Như vậy 4 bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đều có tác
động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa
thống kế cao. Bệnh có tác động mạnh nhất đến tăng
trưởng kinh tế là HIV/AIDS (hệ số hồi quy chuẩn hoá
là 0,151), bệnh sốt rét (hệ số hồi quy chuẩn hoá là
0,089), bệnh lao (hệ số hồi quy chuẩn hoá là 0,056) và
cuối cùng là bệnh sốt xuất huyết (hệ số hồi quy chuẩn
hoá là 0,017).
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Nghiên cứu này đánh giá tác động của một số bệnh
truyền nhiễm chính đến tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam trong giai đoạn 1986-2016. Kết quả cho thấy
bệnh HIV/AIDS, bệnh lao, sốt xuất huyết và sốt rét
tác động ngược chiều lên tăng trưởng kinh tế. Các hệ
số hồi quy chuẩn hoá của HIV/AIDS, bệnh lao, sốt
xuất huyết và sốt rét lần lượt là 0,151, 0,056, 0,017,
0,089 cho thấy HIV/AIDS có tác động mạnh nhất so
với các bệnh được đề cập trong nghiên cứu đến tăng
trưởng kinh tế. Từ kết quả nghiên cứu, một số đề xuất
hàm ý chính sách sau nên được nghiên cứu triển khai
nhằm kiểm soát và dần loại trừ các loại dịch bệnh, qua
đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Một là, cần tập trung nguồn lực vào công tác phòng
chống đại dịch HIV/AIDS. Hiện nay vẫn chưa có
thuốc đặc hiệu hoặc vắc-xin để điều trị dứt điểm bệnh
HIV. Toàn bộ thuốc điều trị vẫn còn phải nhập từ
nước ngoài nên giá thành rất cao, thuốc phổ biến để
điều trị HIV đang được lưu hành phổ biến là ARV
(antiretroviral – thuốc kháng virus) chủ yếu được cấp
phát thông qua nguồn viện trợ của các dự án nước
ngoài. Từ năm 2010 Việt Nam trở thành nước có thu
nhập trung bình, điều đó cũng có nghĩa là các nước
và các tổ chức trên thế giới đang rút dần nguồn viện
trợ cho Việt Nam, các dự án về HIV/AIDS cũng đang
chuyển nguồn kinh phí sang các nước nghèo hơn do
đó chúng ta phải hoàn toàn chủ động nhập khẩu thuốc
ARV để điều trị cho bệnh nhân. Một số chính sách
cần thực hiện đối với bệnh nhânHIV/AIDS như: thực
hiện chính sách cấp phát thuốc ARV miễn phí nếu
tham gia Bảo hiểm Y tế, tăng cường công tác tuyên
truyền trong cộng đồng về nguy cơ lây lan của đại dịch
HIV/AIDS, đặc biệt là ở nhưng khu vực có các tệ nạn
xã hội như tiêm chích ma tuý, mại dâm, đồng thời
tạo môi trưởng sống lành mạnh cho các đối tượng
đang nhiễm bệnh, không phân biệt đối xử với các
bệnh nhân để họ có cuộc sống lành mạnh và trở thành
tuyên truyền viên tích cực cho cộng đồng.
Hai là, cần đưa vắc-xin phòng rốt rét thử nghiệm lâm
sàng ở Việt Nam, nếu có kết quả tốt sẽ áp dụng ở các
khu vực vùng sâu, vùng xa để tránh lây lan trong diện
rộng và phát triển thành dịch của căn bệnh này. Vì
bệnh sốt rét cũng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế, mặc dù ở Việt Nam tỉ lệ mắc bệnh đang có dấu
hiệu giảm dần song không thể chủ quan về căn bệnh
này.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của dịch bệnh đến tăng trưởng kinh tế: Trường hợp của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(4):430-439
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
1Trường Đại học Nha Trang
2Dự án EDPV
Liên hệ
Phạm Thành Thái, Trường Đại học Nha
Trang
Email: thaipt@.ntu.edu.vn
Lịch sử
Ngày nhận: 15/1/2019
Ngày chấp nhận: 22/7/2019
Ngày đăng: 31/12/2019
DOI : 10.32508/stdjelm.v3i4.585
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Tác động của dịch bệnh đến tăng trưởng kinh tế: trường hợp của
Việt Nam
Phạm Thành Thái1,*, Nguyễn Thanh Lê2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Sự lưu hành của dịch bệnh là thách thức của toàn cầu, nó ảnh hưởng đến tuổi thọ, năng suất lao
động của công nhân và sự tăng trưởng kinh tế. Một lực lượng lao động khỏe mạnh sẽ tiếp thu
được những kiến thức mới áp dụng vào sản xuất, năng suất lao động luôn duy trì ở mức cao, từ
đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nếu dịch bệnh tác động tiêu cực đến lực lượng lao
động thì năng suất lao động sản xuất sẽ thấp, của cải sản xuất ra sẽ được sử dụng một phần để
chữa trị bệnh tật, người lao động không có đủ sức khỏe và tiền bạc để học thêm những kiến thức
mới, do đó, tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại. Nghiên cứu này tiến hành xem xét tác động của một
số loại dịch bệnh truyền nhiễm chính, gồm: HIV/AIDS, sốt xuất huyết, sốt rét và bệnh lao đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam, với mục tiêu xác định mức độ ảnh hưởng của từng loại bệnh đến tăng
trưởng kinh tế, trên cơ sở đó đề xuất các hàm ý chính sách ưu tiên tập trung phòng chống dịch
bệnh để phát triển kinh tế. Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy đồng liên kết được ước lượng
bằng phương pháp bình phương tối thiểu thông thường (OLS) dựa trên số liệu trong 31 năm (từ
năm 1986 đến năm 2016) của Việt Nam được thu thập từ các nguồn số liệu của Ngân hàng Thế
giới, Tổ chức Y tế Thế giới, các tổ chức của Liên Hiệp Quốc và của Bộ Y tế. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, khi số bệnh nhân mắc mới bệnh HIV/AIDS, lao, bệnh sốt xuất huyết và bệnh sốt rét tăng lên
1% so với năm trước thì thu nhập bình quân đầu người sẽ giảm xuống lần lượt là 0,022%, 0,095%,
0,015% và 0,057% so với năm trước đó khi các yếu tố khác không đổi. Từ kết quả phân tích, nghiên
cứu đã đề xuất được một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao tính hiệu quả của công tác phòng
chống bệnh truyền nhiễm, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, thông qua đó góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam. Ngoài ra, nghiên cứu này còn có ý nghĩa bổ sung thêm bằng chứng
về mối quan hệ giữa sức khỏe và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Từ khoá: Tăng trưởng kinh tế, HIV/AIDS, bệnh lao, sốt xuất huyết, sốt rét
GIỚI THIỆU
Sức khỏe của người dân là một trong những vấn đề
quan trọng mang tính quyết định sự phát triển kinh
tế của mỗi quốc gia, vì nó có ảnh hưởng quyết định
đến chất lượng nguồn vốnnhân lực 1. Sự lưu hành của
dịch bệnh là thách thức của toàn cầu, nó ảnh hưởng
đến tuổi thọ, năng suất lao động của công nhân và
sự tăng trưởng kinh tế. Một lực lượng lao động khỏe
mạnh sẽ tiếp thu được những kiến thức mới áp dụng
vào sản xuất, năng suất lao động luôn duy trì ở mức
cao, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại,
nếu dịch bệnh tác động tiêu cực đến lực lượng lao
động thì năng suất lao động sản xuất sẽ thấp, của cải
sản xuất ra sẽ được sử dụngmột phần để chữa trị bệnh
tật, người lao động không có đủ sức khỏe và tiền bạc
để học thêm những kiến thứcmới, do đó, tăng trưởng
kinh tế sẽ chậm lại. Tăng trưởng kinh tế và dịch bệnh
có tác động qua lại lẫn nhau, một quốc gia có nền kinh
tế phát triển sẽ đủ năng lực để khống chế dịch bệnh,
một nước kémphát triển dễ bị dịch bệnh hoành hành.
