Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế Việt Nam và một số vấn đề đặt ra

Kết luận Trên chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống và trình độ người lao động được nâng cao, hệ thống CSHT ngày càng được mở rộng và hiện đại mặc dù vậy vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Chúng ta đang trong thời kỳ chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH, từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức, vì vậy hội nhập quốc tế sâu rộng được xác định là chính sách quan trọng, tiếp tục là xu thế nổi bật trong quan hệ kinh tế quốc tế, mở ra cho kinh tế nước ta những cơ hội phát triển mới. Vì vậy, Việt Nam cần phải có những chính sách và bước đi phù hợp để có thể hội nhập sâu rộng hơn trong thời gian tới.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 425 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế Việt Nam và một số vấn đề đặt ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017 35 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế Việt Nam và một số vấn đề đặt ra Impacts of international economic integration on Vietnam’s economic development and some concerning issues TS. Phạm Thị Bạch Tuyết, Trường Đại học Sài Gòn Pham Thi Bach Tuyet, Ph.D., Saigon University Tóm tắt Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, Việt Nam đã từng bước chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện, trở thành thành viên của nhiều diễn đàn, tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Trong quá trình hội nhập đó, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Việt Nam cũng đã gặp không ít những khó khăn, thách thức đòi hỏi nước ta cần tích cực và chủ động hơn nữa trong quá trình hội nhập của mình, từng bước khắc phục những khó khăn để tiếp tục vững bước trong những chặng đường hội nhập phía trước. Từ khóa: Việt Nam, hội nhập kinh tế, kinh tế quốc tế, xuất khẩu, đầu tư. Abstrast Globalization and international economic integration have been prominent trends of the world economy today. Implementing the guidelines of the Communist Party, Vietnam has taken active roles in integrating more deeply and comprehensively, and has become a member of many forums as well as regional and world economic organizations. In the process of integration, Vietnam has made many important achievements, contributing to the country's socio-economic development and raising its position and role in the international arena. However, besides the achievements, Vietnam has encountered many difficulties and challenges that urge our country to be more active and positive in the integration process, and to gradually overcome difficulties in order to stay on the integration path ahead. Keywords: Vietnam, economic integration, international economy, export, investment. 1. Mở đầu Trong xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa hiện nay, bất kì quốc gia nào muốn phát triển cũng đều gắn liền với thị trường thế giới, vì vậy hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong phát triển đất nước. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thời đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Hội nhập quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội... Trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế đóng vai trò chủ đạo, là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự TÁC Đ NG CỦA H I NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ VI T NAM 36 do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình thức liên kết khác nhau, từ đơn phương đến song phương, từ vùng, khu vực, liên khu vực cho đến toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ cam kết khác nhau, từ thấp đến cao là Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Hiệp định đối tác kinh tế, Liên minh thuế quan (CU), Thị trường chung, Liên minh kinh tế - tiền tệ. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả trên các lĩnh vực của đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần nâng cao vai trò và vị thế của nước ta trên trường thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy quá trình hội nhập kinh tế của nước ta vẫn chưa thực sự tạo được những tác động tích cực, mang tính dài hạn, còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Bài viết xin khái quát lại những dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong 30 năm qua, đánh giá những thành tựu và rút ra những vấn đề còn tồn tại đến kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập. 2. Nội dung 2.1. