Kết luận
Nghiên cứu sử dụng phương pháp và mô hình
hồi quy để tìm hiểu và nghiên cứu mối quan hệ
giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
giai đoạn 1999-2018. Dữ liệu lấy từ bản tin thống
kê của Tổng cục Thống kê về tăng trưởng GDP và
hàng năm (GR), tổng quy mô nợ công của chính
phủ (DEBT), tốc độ gia tăng nợ hàng năm
(DEBT_GR), tổng chi tiêu dùng của chính phủ
(EXP), tốc độ gia tăng chi tiêu dùng hàng năm
(EXP_GR), biến tương tác giữa quy mô nợ và chi
tiêu dùng chính phủ (EXP_DEBT), tỷ lệ đầu tư
công (INV), tỷ lệ lạm phát (INF), tổng giá trị xuất
nhập khẩu (OPEN) đã được phân tích trong
nghiên cứu. Cuối cùng, kết quả của mô hình hồi
quy cho thấy tổng quy mô nợ công của chính phủ
(DEBT) có tác động tiêu cực đáng kể đến tốc độ
tăng trưởng GDP hàng năm (GR), ngược lại tổng
chi tiêu dùng của chính phủ (EXP) có tác động
tích cực và đáng kể đến tăng trưởng kinh tế tại
Việt Nam. Thông qua kết quả phân tích, giả
thuyết với các biến đều đạt theo đúng dấu kỳ vọng
đã đặt ra.
Những hàm ý chính sách từ kết quả nghiên cứu
có ý nghĩa rất quan trọng cho việc hoạch định
chính sách nợ công, đặc biệt là đối với nợ nước
ngoài. Tuy nhiên, do sự giới hạn của dữ liệu
nghiên cứu cũng như những đặc thù của nền kinh
tế trong quá trình chuyển đổi, việc nghiên cứu
thêm trong tương lai là cần thiết nhằm xác định rõ
ràng bản chất các mối quan hệ cơ bản khi hệ thống
dữ liệu tốt hơn. Bên cạnh đó, nghiên cứu này mới
chỉ dừng lại ở việc thực hiện kiểm định mô hình
tuyến tính để xem xét sự tác động một chiều của
nợ công tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, do
vậy việc nghiên cứu thêm mối quan hệ phi tuyến
giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
thông qua việc mô hình ước lượng ngưỡng là hết
sức cần thiết để thực hiện ước lượng giá trị
ngưỡng nợ công ở Việt Nam làm cơ sở để xuất các
hàm ý chính sách tốt hơn trong quản lý nợ công.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 367 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sè 145/2020 thương mại
khoa học
1
2
14
25
36
47
56
66
77
MỤC LỤC
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ
1. Đỗ Thị Bình - Ảnh hưởng của các bên liên quan đến chiến lược xuất khẩu xanh và lợi thế cạnh tranh
của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Mã số: 145.1BMkt.11
Effects of Stakeholders on Green Export Strategies and Competitive Advantages of Vietnam
2. Nguyễn Thị Hằng, Phạm Minh Đạt và Nguyễn Văn Huân - Tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến một số chỉ tiêu phát triển kinh tế tỉnh Thái Nguyên. Mã số: 145.1TrEM.11
The Impact of FDI on Several Economic Development Criteria of Thai Nguyen Province
3. Vũ Xuân Thủy và Nguyễn Thị Trang - Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế: nghiên cứu
thực nghiệm ở Việt Nam. Mã số: 145.1DEco.11
The Impact of Public Debt on Economic Growth: Empirical in VietNam
4. Huỳnh Trường Huy, Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Mai Uyên và Nguyễn Thanh Liêm - Phân
tích quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ của người hưu trí tại Thành phố Cần Thơ. Mã số:
145.1TrEM.11
An Analysis of the Life Insurance Purchase Decision of Retirees in Can Tho City
QUẢN TRỊ KINH DOANH
5. Nguyễn Phúc Nguyên và Nguyễn Thị Thúy Hằng - Nghiên cứu tác động của phẩm chất cá nhân
lãnh đạo đến tạo động lực làm việc của nhân viên: trường hợp tại chi nhánh MBBank Quảng Ngãi. Mã
số: 145.2FiBa.21
The Impact of Leader’s Personal Qualities on the Firm Performance: Case Study at MBBank
Quang Ngai Branch
6. Nguyễn Hữu Thọ và Trần Hà Minh Quân - Các đặc trưng tính cách cá nhân ảnh hưởng tới ý định
đầu tư chứng khoán thông qua nhận thức rủi ro, nhận thức sự không chắc chắn và đánh giá kết quả đầu
tư. Mã số: 145.2TrEM.21
The Impacts of the Big Five Traits on the Intention of Stock Investment through Risk,