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, là
khu vực thuận lợi cho các bệnh truyền nhiễm như
cúm, chân-tay-miệng, viêm não Nhật Bản phát triển,
và cũng là nước phát triển về du lịch nên bùng phát
đại dịch HIV/AIDS, ngoài ra các bệnh truyền nhiễm
khác như lao, sốt rét, sốt xuất huyết cũng rất phổ biến.
Hàng năm, Việt Nam phát hiện từ 50.000 đến 100.000
ca bệnh sốt xuất huyết, 40.000 đến 60.000 ca sốt rét,
khoảng 12.000 ca HIV/AIDS nhiễm mới và khoảng
180.000 ca nhiễm laomớimỗi năm2–4. Diễn biến của
các bệnh truyền nhiễm khá phức tạp. Chi phí điều trị
cho các bệnh khá lớn, theo số liệu của Bộ Y tế, hàng
năm Việt Nam chi ra gần 420 tỷ để mua thuốc điều
trị cho bệnh nhân HIV/AIDS 5 và chi phí cho điều trị
bệnh sốt xuất huyết từ 140 – 160 tỉ đồng/năm6. Khi
chi phí cho việc điều trị do bệnh tật tăng lên sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến kinh tế của mỗi hộ gia đình và cả
nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa thu nhập bình quân đầu người với
một số loại bệnh chính yếu trong giai đoạn 1986 đến
2016 được thể hiện như Hình 1. Có thể thấy, xu
Trích dẫn bài báo này: Thành Thái P, Thanh Lê N. Tác động của dịch bệnh đến tăng t rưởng kinh tế:
trường hợp của Việt Nam. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 3(4):430-439.
430
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(4):430-439
hướng của GDP được tăng lên theo từng năm, bệnh
sốt rét và sốt xuất huyết có xu hướng giảm dần theo
thời gian, HIV/AIDS và bệnh lao tăng dần đến giữa
giai đoạn nghiên cứu thì có xu hướng giảm xuống,
trong khi đó lực lượng lao động và vốn vật chất có
xu hướng tăng theo thời gian tương tự với GDP. Xét
xu hướng của từng loại bệnh với thu nhập bình quân
đầu người thì HIV/AIDS có biến thiên theo thời gian
ngược với thu nhập bình quân đầu người; lao cũng có
xu hướng tương tự HIV/AIDS có xu hướng ngược lại
với thu nhập bình quân đầu người; sốt xuất huyết và
sốt rét thì xu hướng đối lập với thu nhập bình quân
đầu người là rõ ràng nhất trong giai đoạn nghiên cứu;
lực lượng lao động và vốn vật chất có cùng xu hướng
với thu nhập bình quân đầu người theo thời gian.
Đã có một số nghiên cứu về tác động của dịch bệnh
lên tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam được thực hiện
trong thời gian qua, cụ thể: nghiên cứu gánh nặng
kinh tế của bệnh sốt rét cho đồng bào Raglay ở tỉnh
Ninh Thuận7; phân tích gánh nặng chi phí về bệnh
sốt xuất huyết ở các nước Đông Nam Á (trong đó có
Việt Nam)8 ; nghiên cứu về chi phí khi bệnh sốt xuất
huyết bùng phát9 ; Pham và cộng sự (2016) nghiên
cứu chi phí điều trị sốt xuất huyết tuyến tỉnh tạiThành
phốHồChíMinh10... Tuy nhiên, các nghiên cứu trên
chỉ mới dừng lại ở việc xác định gánh nặng chi phí
do bệnh tật và những hệ lụy do bệnh tật gây ra cho
kinh tế mỗi hộ gia đình hoặc chi tiêu của hộ gia đình
cho việc điều trị bệnh. Ngoài ra, Norashidah và cộng
sự11 đã nghiên cứu ảnh hưởng của HIV/AIDS, bệnh
lao và sốt xuất huyết lên tăng trưởng kinh tế của các
nước Đông Nam Á, nhưng cũng chỉ thu thập dữ liệu
được ở Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và
Thailand. Tại Việt Nam, nghiên cứu đánh giá tác động
của các bệnh truyền nhiễm lên tăng trưởng kinh tế
còn khá ít.
Xác định được trong số các bệnh truyền nhiễm như
HIV/AIDS, sốt xuất huyết, sốt rét và bệnh lao, bệnh
nào có tác động đến tăng trưởng kinh tế, định lượng
được mức độ ảnh hưởng của các bệnh đó đối với nền
kinh tế Việt Nam là cần thiết và hữu ích nhằm cung
cấp những bằng chứng khoa học và thực tiễn để giúp
các nhà hoạch định chính sách có cơ sở trong việc
thiết kế và thực thi các chính sách để ngăn ngừa việc
lây lan bệnh tật trong cộng đồng, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian đến.
