3.1. Nguyên lý “đòn xóc” hay sự lựa chọn hai đầu mũi nhọn
Nội dung cơ bản của nguyên lý này là phân đoạn thị trường lao động và lựa chọn các
nhóm lao động ở hai cực để đưa ra nước ngoài làm việc với mục tiêu khác nhau. Theo đó,
thị trường lao động Việt Nam có ba đoạn chủ yếu: lao động có trình độ cao, lao động có
trình độ trung bình và lao động giản đơn.7
Đối với nhóm lao động có trình độ cao, có khả năng tiếp cận và thu công nghệ mới
để đưa đi làm việc ở những nơi có công nghệ cao nhằm mục tiêu vừa có thu nhập cao cho
người lao động, vừa thực hiện nguyên lý “3I”
Đối với nhóm lao động giản đơn, nhất là lao động nông nghiệp, phải chấp nhận đưa
đi làm việc ở những ngành nghề mà lao động bản địa không làm; nhằm hai mục tiêu: vừa
giải quyết việc làm với thu nhập hợp lý, vừa di chuyển lao động đi khỏi khu vực sản xuất sử
dụng nhiều lao động, để đưa nhanh công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại sử dụng ít lao
động vào sản xuất, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
3.2. Nguyên lý “đầu kéo” hay sự lựa chọn động lực
Nội dung cơ bản của nguyên lý này là lựa chọn một số ngành nghề mà nếu do lao
động nước ngoài đảm nhận thì nó tạo ra cú hích cho nền kinh tế như công nghiệp lọc dầu,
công nghệ thông tin,vv.hoặc một số chức danh quản trị như tổng giám đốc, giám đốc điều
hành một số công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước.
Di chuyển lao động quốc tế ở Việt Nam tác động mạnh mẽ đến sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế ở Việt Nam; đồng thời nó cũng tác động theo hướng tiêu cực đến đời sống
văn hoá tinh thần của xã hội. Vì vậy, vấn đề lựa chọn và xác định mục tiêu di chuyển lao
động quốc tế phù hợp với từng thời kỳ là điều hết phải hết sức quan tâm.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 838 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của di chuyển lao động quốc tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
VNH3.TB5.791 
TÁC ĐỘNG CỦA DI CHUYỂN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ ĐỐI VỚI SỰ 
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP 
KINH TẾ QUỐC TẾ 
ThS. Lê Hồng Huyên 
Văn phòng Trung ương Đảng 
Khi là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), di chuyển quốc tế về lao 
động có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. 
Lý thuyết về toàn cầu hoá chỉ ra rằng, toàn cầu hoá mở ra cơ hội to lớn cho việc di 
chuyển tự do các yếu tố đầu vào của quá trình phát triển như: vốn, công nghệ, lao 
động,vv..., các kết quả đầu ra như: hàng hoá và dịch vụ và các yếu tố văn hoá, phong tục, 
tập quán, v.v... Quá trình di chuyển tự do các yếu tố đó tác động tổng hợp và nhiều chiều 
đến sự phát triển của các nước. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ phân tích tác 
động hai chiều: tích cực - tiêu cực của sự di chuyển hai chiều: ra – vào của lao động đối với 
sự phát triển bền vững của Việt Nam. 
1. Tác động của vịêc di chuyển lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc 
Di chuyển lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc được hiểu đó là việc những 
người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng lao động, cung ứng dịch vụ 
hoặc hiện diện nhân thể và không nhằm mục tiêu định định cư. Với nội hàm đó, việc di 
chuyển lao động ra nước ngoài làm việc tác động hai chiều đến sự phát triển của Việt Nam. 
1.1. Thúc đẩy phát triển bền vững 
Trước hết, di chuyển lao động ra nước ngoài tạo điều kiện để Việt Nam toàn dụng 
nguồn nhân lực làm tăng thu nhập quốc gia (GNI). 
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và trẻ, người lao động thông minh, cần cù, chịu 
khó; tất cả đó chỉ là tiền đề quan trọng cho việc di chuyển lao động ra nước ngoài. Tuy 
nhiên, trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và dịch 
vụ, một số lượng lớn lao động bị thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình, đặc biệt là lao động 
nông nghiệp. Điều này có nghĩa là một phần nguồn lực lao động không được sử dụng để sản 
xuất ra hàng hoá và dịch vụ - tức là họ không tạo ra giá trị mới, trong khi họ vẫn phải tiêu 
dùng để duy trì cuộc sống cá nhân và gia đình. 