Uncertainty, and Investment Performance Perception
7. Lê Thị Nhung - Nhân tố tác động đến cơ cấu nguồn vốn của các doanh nghiệp xi măng niêm yết ở
Việt Nam. Mã số: 145.2BAcc.21
Factors Affecting the Capital Structure of Listed Cement Enterprises in Vietnam
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
8. Vũ Thị Thu Hương - Phân tích lợi thế so sánh của nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
EU. Mã số: 145.3IIEM.31
An Analysis of the Comparative Advantages of Vietnam’s Produce Exports to EU
ISSN 1859-3666
1. Giới thiệu
Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
gần đây nổi lên một lần nữa như một chủ đề tranh
luận sôi nổi trong giới học thuật và các nhà hoạch
định chính sách. Nợ công là một trong những chỉ số
chính của các biến số kinh tế vĩ mô, nó là một trong
những yếu tố quan trọng quyết định dòng vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài. Việt Nam là một quốc gia
đang phát triển nên cần nguồn vốn lớn để phát triển
đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, Việt Nam
có tỷ lệ thu nhập, tỷ lệ tiết kiệm thấp, thâm hụt ngân
sách cao, do đó không đủ nguồn lực để đầu tư cho
việc phát triển đất nước. Vì vậy, việc đi vay nợ nước
ngoài và trong nước là nguồn lực quan trọng để bù
đắp thâm hụt ngân sách để phát triển đất nước.
Theo số liệu của Bộ Tài Chính, tỷ lệ nợ
công/GDP cao nhất là 79,31% vào năm 1998. Tuy
nhiên, tỷ lệ này giảm mạnh xuống còn 39,9% vào
năm 2001 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh
tế. Trong giai đoạn 2002-2012, tốc độ tăng trưởng
kinh tế Việt Nam lại có xu hướng tăng nhanh. Điều
này cho thấy rằng nền kinh tế của Việt Nam đang
tăng trưởng tốt, các hoạt động xuất nhập khẩu được
đẩy mạnh, thu hút được nhiều vốn đầu tư nước
ngoài đầu tư cho các dự án, công trình cơ sở hạ tầng
công cộng. Từ sau năm 2012-2018, nợ công có xu
hướng tăng nhanh về cả con số lẫn cả về tỷ lệ nợ
công/GDP. Tính đến năm 2018, tỷ lệ nợ công/GDP
là 61%. Nguyên nhân chủ yếu là do Chính phủ gia
tăng nguồn lực tài chính cả trong nước và nước
ngoài để đầu tư phát triển nền kinh tế, cũng như bội
chi ngân sách kéo dài. So với các quốc gia khác
trong khu vực ASEAN, tỷ lệ nợ công/GDP tại Việt
Nam gia tăng mạnh mẽ, từ vị trí thấp nhất vào năm
1998-2005 vươn lên đứng đầu trong giai đoạn 2015-
2018 với tỷ lệ nợ công lên tới 61% GDP vào năm
25
?
Sè 145/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ:
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM Ở VIỆT NAM
Vũ Xuân Thủy
Trường Đại học Thương mại
Email: Vuthuy2607@tmu.edu.vn
Nguyễn Thị Trang
Trường Đại học Thương mại
Email: Nguyenthitrang20112000@gmail.com
Ngày nhận: 10/04/2020 Ngày nhận lại: 10/05/2020 Ngày duyệt đăng: 13/05/2020
B
ài viết tìm hiểu về tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn
1999-2018 bằng phương pháp phân tích hồi quy mô hình tuyến tính (OLS). Kết quả phân tích
nghiên cứu cho thấy rằng các biến nợ công (EXP_GR, DEBT) có tác động tiêu động tiêu cực và đáng kể
đến tăng trưởng kinh tế (GR). Trong khi đó, INV, OPEN có tác động tích cực đến tăng trưởng GDP hàng
năm (GR). Nghiên cứu cũng cho thấy rằng thấy các năm gần đây Việt Nam tương đối kiểm soát được nợ
công trong ngưỡng an toàn, cụ thể là dưới 65% (theo Luật quản lý nợ công tại Việt Nam). Bên cạnh đó,
nghiên cứu cũng chỉ ra nếu việc chi tiêu dùng của Chính phủ tăng trong khả năng ngân sách có thể đáp ứng
mà không làm tăng mức nợ công thì việc chi tiêu dùng này sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, các yếu tố khác như đầu tư công, xuất nhập khẩu có tác động kích thích tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam. Cuối cùng, dựa trên các kết quả thu được, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một số khuyến nghị về
chính sách quản lý nợ công cho Việt Nam.