Ngoài ra, nghiên cứu này còn có ý nghĩa bổ sung thêm
bằng chứng về mối quan hệ giữa sức khỏe và tăng
trưởng kinh tế tại Việt Nam.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Khung lý thuyết
Mối quan hệ giữa dịch bệnh và tăng trưởng kinh tế
không phải làmối quan hệ trực tiếp. Dịch bệnh không
tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tếmà tác động
vào lực lượng lao động hay nguồn vốn nhân lực và đây
cũng là mối quan hệ hai chiều. Khi dịch bệnh xảy ra,
một số lực lượng lao động sẽ nhiễm bệnh dẫn đến sức
khỏe yếu và dẫn đến năng suất lao động sẽ giảm và
đối với một số bệnh truyền nhiễm đe dọa đến tính
mạng con người sẽ làm hao hụt nguồn vốn nhân lực.
Do đó, sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế. Khi lao động
nhiễm bệnh, một phần của cải vật chất làm ra sẽ sử
dụng để chữa bệnh, làm giảm tiết kiệm và cũng làm
giảm đầu tư và cũng là nguyên nhân dẫn đến giảm
tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi tăng trưởng cao
sẽ có nhiều nguồn lực để đầu tư vào các nghiên cứu
về phòng và chống dịch bệnh dẫn đến dịch bệnh sẽ
giảm xuống. Khung phân tích mối quan hệ giữa bệnh
truyền nhiễm và tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở
Hình 2.
Khi xem xét mối quan hệ giữa bệnh sốt rét với tăng
trưởng kinh tế, Gallup và cộng sự 14 cho rằng ở các
nước đang phát triển và các nước kém phát triển, sốt
rét có tác động ngược chiều với tăng trưởng kinh tế, cụ
thể là tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người của
các quốc gia có bệnh sốt rét nặng là 0,4% mỗi năm,
trong khi tốc độ tăng trưởng trung bình của các quốc
gia khác là 2,3%, nghĩa là cao hơn gấp năm lần. Hơn
một phần ba trong số những quốc gia có bệnh sốt rét
nặng đã tăng trưởng âm. Mặt khác, nếu một quốc
gia giảm đi được 10% số người bệnh sốt rét thì nền
kinh tế theo đó sẽ tăng trưởng thêm 0,3%. Grimard
và cộng sự khi nghiên cứu về tác động của bệnh lao
lên tăng trưởng kinh tế đã kết luận rằng các quốc gia
có gánh nặng về bệnh lao thấp sẽ tăng trưởng GDP
nhanh hơn các quốc gia có số ca mắc bệnh lao cao 15.
Lucian và cộng sự khi nghiên cứu vềmối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng của một số bệnh ở
các quốc gia châu Âu16. Nghiên cứu của Norashidah
và cộng sự ước lượng ảnh hưởng của các bệnh truyền
nhiễm như sốt xuất huyết, lao và HIV/AIDS lên tăng
trưởng động kinh tế củamột số quốc giaĐôngNamÁ
cũng cho kết luận là các bệnh sốt xuất huyết, bệnh lao
và HIV/AIDS có tác động âm có ý nghĩa thống kê cao
đến tăng trưởng kinh tế17. Nghiên cứu củaMaijama’a
và cộng sự về tác động của dịch bệnh HIV/AIDS lên
tăng trưởng kinh tế ở 42 nước khu vực hạ Sahara, kết
quả cho thấy tỉ lệ lưu hành củaHIV có tác động ngược
chiều với tăng trưởng kinh tế 18. Từ những kết quả
nghiên cứu thực nghiệm trên cho thấy có mối quan
hệ ngược chiều giữa tăng trưởng kinh tế và dịch bệnh.
431
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(4):430-439
Hình 1: Mối quan hệ giữa thu nhập bình quân đầu người và một số loại bệnh. (Nguồn: Tổng hợp của tác giả
từ dữ liệu cho nghiên cứu này)
Hình 2: Khung phân tích tác động của bệnh truyền nhiễm lên tăng trưởng kinh tế (Nguồn: 12,13)
Mô hình kinh tế lượng
Theo hướng dẫn của WHO19 về xác định hậu quả
của bệnh tật đối với kinh tế vĩ mô như thu nhập quốc
dân hoặc sản lượng, thì có thể sử dụng mô hình hồi
quy cho một quốc gia hoặc nhiều quốc gia với dữ liệu
bảng. Các biến trong mô hình của nghiên cứu được
kế thừa từ Norashidah và cộng sự 17 có bổ sung thêm
bệnh sốt rét vì đây cũng là một bệnh truyễn nhiễm
chính ở Việt Nam và mô hình chỉ đánh giá với dữ
liệu thời gian thay cho dữ liệu bảng. Nghiên cứu đề
xuấtmôhình xác định ảnhhưởng của các bệnh truyền
nhiễm nhưHIV/AIDS, bệnh lao, sốt xuất huyết và sốt
rét lên tăng trưởng kinh tế như sau:
Ln(GDP1)=a1+b1Ln(HIV1)+b2Ln(TB1)+b3
Ln(D1)+b4Ln(M1)+b5Ln(LF1)+b6Ln(CF2)+e1
(1)
Với t là thời điểm quan sát, a là hằng số, e đại diện
cho những biến không quan sát được, gọi chung là sai
số ngẫu nhiên.
Vì số liệu của các biến trong nghiên cứu này được
quan sát theo thời gian, nên trước khi ước lượng mô
hình (1) bằng phương pháp OLS tác giả tiến hành
kiểm định xem các biến có phải là chuỗi thời gian
dừng hay không. Nếu các chuỗi là không dừng mà
sai phân của chúng là chuỗi dừng thì cần tiếp tục phải
kiểm tra xem các biến có phải là đồng liên kết không,
432
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(4):430-439
nếu các biến có đồng liên kết thì mô hình (1) được gọi
là mô hình hồi quy đồng liên kết và có thể không bị
vấn đề hồi quy giả mạo, nghĩa là mô hình (1) vẫn có ý
nghĩa khi ước lượng bằng phương pháp OLS. Sau khi
ước lượng cần thiết phải tiến hành kiểm định chuẩn
đoán các giả định củamô hình quy tuyến tính cổ điển.
Các biến trong mô hình nghiên cứu được thể hiện
trong Bảng 1.
Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu cho nghiên cứu này là dữ liệu thứ cấp được
thu thập từ các nguồn của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), Ngân hàngThế giới (World Bank), Hội nghị
Thương mại và Phát triển của Liên Hiệp Quốc, số
liệu thống kê của Cục Y tế dự phòng của Bộ Y tế.