 2
Di chuyển lao động ra nước ngoài sẽ mở ra cơ hội sử dụng số lao động thất nghiệp 
vào việc sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ tại nước khác, mang lại thu nhập cho người lao 
động. Đồng thời, góp phần gia tăng thu nhập quốc gia (GNI), vì thu nhập quốc gia (GNI) là 
tổng đại số giữa thu nhập quốc nội và thu nhập yếu tố thuần, mà thu nhập yếu tố thuần lại 
chính là khoản chênh lệch giữa thu nhập chuyển về nước và thu nhập của người nước ngoài 
chuyển ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó, góp phần làm tăng GNI/người, một cấu thành quan trọng 
trong HDI. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, năm 2006, người Việt Nam ở nước ngoài 
gửi tiền về nước bằng con đường chính thức là 4,8 tỷ USD, tương đương với 7,9% GDP 
năm 20061. 
Số lượng lao động dồi dào và trẻ, người lao động thông minh, cần cù, chịu khó mới 
chỉ là tiềm năng cho việc di chuyển lao động ra nước ngoài nhằm tác động lên thu nhập 
quốc gia. Còn mức độ và cường độ tác động do việc di chuyển lao động ra nước ngoài làm 
việc lên thu nhập quốc gia phụ thuộc vào chính sách của Chính phủ và chất lượng lao động 
Việt Nam. 
Hai là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài làm tăng chi tiêu của gia đình và 
tiết kiệm làm tăng đầu tư tư nhân trong dài hạn 
Như đã nói, khi lao động ra nước ngoài làm việc, tất nhiên là họ có thu nhập, hơn nữa 
thu nhập cao hơn làm việc trong nước. Thông thường, người Việt Nam đi làm việc ở nước 
ngoài có thu nhập ròng cao hơn làm việc trong nước khoảng 3 lần2. Nhờ có thu nhập ròng 
cao, người lao động gửi khoản tiền đó về gia đình làm khoản tiết kiệm. Theo ước tính của 
Ngân hàng Nhà nước và Bộ Lao động - Việt Nam, năm 2007, chỉ riêng lao động Việt Nam 
ở nước ngoài chuyển về nước khoảng 2 tỷ USD3. 
Khoản tiền người lao động gửi về nhà được chia là hai phần: một phần gia đình chi 
tiêu vào việc nâng cao mức sống, chăm sóc sức khoẻ của gia đình đặc biệt là chi tiêu cho 
việc học tập của con cái góp phần nâng cao dân trí; một phần lớn dành để tiết kiệm nhằm 
mục đích đầu tư trong tương lai. 
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, bình quân hàng năm, mỗi lao động tiết 
kiệm được xấp xỉ 4.000 USD. Nếu người lao động đi làm việc 5 năm ở nước ngoài, họ có 
thể tiết kiệm được 20.000 USD đây là khoản tiền có thể giúp gia đình tự đầu tư hoặc góp 
vốn sản xuất sản xuất kinh doanh. 
Như vậy, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài góp tăng chi tiêu hộ gia đình 
và tăng đầu tư tư nhân trong dài hạn. 
1 Migration and Remittances Factbook is compiled by Dilip Ratha and Zhimei Xu, Migration and Remittances Team, 
Development Prospects Group, World Bank. www.worldbank.org/prospects/migrationandremittances. 
2 Lê Hồng Huyên, Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của xuất khẩu lao động Việt Nam trong hội nhập 
kinh tế quốc tế, Tạp chí Kinh tế phát triển - Đại học Kinh tế Quốc dân, tháng 7 năm 2008. 
3 Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Ở đây không tính số tiền kiều hối 
do người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về. 
 3
Ba là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài thúc đẩy chi tiêu của Chính phủ 
cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 
Để có thể ra nước ngoài làm việc, người lao động phải có kỹ năng nghề nghiệp và 
trình độ ngoại ngữ nhất định theo yêu cầu của chủ sử dụng. Tuy nhiên, không phải tất cả 
mọi lao động muốn ra nước ngoài làm việc đều có thể đạt được các yêu cầu của nhà tuyển 
dụng. Vì vậy, phải tổ chức huấn luyện và đào tạo lại cho người lao động. Để thực hiện việc 
này có hiệu quả, Chính phủ phải đầu tư về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên và các điều 
kiện khác đảm bảo cho việc đào tạo và đào tạo lại người lao động. Điều này sẽ làm tăng chi 
tiêu của Chính phủ. Khi chi tiêu cho đầu tư của Chính phủ tăng sẽ góp phần làm tăng GDP 
cả trong ngắn hạn và dài hạn. 