Từ khóa: Chi tiêu công, nợ công, tăng trưởng kinh tế.
JEL Classifications: H63, C58, C1
?2018 nhưng vẫn nằm trong mức kiểm soát của
Chính phủ (65%). Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam
mặc dù thấp hơn mức trung bình của thế giới
(79,7%) và các nước phát triển (108,5%), nhưng cao
gấp 1,73 lần mức bình quân của các nước đang phát
triển (35,3%) và cao nhất trong nhóm nước đang
phát triển khối ASEAN (Indonesia (24,4%), Thái
Lan (45,9%), Malaysia (54,6%), Philippines
(50,2%), Lào (46,3%)).
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính phủ luôn
cố gắng khai thác tối đa nguồn lực trong nước và
giảm thiểu nhu cầu vay mượn do những rủi ro kinh
tế - xã hội mà nợ công mang lại. Tuy nhiên, cho đến
nay, nguồn vốn đầu tư bằng hình thức vay nợ của
khu vực công vẫn còn rất phổ biến bởi vai trò của nó
trong điều tiết nền kinh tế. Từ những phân tích trên,
ta thấy còn rất nhiều những phức tạp trong vấn đề về
nợ công và tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, nhóm
nghiên cứu sẽ chỉ ra những tác động nợ công và một
số yếu tố vĩ mô khác đối với tăng trưởng kinh tế
trong nghiên cứu này.
Cho đến hiện tại, còn khá ít các nghiên cứu bằng
chứng thực nghiệm về tác động của nợ công đến
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Công trình nghiên
cứu này sẽ đóng góp vào lý thuyết và bằng chứng
thực nghiệm hiện tại về mối quan hệ giữa nợ công
và tăng trưởng kinh tế bằng việc ước lượng OLS
trong hàm đa biến. Nghiên cứu được thiết kế thành
5 phần. Phần 2 trình bày tổng quan nghiên cứu, phần
3 đề xuất phương pháp và mô hình nghiên cứu; phần
4 phân tích thực nghiệm và kết quả nghiên cứu; và
cuối cùng là kết luận và một vài gợi ý chính sách.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong nghiên cứu này chúng tôi quan tâm đến sự
tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế. Các
tranh luận về chủ đề mối quan hệ giữa quy mô nợ
công và tăng trưởng kinh tế thường không đạt được
kết quả thống nhất. Trên thực tế ta có 3 quan niệm
khác nhau về sự tác động này:
Thứ nhất, Nợ công có tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế (quan niệm chèn lấn). Thâm hụt và
nợ công càng cao sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế,
do gia tăng lãi suất và gây chèn lấn đầu tư tư nhân.
Nói khác đi, khi nền kinh tế ở trong trạng thái tăng
trưởng bình thường hoặc ở trên khuynh hướng dài
hạn thì sự gia tăng nợ công có lẽ gây bất lợi cho nền
kinh tế. Nợ công lớn sẽ tạo ra gánh nặng nợ mà hậu
quả là làm giảm hay trì hoãn đầu tư tư nhân. Chính
phủ có thể chi tiêu để tài trợ cho các hoạt động của
chính phủ thông qua việc vay mượn thay vì dùng
Sè 145/202026
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Đơn vị tính: tỷ USD
(Nguồn: nhóm nghiên cứu tổng hợp từ tài liệu World Bank)
Hình 1: Nợ công và GDP của Việt Nam giai đoạn 1998-2018
0
50
100
150
200
250
300
1998 2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016 2018
0.00%
10.00%
20.00%
30.00%
40.00%
50.00%
60.00%
70.00%
80.00%
90.00%
GDP
EӄĐƀŶŐ
EӄĐƀŶŐͬ'W
thuế. Nhưng việc này không giúp kích thích chi tiêu
trong ngắn hạn, bởi lẽ nó không làm tăng thu nhập
thường xuyên của các cá nhân mà nó chỉ chuyển
thuế từ hiện tại sang tương lai (Ricardo, Robert
Barro (1989)). Vì vậy chính sách giảm thuế và thay
vào đó là việc tài trợ bằng vay nợ sẽ không gây ra
tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế. Ngoài ra, người
ta có thể dễ dàng thấy rằng để trả nợ thì các quốc gia
phải cắt giảm chi tiêu hoặc đánh thuế cao hơn trong
tương lai, điều này dẫn đến việc kìm hãm tăng
trưởng kinh tế.