Các biến số về thu nhập bình quân đầu người (GDP),
vốn vật chất, lực lượng lao động và các bệnh truyền
nhiễm: HIV/AIDS, bệnh lao, sốt xuất huyết, sốt rét
được thu thập trong khoảng thời gian 31 năm (1986-
2016). Nguồn dữ liệu thu thập được mô tả chi tiết
trong Bảng 2.
KẾT QUẢNGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
Môhình (1) có 1 biến phụ thuộc, 6 biến độc lập. Trong
đó, có 6 biến dữ liệu được thu thập trong khoảng thời
gian 31 năm, riêng biến HIV chỉ có dữ liệu từ năm
1990, vì đây là năm mà bệnh nhân nhiễm HIV đầu
tiên ở Việt Nam được phát hiện. Kết quả phân tích
thống kê mô tả đượ c thể hiện trong Bảng 3.
Giá trị trung bình của thu nhập bình quân đầu người
(GDP) trong 31 năm (1986- 2016) là 918,87 USD, độ
lệch chuẩn là 423,62 USD, cho thấy thu nhập bình
quân đầu người thay đổi rất mạnh theo thời gian theo
xu hướng tăng. Trung bình số bệnh nhân nhiễm
mới HIV hàng năm trong giai đoạn nghiên cứu là
13.082,37 người, độ lệch chuẩn là 8.898,43 người,
lượng bệnh nhân tăng dần đến năm 2002 và bắt đầu
giảm dần hàng năm. Số bệnh nhân lao nhiễm mới
trung bình trong giai đoạn nghiên cứu là 81.321,03
người, độ lệch chuẩn là 20.580,17 người, lượng bệnh
nhân tăng dần đều theo thời gian nghiên cứu và biến
thiên hàng nămkhông đáng kể. Số bệnh nhânmắc sốt
xuất huyết trung bình trong giai đoạn nghiên cứu là
92.301,61 người, độ lệch chuẩn 63.088,37 người, đây
là bệnh truyền nhiễm phát triển theo chu kỳ khó xác
định, khoảng 2 đến 3 năm lại có một đợt dịch bùng
phát. Số bệnh nhân mắc sốt rét trung bình trong giai
đoạn nghiên cứu là 101.916,94 người, độ lệch chuẩn
63.041,54 người, số lượng bệnh nhân có 2 đợt đỉnh
điểm là năm 1992 (225.928 người) và năm 2000. Lực
lượng lao động trung bình trong giai đoạn nghiên cứu
là 42.869.662,94 người, độ lệch chuẩn là 8.646.561,62
người. Lượng vốn vật chất trung bình trong giai đoạn
nghiên cứu là 21.926.584.844 USD, độ lệch chuẩn là
14.192.967.511 USD.
Kết quả kiểm định tính dừng chuỗi dữ liệu các
biến trong mô hình nghiên cứu được thể hiện trong
Bảng 4.
Qua kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu cho thấy
các biến có chuỗi dữ liệu không dừng ở bậc 0, nhưng
dừng ở sai phân bậc 1. Kết quả này cho thấy các biến
có thể có đồng liên kết. Để biết mô hình (1) có phải
là hồi quy giả mạo hay không, các biến trongmô hình
có đồng liên kết hay không, cần tiến hành kiểm định
tính dừng phần dư của nó (phần dư ở mô hình (1)
được ký hiệu là S1). Kết quả kiểm định được thể hiện
ở Bảng 5.
Kết quả ở Bảng 5 cho thấy chuỗi phần dư S1 là chuỗi
dừng vì giá trị tuyệt đối của thống kê kiểm định ADF
= 4,6834 đều lớn hơn giá trị tuyệt đối của t tra bảng
ở các mức ý nghĩa 1% và 5% , và 10%. Do vậy, có thể
kết luận rằng mô hình hồi quy (1) không phải là hồi
quy giảmạo và các biến chuỗi dữ liệu ở phương trình
(1) là đồng liên kết.
Sau khi ước lượngmô hình hồi quy (1), các kiểm định
chuẩn đoán mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển được
thực hiện. Vì nghiên cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời
gian, do vậy, giả định về đa cộng tuyến, phương sai
thay đổi và tự tương quan được quan tâm. Kiểm định
BG về tự tương quan cho thấy giả thiết này không
bị vi phạm (Giá trị kiểm định Chi – bình phương =
1,447, với P_value = 0,2289); kiểm định phương sai
thay đổi bằng kiểm định Harvey - Godfrey cũng cho
thấy không có hiện tượng phương sai thay đổi (Giá trị
kiểm định Chi – bình phương = 7,88, với P_value =
0,2464). Kiểm định đa cộng tuyến của mô hình được
thể hiện ở Bảng 6.
Kết quả ở Bảng 6 cho thấy mô hình có hiện tượng
đa cộng tuyến không hoàn hảo ở các biến vốn (LLF)
và lao động (LCF). Tuy nhiên, vì giá trị của thống kê
kiểm định t trongmô hình hồi quy không quá bé (|t| >
2), điều này chứng tỏ có mối quan hệ mạnh giữa các
biến trong mô hình hồi quy nên có thể bỏ qua hiện
tượng đa cộng tuyến. Hơn nữa, mục tiêu chính của
nghiên cứu này là xem xét tác động của các biến dịch
bệnh lên tăng trưởng kinh tế, thì chúng ta nên phớt lờ
hoàn toàn các VIF của các biến vốn và lao động26.
Như vậy, qua kiểm định chuẩn đoán các giả định cơ
bản của mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển với kết
quả là các giả định đều không bị vi phạm. Do đó, các
kết quả của mô hình hồi quy ở Bảng 7 là đáng tin cậy.