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương này, từ năm 1986 đến nay Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn về hội nhập quốc tế, đưa nước ta từng bước mở cửa, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đại hội lần VI (12/1986) của Đảng đã mở đầu cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước và cũng từ đây nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta bắt đầu được hình thành. Mặc dù chưa đề cập đến khái niệm “hội nhập” nhưng Đảng ta đã khẳng định “Cần tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác” [3]. Đến Đại hội VIII (1996), lần đầu tiên thuật ngữ "Hội nhập" mới chính thức được đề cập trong Văn kiện của Đảng "Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu" [3] nhằm đưa nước ta hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực. Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng, trong giai đoạn này, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh với việc Việt Nam đã thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) (10/1993). Ngày 11/7/1995 Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Hoa Kì và cũng trong năm 1995 gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) tháng 6/1996 và đến tháng 11/1998 Việt Nam được kết nạp và trở thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Cho đến Đại hội lần IX (2001), tư duy về hội nhập được Đảng chỉ rõ và nhấn mạnh hơn "Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế"[3] trên tinh thần phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài. Cũng trong năm này, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị PHẠM THỊ BẠCH TUYẾT 37 quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 "Về hội nhập kinh tế quốc tế" đề ra chín nhiệm vụ cụ thể, trong đó có việc tích cực đàm phán gia nhập WTO. Đại hội lần XI (1- 2011), vấn đề hội nhập quốc tế của Đảng ta đã có bước chuyển biến quan trọng, đa dạng và toàn diện hơn trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội khi Đảng ta chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “tích cực và chủ động hội nhập quốc tế”. Với những thay đổi quan trọng trong nhận thức của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế trong 30 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã tích cực mở rộng mối quan hệ quốc tế thông qua việc kí kết nhiều hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại lớn nhất thế giới WTO vào ngày 7/1/2007, đánh dấu quá trình mở cửa kinh tế, chủ động hội nhập toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Đặc biệt, ngày 22/11/2015, Việt Nam cùng với các nhà Lãnh đạo thuộc khối ASEAN đã ký Tuyên bố Kua-la-Lum-pur, chính thức thành lập Cộng đồng ASEAN và ngày 31/12/2015 thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) mở ra nhiều cơ hội hợp tác lớn cho Việt Nam. Cũng trong thời gian qua, để đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tích cực và chủ động trong việc tham gia tiến trình đàm phán và ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác. Tính đến hết năm 2015, Việt Nam đã ký kết và đang tham gia đàm phán thiết lập 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 9 FTA đã kí kết và có hiệu lực gồm FTA ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), FTA ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP), FTA ASEAN - Oxtraylia và Niu Dilân (AANZCERFTA), FTA ASEAN - Ấn Độ (AIFTA), Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA), FTA Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA), FTA Việt Nam - Chilê (VCFTA), FTA Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (VCUFTA). Vừa hoàn tất đàm phán 2 FTA (gồm FTA với Liên minh Châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương - TPP). Đang tiếp tục đàm phán 4 FTA, gồm: FTA ASEAN - Hồng Công (Trung Quốc), FTA với Khối thương mại tự do Châu Âu (EVFTA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA Việt Nam - Israel. Tham gia các FTA giúp Việt Nam đẩy mạnh quá trình xuất khẩu, nâng cao hiệu quả nhập khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trong nước. Ngoài lợi ích kinh tế, các FTA với các đối tác này còn góp phần mở rộng mối quan hệ thương mại và chính trị của Việt Nam với các nước và với cộng đồng quốc tế. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có tác động tích cực, trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội đất nước, thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư, thị trường được mở rộng, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, tiếp thu và học hỏi được công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lí và các nguồn lực quan trọng khác. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng tạo ra những tác động tiêu TÁC Đ NG CỦA H I NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ VI T NAM 38 cực đến nền kinh tế như làm cho quá trình cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, dễ dẫn đến nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện trình độ khoa học công nghệ của nước ta vẫn còn nghèo nàn và lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ bé, còn phụ thuộc nhiều vào vốn và công nghệ từ nước ngoài. 2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế Việt Nam Về hoạt động thương mại quốc tế, trong những năm qua, Việt Nam đã tận dụng khá tốt các cơ hội do tiến trình hội nhập quốc tế mang lại. Việc tham gia các hiệp định, tổ chức kinh tế song phương và đa phương đã và đang mở ra các cơ hội cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được tiếp cận các thị trường rộng lớn của thế giới. Các cam kết cắt giảm thuế quan được thực hiện và các rào cản thương mại bị dỡ bỏ, góp phần giúp cho hoạt động xuất khẩu có những bước phát triển mạnh mẽ, không ngừng tăng trưởng nhanh cả về quy mô và tốc độ. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam liên tục tăng qua các năm, tăng từ 5,156 tỷ USD năm 1990 lên 327,587 tỷ USD năm 2015, tăng 63,5 lần. Riêng năm 2016, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 350,7 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm 2015. Tốc độ tăng trưởng của từng thời kỳ rất cao, thời kỳ từ 1991-1995 tăng gấp 2 lần so với thời kỳ 1986-1990 với tốc độ tăng trưởng 21,4%/năm; thời kỳ 2001- 2005 tốc độ tăng bình quân 18,2%/năm; thời kỳ 2011-2015 cũng tăng 2,1 lần thời kỳ trước, đạt 1.321 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân 16,1%/năm (Bảng 1). Cũng từ năm 1990 đến nay, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng đều qua các năm cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng từ 2,404 tỷ USD năm 1990 lên 176,6 tỷ USD năm 2016, tăng gấp 73,5 lần. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tăng gấp 63,3 lần từ 2,752 tỷ USD lên 174,11 tỉ USD giai đoạn 1990 – 2016. Bảng 1: Tổng mức lưu chuyển hàng hóa xuất - nhập khẩu và cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 1990 - 2015 1991- 1995 1996- 2000 2001- 2005 2006- 2010 2011-2015 Tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu (triệu USD) 39.940 113.44 0 240.981 623.562 1.321.683 Tốc độ tăng bình quân (%) 21,4 17,2 18,2 13,2 16,1 Trong đó: Xuất khẩu (triệu USD) 17.156 51.825 110.830 280.405 655.701 Tốc độ tăng bình quân (%) 17,8 21,6 17,5 17,3 17,9 Nhập khẩu (triệu USD) 22.784 61.615 130.151 343.157 665.982 Tốc độ tăng bình quân (%) 24,3 13,9 18,8 18,2 14,5 Cán cân thương mại (triệu USD) -5.628 -9.789 -19.321 -62.751 -10.281 Nguồn: Tổng cục Thống kê PHẠM THỊ BẠCH TUYẾT 39 Tăng trưởng xuất khẩu góp phần cải thiện cán cân thương mại. Từ chỗ là nước thường xuyên phải nhập siêu, những năm gần đây Việt Nam đã dần chuyển sang cân bằng xuất nhập khẩu, thậm chí đã có xuất siêu. Năm 2012, Việt Nam đã xuất siêu 287 triệu USD, năm 2013 xuất siêu 9 triệu USD. Năm 2016, xuất siêu khoảng 2,52 tỷ USD. Ngoại thương phát triển đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, tạo công ăn việc làm, tiêu thụ hàng hóa cho nông dân. Đồng thời, tăng trưởng xuất khẩu cũng thể hiện sự phục hồi của sản xuất trong nước, góp phần tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam khá đa dạng và bước đầu có sự chuyển dịch tích cực: tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến và giảm dần nhóm hàng nông sản, thủy sản và nhiên liệu, khoáng sản. Nhóm hàng chế biến hoặc đã tinh chế tăng dần tỷ trọng từ 32,7% năm 1995 lên khoảng 76,2% năm 2014, giảm nhanh nhóm hàng thô hoặc mới sơ chế từ 67,2% xuống còn khoảng 23,8% trong cùng giai đoạn. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa xuất khẩu theo hướng tích cực, thể hiện ở việc tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có hàm lượng công nghệ cao và giá trị gia tăng lớn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các mặt hàng công nghệ cao như điện thoại di động, máy vi tính, điện tử và linh kiện có mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao và ổn định, năm 2016 điện thoại các loại và linh kiện xuất khẩu đạt 34,3 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2015; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 19 tỷ USD, tăng 21,5%, thể hiện thành công trong chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao của nước ta thời gian qua. Thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ngày càng trở nên đa dạng hơn, các đối tác thương mại ngày càng gia tăng. Hàng hóa Việt Nam bên cạnh