Siew-Peng Lee và Yan-Ling Ng (2015) nghiên
cứu về tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế
của Malaysia trong khoảng thời gian từ năm 1991
đến 2013 đã chỉ ra rằng nợ công tác động tiêu cực
đến tăng trưởng kinh tế ở Malaysia trong dài hạn,
đồng thời khi mà nợ công tăng thì tăng trưởng GDP
cũng giảm theo. Một nghiên cứu khác của Hoàng
Khắc Lịch và Dương Cẩm Tú (2018) cho rằng nếu
mở rộng quy mô nợ công, thất nghiệp và lạm phát,
chi tiêu tiêu dùng của chính phủ tác động tiêu cực
đến tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu cũng chỉ ra khi
nợ tăng lên 1% khiến tốc độ tăng trưởng giảm
0,032% với các nước có thu nhập cao, 0,00805%
với các nước đang phát triển, và mẫu hỗn hợp các
quan sát là 0,000567%. Tương tự các nghiên cứu
khác như Manmohan S. Kumar và Jaejoon Woo
(2010), Ths Võ Thanh Hòa (2017), Barro (1990),
Saint - Paul, Tawfiq Ahmad Mousa và Abdullah M
Shawawreh (2016), Checherita-Westphal và Rother
(2010), Muritala (2012), Uma, Eboh và Obidike
(2013)... cũng cho thấy sự tác động tiêu cực của nợ
công đến tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, Nợ công tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế (quan niệm kích thích). Trái với quan
điểm trên, đã có rất nhiều các quan điểm, nghiên cứu
chỉ ra sự tác động tích cực của nợ công đến tăng
trưởng kinh tế. Nợ công có lẽ tạo điều kiện thuận lợi
hoặc quyết định sự tăng trưởng kinh tế tùy thuộc vào
mức độ nợ (Tsangyao Chang, 2010). Theo quan
điểm truyền thống, khi tăng trưởng kinh tế thấp hoặc
khu vực tư không có động cơ đầu tư thì chính phủ
cần phải đeo đuổi chính sách tài khóa hay chính
sách tiền tệ để kích thích nền kinh tế và chấp nhận
phương sách tài trợ nợ. Theo John Maynard Keynes,
cho rằng nếu được duy trì ở một mức hợp lý, nợ
công sẽ giúp kích thích tăng trưởng nhờ làm gia tăng
nguồn lực cho chính phủ. Thông qua việc vay nợ,
nhà nước có thể huy động được nguồn tài chính
nhàn dỗi trong dân cư và tận dụng nó để chi tiêu
công nhằm phát triển đất nước. Nợ công lớn là tài
sản quốc gia chứ không phải là trách nhiệm pháp lý
và do đó, khi chi tiêu thâm hụt liên tục thì nợ công
rất cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế của các quốc
gia bởi vì nó làm tăng nguồn lực tài chính của quốc
gia, giúp chính phủ có thể chi tiêu vào các mục đích
phát triển đất nước (Precious, 2015). Để làm rõ về
các nhận định trên, Alejandro và Ileana (2017)
nghiên cứu về tác động của nợ chính phủ đối với
tổng sản phẩm quốc nội tại 16 nền kinh tế Mỹ
Latinh. Nghiên cứu sử dụng TwoStage Least
Squares (2-SLS) trong phân tích với các biến mức
GDP bình quân đầu người ban đầu, tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân đầu người, tổng nợ của chính
phủ như một phần của GDP, tỷ lệ đầu tư và tốc độ
tăng trưởng dân số. Kết quả cho thấy khi nợ công ở
ngưỡng 64% - 71% thì nợ có tác động kích thích
tăng trưởng. Tương tự một số nghiên cứu khác như:
Võ Hữu Phước và Nguyễn Quyết (2016), Okwu,
Obiwuru và Oluwalaiye (2016) cũng cho thấy sự tác
động tích cực của nợ công đến tăng trưởng kinh tế.
