kiểm
định nhân quả trong mô hình đa điểm. Tạp
chí Phát triển kinh tế, Số 252, Tr. 54 – 61.
15. Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư và Lê
Hoàng Phong, 2014. Tác động của đầu tư
công đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam: Góc nhìn thực nghiệm từ mô hình
ARDL. Tạp chí Phát triển & Hội nhập, Số
19 (29)-12/2014, Tr 03-10.
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 12/2019 45
Nghiên cứu trao đổi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_dau_tu_cong_doi_voi_tang_truong_kinh_te_viet_na.pdf