việc tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống trước đây thì nay đã mở rộng tìm kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có khoảng 70 thị trường mà Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD. Các doanh nghiệp tận dụng tốt lợi thế có được từ cam kết cắt giảm thuế quan của các nước đối tác FTA đối với hàng xuất khẩu có xuất xứ Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các nước kí kết FTA với Việt Nam có mức tăng trưởng khá ấn tượng. Năm 2016, xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 22 tỷ USD, tăng 28,4% so với năm 2015; sang Hàn Quốc đạt 11,4 tỷ USD, tăng 28%; sang Nhật Bản đạt 14,7 tỷ USD, tăng 3,9%; sang Ấn Độ đạt 2,7 tỷ USD, tăng 8,7%, sang Australia đạt 5,2 tỷ USD, tăng 6%, sang New Zealand đạt 717 triệu USD, tăng 1,8%. Việt Nam đã và đang tiếp tục hội nhập thương mại khu vực sâu rộng hơn trong khuôn khổ 6 FTA khu vực. Năm 2016, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và khu vực ASEAN đạt 41,4 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt 17,5 tỷ USD. Từ năm 2000 đến năm 2016, kim ngạch quan hệ thương mại Việt Nam - EU đã tăng hơn 11 lần, từ mức 4,1 tỷ USD năm 2000 lên 45,1 tỷ USD năm 2016; trong đó xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng hơn 11 lần (từ 2,8 tỷ USD lên 34 tỷ USD) và nhập khẩu vào Việt Nam từ EU tăng gần 8 lần (1,3 tỷ USD lên 11,1 tỷ USD). Với Liên minh Kinh tế Á Âu (EAEU) thương mại giữa hai bên đạt trên 3 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2015, trong đó xuất khẩu của TÁC Đ NG CỦA H I NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ VI T NAM 40 Việt Nam sang Liên minh đạt 1,76 tỷ USD, tăng 10% và nhập khẩu từ EAEU đạt khoảng gần 1,27 tỷ USD, tăng 45% [2]. Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội lớn cho nước ta cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định sẽ khiến cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên thông thoáng hơn, minh bạch hơn, thuận lợi hơn, được hưởng nhiều ưu đãi từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn nữa. Thời gian qua, quá trình thu hút và sử dụng FDI đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần đáng kể cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1987, Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong thu hút FDI. Tổng số dự án FDI được cấp phép từ năm 1988 đến năm 2015 đã lên tới 21.392 dự án, tăng 10,1 lần (2.120 dự án năm 2015 so với 211 dự án giai đoạn 1988 – 1990). Về tổng số vốn đăng ký đạt hơn 314,707 tỉ USD, tăng 15,0 lần giai đoạn 1988 – 2015 (24115,7/1603,5 triệu USD). Tổng số vốn thực hiện tính đến hết năm 2015 chiếm 44,1% tổng vốn FDI đã đăng kí (138692,9 triệu USD). Riêng trong năm 2015, Việt Nam thu hút được 2.120 dự án với tổng số vốn đầu tư đạt 24,115 tỉ USD, tăng 15,0% về số dự án và 10,0% tổng số vốn đầu tư so với năm 2014. Vốn thực hiện chiếm 60,0% tổng vốn FDI đã đăng kí. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều biến động và cạnh tranh gay gắt giữa các nước thì kết quả đạt được trong việc thu hút FDI của Việt Nam trong thời gian qua cho thấy những nỗ lực và thành công trong vận động xúc tiến đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của nước ta khi tiến hành mở cửa nền kinh tế. Một số kết quả mà Việt Nam đã đạt được trong thu hút FDI như: các dự án FDI đầu tư vào nước ta chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Tính đến hết năm 2015, các dự án FDI đầu tư vào công nghiệp chiếm tới 54,9% tổng số dự án và 64,3% tổng vốn đăng kí. Theo lĩnh vực đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 ngành lĩnh vực, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút được nhiều sự quan tâm, với 1012 dự án đầu tư, tổng số vốn đạt 16,43 tỷ USD, chiếm 47,7% dự án và 68,1% tổng vốn đầu tư năm 2015. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 34 dự án cấp mới, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm 2,39 tỉ USD, chiếm 9,93% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ đứng thứ ba với 250 triệu USD. Về đối tác đầu tư: Các đối tác đầu tư cũng có sự thay đổi theo hướng tích cực từ những quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á sang các nước thuộc châu Âu, Mỹ. Hiện nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là Hàn Quốc với tổng số dự án là 4.970 dự án (chiếm 24,7% tổng số dự án) và tổng vốn đăng ký là 45,2 tỉ USD (chiếm 16,0% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam); tiếp theo là các nước Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc Về địa bàn đầu tư: Những tỉnh hiện đang đứng đầu về thu hút FDI là TP.HCM với 