Đồng tình với quan điểm này, Igbodika, Jessie và
Andabai (2016) đã chỉ ra nợ trong nước có tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế còn Nguyễn Xuân
Trường (2019) chỉ ra nợ nước ngoài cũng có tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, Nợ công vừa có tác động tích cực vừa có
tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế (quan
điểm hỗn hợp). Nếu nợ công tăng lên với mục đích
bù đắp cho thâm hụt ngân sách thì trong ngắn hạn
chúng có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh
tế và là nhân tố giúp làm tăng tổng cầu. Tuy nhiên
trong dài hạn, do sự tác động của hiệu ứng lấn át về
vốn vì vậy nợ công có thể tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế (Elmendorf và Mankiw, 1999). Có
thể thấy rằng các nước mới nổi, các quốc gia kém
phát triển sẽ sử dụng nguồn tài chính từ nợ công để
tăng trưởng phát triển đất nước, điều này có thể kích
thích tăng trưởng kinh tế, cải thiện tình trạng đói
nghèo. Nhưng về lâu dài các nước này có xu hướng
tích lũy các khoản nợ mà nền kinh tế của các nước
này không thể đủ khả năng tạo ra nguồn lực để trả
nợ, do đó chính phủ sẽ phải tăng thuế hoặc phải in
tiền mới, dẫn đến lạm phát. Teles và Musolini
(2014) đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa nợ công
và tăng trưởng kinh tế thông qua việc đề xuất một
27
?
Sè 145/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
?mô hình liên quan đến các thế hệ và tăng trưởng nội
sinh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tồn tại mối quan
hệ tích cực giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế khi
chi tiêu công một cách hiệu quả vào các mục đích
quốc gia. Ngược lại, do yêu cầu tăng thuế và giảm
đầu tư nên nợ công có tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên nghiên cứu này chưa đưa
ra được mức nợ công như thế nào là cao, như thế
nào là thấp.
Như vậy, còn rất nhiều tranh luận về tác đông
của nợ công đến tăng trưởng kinh tế. Các nghiên
cứu trên đây đều không đưa ra được những kết luận
chung về tác động của nợ công đến tăng trưởng
kinh tế, nguyên nhân có thể do khác nhau về
phương pháp, không gian và thời gian nghiên cứu.
Hơn nữa, chúng ta đều biết rằng nợ công bắt nguồn
từ thâm hụt ngân sách và mục đích tìm kiếm nguồn
vốn cho tăng trưởng kinh tế. Nhưng ở hầu hết các
quốc gia, thâm hụt ngân sách cơ bản lại phụ thuộc
vào kế hoạch thu - chi hàng năm của các cơ quan
quản lý nhà nước, hay nói cách khác, một phần nợ
công và thâm hụt ngân sách bắt nguồn từ nhiều yếu
tố chủ quan có thể điều tiết, với mục đích cuối cùng
là tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, nghiên cứu về tác
động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam, dưới sự ảnh hưởng của các biến số vĩ mô vẫn
có thể mang lại những gợi ý chính sách hữu ích
trong quản lý nợ công, cũng như đóng góp thêm các
bằng chứng thực nghiệm về tác động của nợ công
đối với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Để xem xét tác động nợ công đối với tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam trong gian đoạn 1998-2018,
nhóm nghiên cứu thực hiện thực hiện mô hình hồi
quy với dữ liệu được thu thập từ các nguồn đáng tin
cậy IMF, Worldbank, The Global Economy, Trading
Economics. Việc lựa chọn các biến số trong nghiên
cứu thực nghiệm thông qua việc lược thảo các
nghiên cứu trước đây. Trong các nghiên cứu trước
dây, Siew-Peng Lee và Yan-Ling Ng (2015) đưa ra
các biến thâm hụt ngân sách cho GDP, chi tiêu ngân
sách cho GDP, tiêu dùng của chính phủ cho GDP và
logarit của dịch vụ nợ nước ngoài, Alejandro và
Ileana (2017) đưa các biến tỷ lệ đầu tư và tốc độ
tăng trưởng dân số vào mô hình nghiên cứu, Võ Hữu
Phước và Nguyễn Quyết (2016) sử dụng biến lạm
phát. Các biến này được đưa vào mô hình để ước
lượng về tác động nợ công đến tăng trưởng kinh tế.