Kết quả ước lượng cho thấy, hệ số hồi quy của bệnh
HIV/AIDS là -0,022 có ý nghĩa thống kê cao tại mức
ý nghĩa 1%, tức là khi số bệnh nhân mắc mới HIV
433
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(4):430-439
Bảng 1: Định nghĩa các biến trongmô hình nghiên cứu
Biến Mô tả biến
Ln(GDP) Ln của GDP bình quân đầu người theo giá cố định
Ln(HIV) Ln của ca bệnh HIV mới của người đang ở tuổi lao động (15-49)
Ln(TB) Ln của số người nhiễm lao mới
Ln(D) Ln của số người bị sốt xuất huyết
Ln(M) Ln của số người nhiễm sốt rét
Ln(CF) Ln của vốn vật chất
Ln(LF) Ln của lực lượng lao động
Bảng 2: Mô tả nguồn dữ liệu và số lượng quan sát thu thập được
Biến Nguồn dữ liệu Số quan sát Đơn vị tính
GDP GDPbình quânđầungười từ dữ liệu tài khoản quốc
gia của Ngân hàngThế giới 20
31 Đô la Mỹ (USD) theo giá cố
định năm 2010
HIV Số ca nhiễm HIV mới từ số liệu ước tính của
Chương trình Phối hợp của Liên Hiệp Quốc về
HIV/AIDS 21
31 Số ca bệnh mắc mới
TB Số ca lao nhiễm mới từ dữ liệu chương trình lao
của Tổ chức Y tế Thế giới 22
31 Số ca bệnh mắc mới
D Số ca nhiễm sốt xuất huyết theo số liệu niên giám
thống kê Y tế - Bộ Y tế 23
31 Số ca bệnh
M Số ca nhiễm sốt rét. Số liệu trước năm 1990 của Tổ
chức Y tếThế giới ; niên giám thống kê Y tế - Bộ Y
tế 23,24
31 Số ca bệnh
CF Tổng vốn theo giá cố định năm 2010 được tính từ
tỉ lệ vốn trên GDP của Ngân hàngThế giới 20
31 Đô la Mỹ (USD) theo giá cố
định năm 2010
LF Lực lượng lao động theo ước tính củaHội nghị Liên
Hiệp Quốc vềThương mại và Phát triển 25
31 Số người
Bảng 3: Thống kêmô tả các biến nghiên cứu
Biến Số quan
sát
Giá trị trung
bình
Giá trị trung
vị
Độ lệch
chuẩn
Giá trị nhỏ
nhất
Giá trị lớn
nhất
GDP 31 918,87 825,90 423,62 397,88 1.771,26
HIV 31 13.082,37 14.036 8.898,43 0 25.914
TB 31 81.321,03 90.728 20.580,17 47.557 105.839
D 31 92.301,61 78.692 63.088,37 30.326 345.517
M 31 101.916,94 84.625 63.041,54 10.192 274.910
LF 31 42.869.662,94 43.015.980 8.646.561,62 28.276.455 56.280.050
CF 31 21.926.584.844 18.746.662.563 14.192.967.511 3.367.337.535 43.615.884.022
434
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(4):430-439
Bảng 4: Kết quả kiểm định tính dừng bằng ADF
Chuỗi Kiểm định ADF Kết luận
P-value ADF 1% 5% 10%
Đối với chuỗi dữ liệu gốc - I(0)
LnGDP 0,2406 -
2,7085
-4,3098 -
3,5742
-
3,2217
Không dừng
LnHIV 0,0000 -
5,1557
-2,6648 -
1,9556
-
1,6087
Dừng
LnTB 0,7369 -
1,6641
-4,3743 -
3,6032
-
3,2380
Không dừng
LnD 0,0023 -
4,2576
-3,6702 -
2,9639
-
2,6210
Dừng
LnM 0,7805 -
1,5710
-4,2967 -
3,5683
-
3,2183
Không dừng
LnCF 0,9561 -
0,7837
-4,2967 -
3,5683
-
3,2183
Không dừng
LnLF 1,0000 2,0237 -3,3943 -
3,6121
-
3,2430
Không dừng
Đối vớ)
D(LnGDP) 0,0023 -
5,1021
-4,4163 -
3,6220
-
3,2485
Dừng
D(LnHIV) 0,0002 -
6,1268
-4,3943 -
3,6122
-
3,2431
Dừng
D(LnTB) 0,0006 -
5,4683
-4,3098 -
3,5742
-
3,2217
Dừng
D(LnD) 0,0000 -
7,9653
-4,3098 -
3,5742
-
3,2217
Dừng
D(LnM) 0,0016 -
5,0896
-4,3098 -
3,5742
-
3,2217
Dừng
D(LnCF) 0,0020 -
4,9969
-4,3098 -
3,5742
-
3,2217
Dừng
D(LnLF) 0,0002 -
5,8506
-4,3098 -
3,5742
-
3,2217
Dừng
Bảng 5: Kiểm định tính dừng bằng ADF cho phần dư từmô hình hồi quy (1)
Chuỗi Kiểm định ADF Kết luận
P-value ADF 1% 5% 10%
S1 0,0000 -
4,6834
-2,6443 -
1,9525
-
1,6102
Dừng
435
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(4):430-439
Bảng 6: Kiểm định đa cộng tuyến bằng phương pháp nhân tử phóng đại phương sai
Biến VIF
LLF 29,09
LCF 25,98
LTB 8,61
LM 3,92
LHIV 3,84
LD 1,34
Bảng 7: Kết quả ước lượngmô hình hồi quy bằng phương pháp OLS
Biến độc lập Hệ số hồi quy Sai số chuẩn Kiểm định t P-value Hệ số hồi quy chuẩn hoá
Ln(HIV) -0,022 0,002 -10,63 0,000 -0,151
Ln(TB) -0,095 0,036 -2,63 0,015 -0,056
Ln(D) -0,015 0,007 -2,10 0,047 -0,017
Ln(M) -0,057 0,009 -6,15 0,000 -0,089
Ln(LF) 1,898 0,089 21,24 0,000 0,833
Ln(CF) 0,089 0,020 4,39 0,000 0,163
Hệ số chặn -28,827 1,268 -22,74 0.000 -
Số quan sát 31
R2 hiệu chỉnh 0,998
Biến phụ thuộc: Ln(GDP) - là logarit tự nhiên của GDP
tăng 1% so với năm trước thì thu nhập bình quân đầu
người sẽ giảm 0,022% so với năm trước đó khi các yếu
tố khác không đổi. Đối với bệnh HIV/AIDS mặc dù
mới xuất hiện từ năm 1990 nhưng có tác động rất lớn
đến tăng trưởng kinh tế. Khi một bệnh nhân nhiễm
HIV sức khoẻ sẽ giảm sút không còn khả năng lao
động, họ có thể phải nghỉ việc, có thể phải đối mặt
với phân biệt đối xử của cộng đồng, xã hội. Mặt khác
đến nay vẫn chưa có thuốc đặc hiệu điều trị HIV, và
thuốc để điều trị vẫn chưa điều chế trong nướcmà vẫn
phải nhập khẩu do đó thuốc vẫn còn rất đắt, để điều
trị cần phải sử dụng nhiều tiền để mua thuốc. Xã hội
cũng cần xây dựng và hỗ trợ các chương trình tuyên