5.886 dự án (chiếm 29,3% cả nước), tổng vốn đầu tư là 42,4 tỷ USD (chiếm 15,1% cả nước), đứng thứ hai là Hà Nội với 3.467 dự án (chiếm 17,3% cả nước), tổng vốn đầu tư là 25,5 tỷ USD (chiếm 9,1 % cả nước), tiếp theo là các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc (2015). Việc thu hút, sử dụng FDI thời gian PHẠM THỊ BẠCH TUYẾT 41 qua cơ bản đã đáp ứng những mục tiêu đề ra về thu hút vốn đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng năng suất lao động, tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp vào ngân sách nhà nước, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội FDI hiện là khu vực phát triển năng động nhất trong các khu vực kinh tế với tốc độ tăng GDP cao hơn tốc độ tăng GDP của toàn nền kinh tế. Năm 1995 GDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,98% trong khi GDP cả nước tăng 9,54%; tốc độ này tương ứng là 13,22% và 8,44% (2005), 10,7% và 6,7% (2015). Khu vực FDI tăng nhanh dẫn tới tỷ trọng đóng góp của khu vực này vào GDP không ngừng tăng lên, từ 6,3% GDP (1995), lên 17,7% (2010) và 18,1% (2015). FDI bổ sung nguồn vốn quan trọng hỗ trợ cho phát triển kinh tế. Năm 2015 vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của khu vực FDI đạt 318,1 nghìn tỉ đồng, chiếm 23,3% tổng vốn đầu tư xã hội. Khu vực FDI tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Năm 2000 khu vực FDI tạo ra 358,5 nghìn lao động, năm 2010 là 1.726,5 nghìn lao động, đến năm 2015 tăng lên 2.256,6 nghìn lao động trực tiếp và khoảng 3 - 4 triệu lao động gián tiếp [5]. Hội nhập kinh tế quốc tế còn góp phần giúp nước ta tích cực cải thiện môi trường đầu tư trong nước. Tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch và bình đẳng hơn thông qua việc hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với các cam kết quốc tế mà ta đã tham gia kí kết. Ngoài ra, tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam tiếp thu học hỏi được những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lí hiện đại. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyển sản xuất tiên tiến được đưa vào sử dụng tạo nên bước phát triển mạnh mẽ trong sản xuất. 2.3. Một số vấn đề đặt ra cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam tuy đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế đất nước nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Đó là: Hiện nay, hệ thống luật pháp của nước ta chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ gây khó khăn trong việc thực hiện cam kết với các tổ chức kinh tế quốc tế cũng như các Hiệp định thương mại tự do. Việt Nam chưa xây dựng và hoàn thiện một chương trình tổng thể và dài hạn về hội nhập quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết. Một trong những rào cản lớn nhất khiến các doanh nghiệp Việt Nam không tận dụng được lợi thế khi hội nhập và tham gia vào các FTA là do thiếu thông tin về nội dung các cam kết và hướng dẫn thực hiện. Sự thiếu thông tin một mặt do các doanh nghiệp Việt Nam chưa chủ động tìm hiểu các nội dung và cam kết của các Hiệp định đang có hiệu lực, mặt khác, do các cơ quan ban ngành thiếu những kênh để cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về các FTA mà Việt Nam đang tham gia. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung còn thấp, chịu sức ép cạnh tranh lớn từ phía doanh nghiệp nước ngoài, kể cả các nước trong khu vực, dẫn đến một số ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở cửa thị trường, nhập khẩu tăng mạnh. Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị trường mới trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cùng chọn chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên sẽ bị TÁC Đ NG CỦA H I NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ VI T NAM 42 áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa. Cụ thể, năng lực cạnh tranh tổng hợp của Việt Nam năm 2013/2014 chỉ xếp thứ 70/148, thấp hơn 11 bậc so với năm 2010/2011. Khả năng tích lũy vốn nhân lực và tiến bộ công nghệ của Việt Nam còn rất khiêm tốn, biểu hiện ở mức năng suất lao động thấp và trình độ công nghệ của đa số doanh nghiệp còn khá lạc hậu. Năng suất lao động tăng chậm, thu hút đầu tư vẫn dựa vào lợi thế nhân công và chi phí mặt bằng rẻ. So sánh với các nước trong khu vực thì NSLĐ của Việt Nam khá thấp. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năm 2013, NSLĐ của Việt Nam được xếp vào nhóm thấp nhất của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần, Malaysia 5 lần, Thái Lan 2,5 lần. Việt Nam là 1 trong 3 nước có năng suất lao động thấp nhất ASEAN, chỉ cao hơn Myanmar và Campuchia. Môi trường đầu tư kinh doanh của của nước ta chưa thông thoáng, chưa hấp dẫn các nhà đầu tư, nhất là những nhà đầu tư lớn, các tập đoàn kinh doanh quốc tế đến từ những nước phát triển. Những bất cập đó được thể hiện như: Thủ tục hành chính còn rườm rà, kéo dài thời gian, gây khó khăn và tăng chi phí cho doanh nghiệp. Kết cấu hạ tầng còn thiếu đồng bộ, nhất là hạ tầng về giao thông, điện, nước, cảng biển gây khó khăn cho nhà đầu tư. Chất lượng lao động thấp, thiếu lao động có trình độ quản lí và trình độ chuyên môn tay nghề cao chính là những khó khăn khi nhà đầu tư muốn đầu tư vào các dự án sử dụng công nghệ cao, hiện đại. Công nghiệp phụ trợ của nước ta phát triển chậm, gây khó khăn về nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp FDI. Do đó, các doanh nghiệp phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng, làm giảm sự liên kết giữa khu vực đầu tư nước ngoài với khu vực kinh tế trong nước... Đối với hoạt động thương mại quốc tế, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tuy đã chuyển dịch mạnh sang hàng chế biến, chế tạo nhưng tăng trưởng thương mại vẫn còn dựa vào khai thác tài nguyên, khoáng sản, xuất khẩu hàng nông sản thô với hàm lượng chế biến thấp hay theo hình thức gia công và phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu (như dệt may, da giày, điện tử); Mặc dù giá trị xuất khẩu đã tăng đều trong những năm qua nhưng nước ta vẫn còn là nước nhập siêu, cơ cấu nhập khẩu còn không ít bất cập, khả năng cạnh tranh của sản phẩm chưa cao. Hàng hóa nước ngoài chất lượng cao lại được các ưu đãi do thực hiện các cam kết, khiến cho hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước bị cạnh tranh gay gắt. Thị trường thương mại còn nhỏ lẻ, tập trung vào một số ít thị trường chủ lực, nhất là Trung Quốc và các nước thuộc ASEAN... Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam còn nhiều hạn chế. Cơ cấu đầu tư vẫn chủ yếu vào các ngành thâm dụng lao động, tập trung vào gia công và lắp ráp với giá trị gia tăng thấp; các ưu tiên đầu tư vào công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, dịch vụ chất lượng cao, nghiên cứu và phát triển chưa cao. Thị trường và đối tác FDI của Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đến từ các nước châu Á với máy móc, thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, không đảm bảo an toàn lao động. Mục tiêu thu hút công nghệ, chuyển giao công nghệ chưa đạt được như kỳ vọng. Công nghệ thấp dẫn đến các doanh nghiệp tại Việt Nam chủ yếu thực hiện các công đoạn gia công, lắp ráp là chủ yếu. Hệ quả là PHẠM THỊ BẠCH TUYẾT 43 tạo ra giá trị gia tăng thấp, khó tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu. Nhiều dự án FDI còn tác động xấu tới môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, một số doanh nghiệp thực hiện “chuyển giá”, trốn thuế gây thất thu cho ngân sách nhà nước 3. Kết luận Trên chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống và trình độ người lao động được nâng cao, hệ thống CSHT ngày càng được mở rộng và hiện đại mặc dù vậy vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Chúng ta đang trong thời kỳ chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH, từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức, vì vậy hội nhập quốc tế sâu rộng được xác định là chính sách quan trọng, tiếp tục là xu thế nổi bật trong quan hệ kinh tế quốc tế, mở ra cho kinh tế nước ta những cơ hội phát triển mới. Vì vậy, Việt Nam cần phải có những chính sách và bước đi phù hợp để có thể hội nhập sâu rộng hơn trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thế Bính, “30 năm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Thành tựu, thách thức và những bài học”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 22 (32) – tháng 5, 6/2015. 2. Bộ Công thương, Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam 2016, Hà Nội, 2017. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc khóa VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Phạm Tất Thắng (2016), “Hội nhập kinh tế quốc tế: Từ quan điểm của Đảng đến thực tiễn”, Tạp chí Cộng sản điện tử 5. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê Việt Nam hằng năm, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. 6. hoi-nhap-kinh-te/2014-hoi-nhap-quoc-te-mot- so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien. 7. 1/Hoi-nhap-quoc-te-thanh-tuu-han- che_Nguyen-Van-Trinh.pdf. Ngày nhận bài: 26/6/2017 Biên tập xong: 15/7/2017 Duyệt đăng: 20/7/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftac_dong_cua_hoi_nhap_kinh_te_quoc_te_den_phat_trien_kinh_te.pdf
Tài liệu liên quan