Ngoài các biến trên Hoàng Khắc Lịch và Dương
Cẩm Tú (2018) cũng đưa ra các biến như tốc độ gia
tăng nợ hàng năm, tốc độ gia tăng chi tiêu tiêu dùng
hàng năm, biến tương tác giữa quy mô nợ và chi tiêu
dùng chính phủ. Dựa trên các mô hình nghiên cứu
đã được sử dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm
nêu trên, nhóm nghiên cứu đã đề xuất mô hình hồi
quy sau đây để xem xét tác động của nợ công đến
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam:
GR = C(1) * EXP_GR + C(2 )* EXP_DEBT
+ C(3) * EXP + C(4) * DEBT_GR + C(5) *
DEBT + C(6) * INF + C(7) * INV + C(8) *
OPEN + C(9) (1)
Theo phương trình (1), các biến được giải thích
như sau:
* Biến phụ thuộc:
- GR là biến phụ thuộc thể hiện tốc độ tăng
trưởng tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam với đơn
vị tính là %/năm. Biến này được sử dụng trong các
nghiên cứu của Aly và Strazicich (2000),
Asimakopoulos và Karavias (2015), Checherita và
Rother (2010), Hoàng Khắc Lịch, Dương Cẩm Tú
(2018) Nhóm nghiên cứu lấy nguồn dữ liệu trên
trang The Global Economy. Trong nghiên cứu,
nhóm nghiên cứu cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh
tế GDP ở thời điểm hiện tại chịu tác động bởi mức
tăng trưởng của các năm cũ. Chính vì vậy, biến trễ
của tăng trưởng là biến trễ của 1 kỳ (GR¬¬_lag1)
* Các biến độc lập:
- DEBT là biến độc lập thể hiện tổng quy mô nợ
công của chính phủ với đơn vị tính là % GDP, dữ
liệu tính theo năm. Biến này được sử dụng trong
nghiên cứu của Kumar và Woo (2015), Reinhart và
cộng sự (2012), Hansen và Caner (2004), Hoàng
Khắc Lịch, Dương Cẩm Tú (2018)... để đánh giá tác
động của tổng quy mô nợ công của chính phủ đến
tăng trưởng kinh tế. Cùng với đó, DEBT_GR là biến
độc lập thể hiện tốc độ gia tăng nợ hàng năm đơn vị
tính là %/năm.
- EXP là biến độc lập thể hiện tỷ lệ tổng chi tiêu
công của chính phủ so với GDP. Theo WB thì chi
tiêu của chính phủ bao gồm chi tiêu của chính phủ
cho hàng hóa, dịch vụ và chi tiêu cho hoạt động an
ninh, quốc phòng. đơn vị tính là % GDP, dữ liệu tính
theo năm. Biến này được sử dụng phổ biến trong các
nghiên cứu về nước ngoài như các nghiên cứu của
Aly và Strazicich (2000), Asimakopoulos và
Sè 145/202028
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Karavias (2015), Hoàng Khắc Lịch, Dương Cẩm Tú
(2018), Siew-Peng Lee và Yan-Ling Ng (2015)... để
đánh giá tác động của chi tiêu chính phủ đến tăng
trưởng kinh tế. Trong một vài mô hình, nghiên cứu
có sử dụng EXP_GR là biến độc lập thể hiện tốc độ
gia tăng chi tiêu công cho tiêu dùng của chính phủ
hàng năm để thấy được sự thay đổi trong tài khóa
tác động đến tăng trưởng kinh tế.
- EXP_DEBT là biến độc lập thể hiện sự tương
tác giữa quy mô nợ và chi tiêu dùng chính phủ được
tính theo công thức EXP*DEBT. Một số quốc gia sử
dụng trực tiếp từ nguồn ngân sách để phục vụ cho
các khoản chi tiêu tiêu dùng, để có thể giảm mức sử
dụng nợ công đến tối thiểu, tuy nhiên việc đó sẽ
khiến quốc gia đó phải cắt giảm nguồn vốn khả
dụng để phục vụ cho các khoản chi đầu tư, chi khác,
như vậy nhà nước buộc phải đi vay nợ để bù đắp. Vì
vậy, nhóm nghiên cứu kỳ vọng rằng khi tổng chi tiêu
dùng của chính phủ thấp thì gia tăng nợ công sẽ có
thể tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
- INV là biến độc lập thể hiện tỷ lệ đầu tư công
của chính phủ so với GDP, đơn vị tính là % GDP, dữ
liệu tính theo năm. Biến này được sử dụng phổ biến
trong các nghiên cứu về nước ngoài như các nghiên
cứu của Ram (1986), Asimakopoulos và Karavias
(2015), Vittorio (2009), Hoàng Khắc Lịch, Dương
Cẩm Tú (2018), Alejandro và Ileana (2017)... để
đánh giá tác động của đầu tư công đến tăng trưởng
kinh tế.
- INF là biến độc lập thể hiện Tỷ lệ lạm phát với
đơn vị tính là %/năm. Biến này được sử dụng phổ
biến trong các nghiên cứu về nước ngoài như các
nghiên cứu của Presbitero (2012), Kumar và Woo
(2015), Hoàng Khắc Lịch, Dương Cẩm Tú (2018),
Võ Hữu Phước và Nguyễn Quyết (2016) ... để đánh
giá tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế.