Bốn là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài tạo điều kiện cho chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế trong ngắn hạn và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại 
trong dài hạn. 
Trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá, việc thu hồi đất nông nghiệp để 
xây dựng các khu công nghiệp tất yếu làm cho một số lượng nhất định lao động nông 
nghiệp mất việc làm. Dưới tác động của cạnh tranh, các nhà đầu tư có xu hướng lựa chọn 
phương án đầu tư sử dụng nhiều vốn. Cả hai khuynh hướng đó làm cho trên một đơn vị diện 
tích đất nông nghiệp thu hồi, số lao động được sử dụng sẽ giảm đi đáng kể. Đây là quy luật 
tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Trong ngắn hạn, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài sẽ là một trong các con 
đường vừa giải quyết việc làm cho số lao động thất nghiệp, vừa tạo điều kiện cho doanh 
nghiệp đầu tư theo chiều sâu, nâng cao sức cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập. 
Trong dài hạn, trình độ người lao động đi làm việc ở nước ngoài được nâng cao nhờ 
được đào tạo và đào tạo lại trong thời gian làm việc ở nước ngoài. Chính người lao động đi 
làm việc ở nước ngoài sẽ là động lực của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì đây là 
nguồn lao động có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư theo chiều sâu. 
Năm là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài góp phần trực tiếp nâng cao 
chất lượng nguồn nhân lực. 
Đặc điểm của lao động là sáng tạo. Người lao động với vốn kiến thức học vấn và 
ngoại ngữ cơ bản, nếu được làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và 
công nghệ tiên tiến, thì trình độ tay nghề và kỹ năng nghề nghiệp ngày càng được nâng cao. 
Dưới tác động của kỹ thuật, quá trình lao động, đồng thời cũng chính là quá trình người lao 
động tự đào tạo. Sau một thời gian làm việc ở nước ngoài, trình độ tay nghề, ý thức kỷ luật, 
phong cách làm việc hiện đại và trình độ ngoại ngữ được nâng cao vượt bậc. 
Thực tế cho thấy, một số lượng lớn lao động là nông dân, sau khi đi làm việc ở nước 
ngoài về nước, họ trở thành người công nhân hiện đại. Đa số người lao động đi làm việc tại 
 4
Liên Xô, Đông Âu trước đây và Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan sau này đang là những 
người lao động có trình độ cao trong các nhà máy, xí nghiệp. 
Sáu là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài góp phần đưa nhanh các tiến bộ 
kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, thúc đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo 
nguyên lý “3I”(Imitation - Bắt chước, Initiative - Cải tiến, - Innovation - Sáng tạo). 
Trong quá trình làm việc, người lao động trực tiếp sử dụng sử dụng kỹ thuật và công 
nghệ hiện đại, để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Theo quy luật nhận thức, người lao động 
từ bắt chước để làm theo, sau đó là cải tiến và cuối cùng là sáng tạo. 
Kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ixraen cho thấy, những người lao động 
đi làm việc ở nước ngoài, sau khi về nước, họ mang những tri thức đã tích luỹ được áp dụng 
vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Chính lực lượng lao động này đã góp phần thúc 
đẩy nhanh quá trình đưa công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh và quản lý. Điều này góp 
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng sử dụng khoa học và công nghệ tiên tiến. 
Bảy là, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài góp phần tăng cường đầu tư và 
mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam trên thị trường thế giới. 
Khi là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), doanh nghiệp Việt Nam 
có cơ hội to lớn trong việc đầu tư, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sang các nước thành viên. 
Theo đó, việc di chuyển lao động theo các quy định của WTO được thực hiện dàng. 
Tự do di chuyển lao động Việt Nam sang các nước thành viên là điều kiện quan trọng 
giúp các nhà đầu tư lựa chọn phương án sử dụng lao động tối ưu cho hoạt động sản xuất 
kinh doanh. Mặt khác, người lao động Việt Nam ra làm việc ở nước ngoài cũng góp phần 
quảng bá hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam với người tiêu dùng của nước sở tại. 