truyền giáo dục để mọi người nhận biết về mức độ
nguy hiểm của bệnh HIV/AIDS, hỗ trợ các đối tượng
có nguy cơ nhiễm bệnh trong xã hội sử dụng những
biện pháp an toàn để phòng bệnh, như tình dục an
toàn với gái mại dâm, đồng tính nam, không sử dụng
lại bơm kim tiêm đối với các đối tượng nghiệnma tuý,
giúp người nhiễm bệnh tránh mặc cảm và hội nhập
với cộng đồng. Các hoạt động kể trên cần rất nhiều
nguồn lực của gia đình và xã hội như tiền bạc, công
sức (lực lượng lao động) để duy trì và hoạt động do
đó các nguồn lực chính là lực lượng lao động và vốn
vật chất sẽ bị giảm trong quá trình tăng trưởng kinh
tế.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra bệnh lao có tác động
ngược chiều (tác động âm) lên tăng trưởng kinh tế
với giá trị hệ số hồi quy của bệnh lao là -0,095 và
có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%, tức là khi
số bệnh nhân lao mắc mới tăng lên 1% so với năm
trước thì thu nhập bình quân đầu người giảm xuống
0,095% so với năm trước khi các yếu tố khác không
đổi. Bệnh lao không còn là bệnh nan y, nhưng vẫn
có tác động tới tăng trưởng kinh tế. Ở nước ta trung
bình có hơn 100.000 ca bệnh mắc lao mới được phát
hiệnmỗi năm, việc điều trị bệnh cũng được nhà nước
quan tâm và hỗ trợ như hoạt động của chương trình
lao quốc gia để hỗ trợ cho các bệnh nhân lao, các bệnh
nhân lao được cấp thuốc miễn phí, tỉ lệ chữa khỏi lao
phổi ABF dương tính lên đến 90,9%, mặc dù vậy bệnh
lao vẫn ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động làm
cho năng suất lao động giảm xuống, lao động nhiễm
bệnh phải nghĩ việc để điều trị và gia đình phải bỏ
ra các chi phí gián tiếp khác như vận chuyển, nuôi
dưỡng người bệnh, xã hội cũng phải gánh vác các chi
phí khác nhưmua thuốc, chi phí cho hoạt động tuyên
truyền, khám chữa bệnh nên bệnh truyền nhiễm này
436
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(4):430-439
vẫn có tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Bệnh sốt xuất huyết có tác độngngược chiều (tác động
âm) có ý nghĩa thống kê cao lên tăng trưởng kinh tế
với hệ số hồi quy là -0,015, tức là khi số bệnh nhân
mắc sốt xuất huyết tăng lên 1% so với năm trước thì
thu nhập bình quân đầu người sẽ giảm đi 0,015% so
với năm trước khi các yếu tố khác không đổi. Bệnh
sốt xuất huyết chưa có thuốc đặc trị và vắc-xin ngăn
ngừa bệnh hiệu quả, khu vực lưu hành bệnh thường ở
thành phố hoặc khu vực đông dân cư, trẻ em dưới 15
tuổi có sức đề kháng kém là đối tượng dễ mắc bệnh
nhất. Chu kỳ bùng phát dịch bệnh rất khó xác định,
cứ khoảng 2 hoặc 3 năm lại có 1 đợt bùng phát dịch
trên diện rộng. Người bệnh phải nghỉ việc để điều trị
trong thời gian khoảng 7 đến 14 ngày. Chi phí điều trị
bao gồm cả chi phí trực tiếp mua thuốc chữa bệnh và
chi phí gián tiếp như chi phí thuê giường bệnh, chi phí
đi lại. Nghiên cứu của Shepard và cộng sự 8 cho thấy
ở Đông Nam Á mỗi năm phải bỏ ra 1 tỉ USD để điều
trị sốt xuất huyết. Tương tự, nghiên cứu của Pham
và cộng sự 10 tại bệnh viện huyện Củ Chi, thành phố
Hồ Chí Minh tính toán được chi phí điều trị cho 1 ca
bệnh sốt xuất huyết là 139 USD.
Kết quả hồi quy cũng cho thấy bệnh sốt rét có tác động
ngược chiều (tác động âm) lên tăng trưởng kinh tế với
hệ số hồi quy là -0,057 và có ý nghĩa thống kê cao ở
mức ý nghĩa 1%, tức là khi số lượng bệnh nhân sốt rét
tăng lên 1% so với năm trước thì thu nhập bình quân
đầu người giảm đi 0,057% so với năm trước với điều
kiện các yếu tố khác không đổi. Bệnh sốt rét không
còn quá nguy hiểm đến tính mạng người dân, thuốc
điều trị sốt rét cũng đã được cấp phát miễn phí nên
không ảnh hưởng nhiều đến thu nhập bình quân đầu
người của người dân. Bệnh sốt rét thường lưu hành ở
vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có
môi trường sống không đảm bảo vệ sinh nên tốn kém
trong quá trình điều trị là chi phí vận chuyển bệnh
nhân đi điều trị và người thân bỏ thời gian để chăm
sóc bệnh nhân. Nghiên cứu của Morel và cộng sự 7
ở hai huyện miền núi (Bác Ái và Ninh Sơn) của tỉnh
NinhThuận cho thấy cứmỗi ca bệnh sốt rét sẽ tiêu tốn
ước tính hết 11,79 USD, trong đó chi phí trực tiếp ước
tính là 0,69 USD (6%) và chi phí gián tiếp ước tính là
11,10 USD.
Như vậy 4 bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đều có tác
động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa
thống kế cao. Bệnh có tác động mạnh nhất đến tăng
trưởng kinh tế là HIV/AIDS (hệ số hồi quy chuẩn hoá
là 0,151), bệnh sốt rét (hệ số hồi quy chuẩn hoá là
0,089), bệnh lao (hệ số hồi quy chuẩn hoá là 0,056) và
cuối cùng là bệnh sốt xuất huyết (hệ số hồi quy chuẩn
hoá là 0,017).