- OPEN là biến độc lập thể hiện tỷ lệ Tổng giá trị
xuất nhập khẩu so với GDP, đơn vị tính là % GDP,
dữ liệu tính theo năm. Biến này được sử dụng phổ
biến trong các nghiên cứu về nước ngoài như các
nghiên cứu của Asimakopoulos và Karavias
(2015)... để đánh giá tác động của tổng giá trị xuất
nhập khẩu đến tăng trưởng kinh tế.
Đề tài nghiên cứu sử dụng các biến dựa trên các
nghiên cứu của Aly và Strazicich (2000),
Asimakopoulos và Karavias (2015), Checherita và
Rother (2010), Kumar và Woo (2015), Reinhart và
cộng sự (2012), Hansen và Caner (2004), H.K. Lịch
và D.C. Tú (2018), Asimakopoulos và Karavias
(2015),Nguyễn Xuân Trường(2019) khi đánh giá
tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế thông
qua mô hình định lượng. Cùng với đó, việc tăng vốn
đầu tư cho nền kinh tế thông qua vay nợ nước ngoài
là cơ sở giúp mở rộng nền kinh tế bằng các hoạt
động xuất - nhập khẩu của Việt Nam, tạo động lực
cho nền kinh tế tăng trưởng trong tương lai. Chính
vì vậy, nhóm nghiên cứu kỳ vọng các biến INV,
OPNEN, EXP sẽ có tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế.
4. Kết quả nghiên cứu
Sau khi đã lược khảo cơ sở lý thuyết liên quan,
tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu, tiếp đến
nghiên cứu thực hiện các kiểm định cần thiết và hồi
quy mô hình với phương pháp thích hợp.
4.1. Thống kê mô tả
Để thấy được những đặc tính cơ bản của các biến
nghiên cứu như giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, giá
trị trung bình và độ lệch chuẩn giữa giá trị trung
bình của các biến với giá trị thực cần phân tích
thống kê mô tả mẫu nghiên cứu. Kết quả thống kê
mô tả được trình bày ở bảng 1:
Từ bảng trên ta thấy giá trị trung bình của tất cả
các biến trên đều nằm trong khoảng giữa từ giá trị
nhỏ nhất đến giá trị lớn nhất của các biến và các giá
trị này có độ chênh lệch không quá lớn suy ra tất cả
các biến đều có phân phối chuẩn. Điều này cho thấy
các biến này có thể dùng tốt.
Dựa vào bảng trên ta dễ thấy rằng các biến GR,
EXP_GR, EXP_DEBT, EXP, DEBT_GR, DEBT,
INF, INV,OPEN có giá trị trung bình không chênh
lệnh nhiều. Các biến GR, EXP_GR, EXP,
DEBT_GR có độ nghiêng nhỏ hơn 0 suy ra các biến
này có phân phối bất đối xứng và đồ thị xuôi về bên
trái. Các biến còn lại như EXP_DEBT, DEBT, INF,
INV, OPEN có độ nghiêng lớn hơn 0, suy ra các biến
này có phân phối bất đối xứng và đồ thị xuôi về bên
phải. Độ nhọn của các biến GR, EXP, INV, OPEN
có giá trị nhỏ hơn 3, suy ra các biến có phân phối
xác suất tập trung ở mức thấp hơn bình thường. Độ
29
?
Sè 145/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
?
Sè 145/202030
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
B
ản
g
1:
T
hố
ng
k
ê
m
ô
tả
c
hu
ỗi
d
ữ
liệ
u
ng
hi
ên
c
ứu
N
gu
ồn
: T
ín
h
to
án
c
ủa
n
hó
m
n
gh
iê
n
cứ
u
GR
EX
P_
GR
EX
P_
DE
BT
EX
P
DE
BT
_G
R
DE
BT
IN
F
IN
V
OP
EN
M
ean
0.
06
35
50
-0.
00
05
75
0.
03
02
68
0.
06
12
60
-0.
00
91
55
0.
48
96
75
0.
06
50
50
0.
31
27
10
1.
48
51
70
M
edi
an
0.
06
50
00
0.
00
04
00
0.
02
78
62
0.
06
25
00
0.
01
36
00
0.
45
48
00
0.
05
65
00
0.
30
46
00
1.
53
27
00
M
axi
mu
m
0.
07
55
00
0.
00
23
00
0.
05
14
75
0.
06
79
00
0.
05
75
00
0.
75
81
00
0.
23
10
00
0.
39
57
00
2.
00
38
00
M
ini
mu
m
0.
04
77
00
-0.
00
92
00
0.
01
99
87
0.
05
47
00
-0.
34
15
00
0.
36
54
00
-0.
01
70
00
0.
26
28
00
1.