1.2. Tác động tiêu cực hay là sự đánh đổi 
Di chuyển lao động Việt Nam ra làm việc ở nước ngoài có tác động thúc đẩy tăng 
trưởng và phát triển kinh tế như đã trình bày. Tuy nhiên, nếu xem xét tác động của nó theo 
từng nhóm đối tượng, chúng ta dễ dàng nhận thấy một số tác động không như mong muốn: 
Một là, phụ nữ đi làm việc ở nước ngoài không thực hiện được thiên chức chăm sóc 
gia đình. 
Theo truyền thống phương Đông, phụ nữ Việt Nam có thiên chức cực kỳ quan trọng là 
làm vợ, làm mẹ và chăm sóc gia đình. Phần lớn phụ nữ đi làm việc ở nước ngoài ở độ tuổi từ 
20 - 45, đây là quảng thời gian phụ nữ có nhu cầu cao độ thực hiện thiên chức của mình, mặt 
khác gia đình, chồng, con cũng khao khát sự chăm sóc, nuôi dạy con cái của người phụ nữ. 
Thực tế cho thấy, phần lớn các gia đình có người vợ đi làm việc ở nước ngoài, con 
cái họ thường có biểu hiện thiếu hụt tình mẫu tử, người chồng của họ cũng có những biểu 
hiện không cân bằng trạng thái tâm, sinh lý. Không ít gia đình khi người vợ đi làm việc ở 
 5
nước ngoài, người chồng ở nhà đi ngoại tình hoặc tiêu dùng xa xỉ khoản tiền của vợ gửi về, 
hoặc sa vào các tệ nạn xã hội khác. 
Như vậy, người phụ nữ đi làm việc ở nước ngoài là một sự đánh đổi giữa thu nhập 
với thiên chức người vợ, người mẹ trong quảng đời mà bản thân và gia đình họ có nhu cầu 
cao nhất về thiên chức đó. 
Hai là, người lao động đi làm việc ở nước ngoài dễ bị tổn thương về tinh thần do bị 
phân biệt đối xử. 
Các quốc gia trên thế giới đều có hệ thống luật nhập cư, luât cư trú, luật lao động 
theo hướng bảo hộ quyền lợi của công dân của mình. Do đó, người lao động nước ngoài 
không được hưởng các quyền lợi như công dân nước sở tại. Tình trạng này làm cho người 
lao động tự ty, sống khép kín, dễ gây ra stress. 
Bản thân người lao động, do trình độ ngoại ngữ hạn chế, nên hiểu biết và chấp hành 
pháp luật nước sở tại gặp nhiều khó khăn. Họ dễ vi phạm pháp luật nước sở tại và cũng 
không biết vận dụng luật pháp nước sở tại để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 
2. Tác động của vịêc lao động nước ngoài đến Việt Nam ngoài làm việc 
Khi là thành viên của WTO, Việt Nam phải mở cửa thị trường lao động, do đó, người 
lao động nước ngoài tự do vào Việt Nam là việc. Người lao động nước ngoài vào Việt Nam 
làm việc vừa có tác động thúc đẩy phát triển, vừa có tác động tiêu cực. 
2.1. Thúc đẩy phát triển kinh tế 
Một là, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần nâng cao năng suất lao 
động xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh. 
Là nước đang phát triển, Việt Nam đứng trước thực tế là thiếu nhân lực có trình độ 
cao trong một số ngành kinh tế quốc dân. Đặc biệt là nhóm kỹ thuật viên trong một số 
ngành kinh tế kỹ thuật, và quản trị viên cao cấp ở cấp độ doanh nghiệp cũng như cấp ngành 
thiếu hụt nghiêm trọng. 
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO tạo điều kiện cho lao động nước 
nước ngoài đến Việt Nam làm việc đã góp phần bù đắp thiếu hụt nói trên. Mặt khác, với 
nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội và do đó thúc 
đẩy tăng trưởng kinh tế với mức độ cao. 
Hai là, tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. 
Các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với việc đưa vốn và công nghệ cao vào Việt Nam, 
họ có nhu cầu sử dụng lao động với trình độ tương ứng. Là thành viên WTO, nguồn nhân 
lực trình độ cao từ nước ngoài được tự do đến làm việc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhà 
đầu tư nước ngoài trong việc tuyển dụng lao động trình độ cao. Đây cũng chính là việc tạo 
ra môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. 
 6
Ba là, tạo môi trường cạnh tranh giữa lao động Việt Nam với lao động nước ngoài. 
Trong điều kiện thị trường lao động mới hình thành và phát triển, lao động nước 
ngoài đến Việt Nam làm việc sẽ tạo ra nguồn cung lao động cho thị trường. Chính điều này 
đã thúc đẩy lao động cạnh tranh trên thị trường góp phần nâng cao chất lượng lao động. 