KẾT LUẬN VÀHÀMÝ CHÍNH SÁCH
Nghiên cứu này đánh giá tác động của một số bệnh
truyền nhiễm chính đến tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam trong giai đoạn 1986-2016. Kết quả cho thấy
bệnh HIV/AIDS, bệnh lao, sốt xuất huyết và sốt rét
tác động ngược chiều lên tăng trưởng kinh tế. Các hệ
số hồi quy chuẩn hoá của HIV/AIDS, bệnh lao, sốt
xuất huyết và sốt rét lần lượt là 0,151, 0,056, 0,017,
0,089 cho thấy HIV/AIDS có tác động mạnh nhất so
với các bệnh được đề cập trong nghiên cứu đến tăng
trưởng kinh tế. Từ kết quả nghiên cứu, một số đề xuất
hàm ý chính sách sau nên được nghiên cứu triển khai
nhằmkiểm soát và dần loại trừ các loại dịch bệnh, qua
đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Một là, cần tập trung nguồn lực vào công tác phòng
chống đại dịch HIV/AIDS. Hiện nay vẫn chưa có
thuốc đặc hiệu hoặc vắc-xin để điều trị dứt điểm bệnh
HIV. Toàn bộ thuốc điều trị vẫn còn phải nhập từ
nước ngoài nên giá thành rất cao, thuốc phổ biến để
điều trị HIV đang được lưu hành phổ biến là ARV
(antiretroviral – thuốc kháng virus) chủ yếu được cấp
phát thông qua nguồn viện trợ của các dự án nước
ngoài. Từ năm 2010 Việt Nam trở thành nước có thu
nhập trung bình, điều đó cũng có nghĩa là các nước
và các tổ chức trên thế giới đang rút dần nguồn viện
trợ cho Việt Nam, các dự án về HIV/AIDS cũng đang
chuyển nguồn kinh phí sang các nước nghèo hơn do
đó chúng ta phải hoàn toàn chủđộngnhập khẩu thuốc
ARV để điều trị cho bệnh nhân. Một số chính sách
cần thực hiện đối với bệnhnhânHIV/AIDSnhư: thực
hiện chính sách cấp phát thuốc ARV miễn phí nếu
tham gia Bảo hiểm Y tế, tăng cường công tác tuyên
truyền trong cộng đồng về nguy cơ lây lan của đại dịch
HIV/AIDS, đặc biệt là ở nhưng khu vực có các tệ nạn
xã hội như tiêm chích ma tuý, mại dâm, đồng thời
tạo môi trưởng sống lành mạnh cho các đối tượng
đang nhiễm bệnh, không phân biệt đối xử với các
bệnh nhân để họ có cuộc sống lànhmạnh và trở thành
tuyên truyền viên tích cực cho cộng đồng.
Hai là, cần đưa vắc-xin phòng rốt rét thử nghiệm lâm
sàng ở Việt Nam, nếu có kết quả tốt sẽ áp dụng ở các
khu vực vùng sâu, vùng xa để tránh lây lan trong diện
rộng và phát triển thành dịch của căn bệnh này. Vì
bệnh sốt rét cũng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế, mặc dù ởViệtNam tỉ lệmắc bệnh đang có dấu
hiệu giảm dần song không thể chủ quan về căn bệnh
này.
Ba là, thực hiện tốt các dự án cónguồn tài trợ của nước
ngoài trong công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm
như sốt xuất huyết. Hiện nay đang có chương trình
phối hợp giữa Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương và
Đại họcMonash (Úc) triển khai ứng dụngmuỗimang
437
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(4):430-439
Wolbachia để giảm quần thể muỗi truyền bệnh bằng
quần thể muỗi không thể truyền bệnh. Nếu thành
công đây là phương pháp tiết kiệm, tự nhiên, an toàn
và duy trì lâu dài. Các địa phương có dự án triển khai
phối hợp để triển khai thành công dự án.
Bốn là, tiếp tục tuyên truyền cho người dân các biện
pháp tránh lây nhiễm của từng loại bệnh. Đối với các
bệnh đã có chương trình hỗ trợ điều trị của nhà nước
cần thông báo cụ thể địa điểm được chữa trị miễn phí
cho tất cả mọi người dân được biết.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
AIDS: Acquired Immune Deficiency Syndrome (Hội
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)
ADF: AugmentedDickey-Fuller test (KiểmđịnhAug-
mented Dickey-Fuller)
ARV: Antiretroviral (thuốc kháng virus).
GDP: Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc
nội)
HIV: Human Immunodeficiency Virus (Tác nhân
truyền nhiễm làm suy giảm miễn dịch ở người)
OLS: Ordiginal Least Square (Phương pháp hồi quy
bình phương tối thiểu thông thường)
P-value: Giá trị P
USD: Đô la Mỹ
VIF: Variance inflation factor (Nhân tử phóng đại
phương sai)
WB: World Bank (Ngân hàngThế giới)
WHO: World Health Organization (Tổ chức Y tếThế
giới)
XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung
đột lợi ích nào trong công bố bài báo.
ĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ
Phạm Thành Thái và Nguyễn Thanh Lê là đồng tác
giả của bài báo này. Cả hai tác giả cùng lên ý tưởng,
nghiên cứu các tài liệu liên quan và xây dựng mô
hình nghiên cứu. NguyễnThanh Lê chịu trách nhiệm
chính trong việc thu thập dữ liệu. Phạm Thành Thái
phân tích, xử lý lữ liệu. Cả hai tác giả cùng đóng góp
vào việc thảo luận kết quả nghiên cứu. Phạm Thành
Thái tiến hành chỉnh sửa, hiệu chỉnh bài báo. Cuối
cùng, cả hai tác giả cùng tiến hành kiểm tra và chấp
thuận bài viết này.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Nguyễn TrọngHoài. Các chuyên đề phát triển chọn lọc. Thành
phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh; 2013.
2. Hồng Hải. Hơn 53.000 ca sốt xuất huyết, 34 người tử vong
[Online]. 2015 [Dantri Online]. Available:
n/suc-khoe/hon-53-000-ca-sot-xuat-huyet-34-nguoi-tu-vong
-20151103225555762.htm [Accessed 14/1/2017].
3. Việt Anh. Mỗi năm Việt Nam thêm 12.000 người nhiễm HIV
[Online]. 2015 [Vietnamnet.vn]. Available:
vn/vn/doi-song/moi-nam-viet-nam-them-12-000-nguoi-nhie
m-hiv-272224.html [Accessed 14/2/2017].
4. WHO.Thông tin cần biết [Online]. 2017 [World Health Organi-
zation]. Available:
tuberculosis/factsheet/vi/ [Accessed 15/2/2017].
5. Trâm Anh. Bệnh nhân HIV tham gia bảo hiểm y tế: Được
cấp thuốc điều trị miễn phí [Online]. 2015 [kcb.vn]. Avail-
able: https://kcb.vn/benh-nhan-hiv-tham-gia-bao-hiem-y-te-
duoc-cap-thuoc-dieu-tri-mien-phi.html [Accessed 1/9/2017].
6. Hồng Nhung. TPHCM: Bệnh sốt xuất huyết tăng, chi phí điều
trị lớn [Online]. 2015 [Kinh tế Sài Gòn Online]. Available: http:
//www.thesaigontimes.vn/135384/TPHCM-Benh-sot-xuat-hu
yet-tang-chi-phi-dieu-tri-lon.html [Accessed 1/9/2017].
7. Morel CM, Thang ND, Xa NX, Hung I, Thuan I, Ky PV, et al.
The economic burden of malaria on the household in south-
central Vietnam. Malaria journal. 20087;7:166. Available from:
10.1186/1475-2875-7-166.
8. Shepard DS, Undurraga EA, Halasa YA. Economic and Dis-
ease Burden of Dengue in Southeast Asia. PLoS Negl Trop Dis.
2013;7.
9. Stahl HC, Butenschoen VM, Tran HT, Gozzer E, Skewes R, Ma-
hendradhata Y, et al. Cost of dengue outbreaks: literature re-
view and country case studies. BMC Public Health. 2013;13.
10. Pham LD, Phung N, Le N, Vo TQ. Economic report on the cost
of dengue fever in Vietnam: case of a provincial hospital. Clin-
icoEconomics and Outcomes Research. 2017;9:9.
11. Norashidah MN, a Sirag A, Wency BKT, Waziri SI. Diseases and
Economic Performance: Evidence from Panel Data. Asian So-
cial Science. 2015;11.
12. Ruger JP, Jamison DT, Bloom DE. Health and the economy.
Merson MH, Black RE, Mills AJ, editors. Aspen: International
Public Health, Gaithersburg; 2001.
13. WHO. The world health report 1999: Making a difference.
World Health Organization; 1999.
14. Gallup JL, Sachs JD. The Economic Burden of Malaria. Ameri-
can Society of Tropical Medicine and Hygiene. 2001;.
15. Grimard F. & Harling G. The Impact of Tuberculosis on Eco-
nomic Growth. McGill University, Montréal: Department of
Economics; 2004.
16. Lucian U, Oreste S, Traian MT, Traian BC. Relationship And
Causality Between Economic Growth Rate And Certain Dis-
eases In The European Union. Annals of Faculty of Economics.
2009;1:6.
17. Norashidah MN, a Sirag A, Wency BKT, Waziri SI. Diseases and
Economic Performance: Evidence from Panel Data. Asian So-
cial Science. 2015;11.
18. Maijama’a D, Samsudin S, Khan SM, Hiv/ SM. HIV/AIDS
and Economic Growth: Empirical Evidence from Sub-Saharan
Africa. Research in Applied Economics. 2015;7.
19. WHO. WHO guide to identifying the economic consequences
of disease and injury. Department of Health Systems Financ-
ing; 2009.
20. Ngân hàng Thế giới.
eports.aspx?source=world-development-indicators (truy cập
lần thứ nhất tháng 1/2017, bổ sung tháng 8/2017).
21. Chương trình Phối hợp của LiênHiệpQuốc vềHIV/AIDS. Cơ sở
dữ liệu trực tuyến của AIDSinfo tại
.org/devinfo/libraries/aspx/home.aspx (truy cập lần thứ nhất
tháng 1/2017, bổ sung tháng 8/2017).
22. Tổ chức Y tế Thế giới.
ownload/en/ (truy cập lần thứ nhất tháng 1/2017).
23. Niên Giám thống kê Y tế - Bộ Y tế.
24. Tổ chức Y tế Thế giới.
b.htm, số liệu trong báo cáo hàng năm của Tổ chức Y
tế Thế giới tại
(truy cập lần thứ nhất tháng 1/2017).
25. Hội nghị Liên HiệpQuốc về Thươngmại và Phát triển.
nctadstat.unctad.org/wds/TableViewer/tableView.aspx (truy
cập lần thứ nhất tháng 1/2017).
26. Wooldridge J. M. Introductory Econometrics: A Modern Ap-
proach. 5th Edition. Cengage Learning; 2013.
438
Science & Technology Development Journal – Economics - Law and Management, 3(4):430-439
Open Access Full Text Article Research Article
1Nha Trang University
2EDPV Projec
Correspondence
Pham Thanh Thai, Nha Trang University
Email: thaipt@.ntu.edu.vn
History
Received: 15/1/2019
Accepted: 22/7/2019
Published: 31/12/2019
DOI : 10.32508/stdjelm.v3i4.585
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
The impact of diseases on economic growth: the case of Viet Nam
Pham Thanh Thai1,*, Nguyen Thanh Le2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
The spread of diseases is a global challenge which affects life expectancy, productivity and eco-
nomic growth. A healthy workforce has a faster acquisition of new knowledge to apply it to pro-
duction and maintains high productivity, thereby promoting economic growth. On the contrary,
a disease-infected workforce may have a low level of productivity, high expenses for disease treat-
ment, insufficient health and finance to acquire new knowledge and as such, slowing down the
economic growth. This study examines the implications of major infectious diseases, including
HIV/AIDS, dengue,malaria and tuberculosis on the economic growth of Vietnam. The cointegration
regressionmodel with the ordinary least squaresmethod is applied in the estimation procedure on
a time series dataset obtained fromWorld Bank, World Health Organization, UN and the Ministry of
Health of Vietnam from 1986 to 2016. The results indicate that the number of new patients of any
major infectious disease is negatively related to per-capita income. In particular, a 1% increase in
the number of new patients with HIV/AIDS, tuberculosis, dengue andmalaria leads to a decrease of
0.022%, 0.095%, 0.015% and 0.057% in yearly income, respectively. These findings have significant
policy implications in terms of improving the effectiveness of the prevention of infectious diseases,
protection of public health so as to boost the economic growth of the country. In addition, the re-
sults also provide add to the current literature evidence of the relationship between public health
and economic growth in Vietnam.
Key words: Economic growth, HIV/AIDS, tuberculosis, dengue, malaria
Cite this article : Thanh Thai P, Thanh Le N. The impact of diseases on economic growth: the case of
Viet Nam. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 3(4):430-439.
439
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_dich_benh_den_tang_truong_kinh_te_truong_hop_cu.pdf