Thông qua cạnh tranh, người lao động phải tự mình nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp 
và ngoại ngữ. Kết quả là làm cho chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao. 
Bốn là, góp phần đào tạo nhân lực tại chỗ theo tương tác thẩm thấu. 
Khi người lao động nước ngoài làm việc cùng với lao động Việt Nam, thông qua tiếp 
xúc hàng ngày, người lao động Việt Nam có thể học tập trực tiếp về ngoại ngữ, phong cách, 
kỹ thuật, kỹ xảo nhằm tự hoàn thiện và nâng cao trnhf độ của mình. 
2.2. Tác động tiêu cực 
Một là, làm giảm thu nhập yếu tố thuần (NX) trong tổng thu nhập quốc gia (GNI). 
Người lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc họ có thu nhập và được chuyển 
về nước phần thu nhập còn lại. Chính điều này làm giảm thu nhập yếu tố thuần trong tổng 
thu nhập quốc gia; kết quả là làm giảm tổng thu nhập quốc gia. 
Hai là, du nhập lối sống và văn hoá ngoại lai không phù hợp với thuần phong, mỹ tục 
của người Việt, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức, văn hoá truyền thống. 
Người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc, họ mang theo văn hoá của dân 
tộc và đất nước họ. Cùng với những yếu tố văn minh, hiện đại; đồng thời họ cũng mang 
theo lối sống, văn hoá độc hại không phù hợp với thuần phong, mỹ tục và bản sắc văn hoá 
của dân tộc Việt Nam. 
3. Sự lựa chọn hợp lý để phát triển bền vững 
Như vậy, di chuyển lao động quốc tế ở Việt Nam vừa có tác động tích cực vừa có tác 
động tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Với vai trò của mình, Nhà nước cần phải 
lựa chọn hợp lý bằng cách chính sách cụ thể nhằm tận dụng tối đa tác động tích cực, hạn chế 
tối thiểu tác động ngoài mong muốn. Vì vậy, các chính sách cần tuân thủ hai nguyên lý cơ 
bản sau đây: 
3.1. Nguyên lý “đòn xóc” hay sự lựa chọn hai đầu mũi nhọn 
Nội dung cơ bản của nguyên lý này là phân đoạn thị trường lao động và lựa chọn các 
nhóm lao động ở hai cực để đưa ra nước ngoài làm việc với mục tiêu khác nhau. Theo đó, 
thị trường lao động Việt Nam có ba đoạn chủ yếu: lao động có trình độ cao, lao động có 
trình độ trung bình và lao động giản đơn. 
 7
Đối với nhóm lao động có trình độ cao, có khả năng tiếp cận và thu công nghệ mới 
để đưa đi làm việc ở những nơi có công nghệ cao nhằm mục tiêu vừa có thu nhập cao cho 
người lao động, vừa thực hiện nguyên lý “3I” 
Đối với nhóm lao động giản đơn, nhất là lao động nông nghiệp, phải chấp nhận đưa 
đi làm việc ở những ngành nghề mà lao động bản địa không làm; nhằm hai mục tiêu: vừa 
giải quyết việc làm với thu nhập hợp lý, vừa di chuyển lao động đi khỏi khu vực sản xuất sử 
dụng nhiều lao động, để đưa nhanh công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại sử dụng ít lao 
động vào sản xuất, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. 
3.2. Nguyên lý “đầu kéo” hay sự lựa chọn động lực 
Nội dung cơ bản của nguyên lý này là lựa chọn một số ngành nghề mà nếu do lao 
động nước ngoài đảm nhận thì nó tạo ra cú hích cho nền kinh tế như công nghiệp lọc dầu, 
công nghệ thông tin,vv...hoặc một số chức danh quản trị như tổng giám đốc, giám đốc điều 
hành một số công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước. 
Di chuyển lao động quốc tế ở Việt Nam tác động mạnh mẽ đến sự tăng trưởng và 
phát triển kinh tế ở Việt Nam; đồng thời nó cũng tác động theo hướng tiêu cực đến đời sống 
văn hoá tinh thần của xã hội. Vì vậy, vấn đề lựa chọn và xác định mục tiêu di chuyển lao 
động quốc tế phù hợp với từng thời kỳ là điều hết phải hết sức quan tâm. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tac_dong_cua_di_chuyen_lao_dong_quoc_te_doi_voi_su_phat_trie.pdf