02
79
00
St
d.
De
v.
0.
00
80
43
0.
00
30
98
0.
00
80
61
0.
00
38
05
0.
08
46
09
0.
10
44
75
0.
05
84
24
0.
04
28
63
0.
27
85
73
Sk
ew
nes
s
-0.
37
46
49
-1.
90
87
96
1.
00
97
39
-0.
34
28
73
-3.
20
00
41
0.
98
08
48
1.
40
96
05
0.
28
33
51
0.
08
94
34
K
urt
osi
s
2.
16
28
00
5.
64
37
31
3.
45
67
58
2.
03
54
67
13
.26
40
6
3.
18
44
87
5.
05
70
22
1.
69
82
50
2.
02
35
71
Ja
rqu
e-B
era
1.
05
19
60
17
.96
94
4
3.
57
24
30
1.
16
71
44
12
1.9
26
6
3.
23
52
39
10
.14
94
1
1.
67
97
54
0.
82
11
73
Pr
ob
abi
lity
0.
59
09
76
0.
00
01
25
0.
16
75
93
0.
55
79
02
0.
00
00
00
0.
19
83
70
0.
00
62
53
0.
43
17
64
0.
66
32
61
Su
m
1.
27
10
00
-0.
01
15
00
0.
60
53
69
1.
22
52
00
-0.
18
31
00
9.
79
35
00
1.
30
10
00
6.
25
42
00
29
.70
34
0
Su
m
Sq
.D
ev.
0.
00
12
29
0.
00
01
82
0.
00
12
35
0.
00
02
75
0.
13
60
15
0.
20
73
84
0.
06
48
55
0.
03
49
07
1.
47
44
54
O
bse
rva
tio
ns
20
20
20
20
20
20
20
20
20
nhọn của các biến còn lại
như EXP_GR,
EXP_DEBT, DEBT_GR,
DEBT, INF có giá trị lớn
hơn 3, suy ra các biến có
phân phối xác suất ở mức
cao hơn bình thường.
4.2. Ma trận tương
quan
Trong phần này, chúng
ta sẽ phân tích ma trận
tương quan giữa các biến
trong mẫu nhằm giải
quyết tính hạn chế của
việc phân tích từng biến
bằng cách cho thấy góc
nhìn chi tiết hơn thông
qua mối tương quan giữa
biến phụ thuộc và các
biến giải thích trong mô
hình hồi quy, đồng thời
cho thấy bức tranh sơ bộ
về mức độ tương quan
giữa các biến giải thích
với nhau.
Sau khi chạy eview ta
có Kết quả phân tích
tương quan giữa các biến
số trong mô hình nghiên
cứu được thể hiện qua
bảng 2:
Bảng 2 cho thấy rằng
các hệ số tương quan của
các biến GR, INV, OPEN
trái dấu với hệ số tương
quan của các biến
EXP_GR, EXP_DEBT,
EXP, DEBT_GR, DEBT,
INF, do đó, các biến này
tương quan âm nên có
mối quan hệ ngược chiều
nhau. Khi nghiên cứu về
hệ số tương quan sẽ luôn
có một mục tiêu đó là các
31
?
Sè 145/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
B
ản
g
2:
K
ết
q
uả
p
hâ
n
tíc
h
m
a
tr
ận
tư
ơn
g
qu
an
N
gu
ồn
: T
ín
h
to
án
c
ủa
n
hó
m
n
gh
iê
n
cứ
u
GR
EX
P_
GR
EX
P_
DE
BT
EX
P
DE
BT
_G
R
DE
BT
IN
F
IN
V
OP
EN
GR
1.
00
00
00
-0.
02
82
51
-0.
33
12
11
-0.
14
03
76
-0.
18
81
30
-0.
36
16
09
-0.
21
49
73
0.
36
38
80
0.
08
33
25
EX
P_
GR
-0.
02
82
51
1.
00
00
00
-0.
11
45
63
-0.
05
00
09
0.
50
81
71
-0.
08
67
12
0.
12
10
74
0.
07
17
98
0.
49
92
16
EX
P_
DE
BT
-0.
33
12
11
-0.
11
45
63
1.
00
00
00
0.
80
31
48
0.
11
04
85
0.
99
03
28
-0.
37
16
20
-0.
69
67
98
0.
31
63
96
EX
P
-0.
14
03
76
-0.
05
00
09
0.
80
31
48
1.
00
00
00
-0.
15
53
01
0.
71
75
76
-0.
60
38
93
-0.
61
83
22
0.
03
50
72
DE
BT
_G
R
-0.
18
81
30
0.
50
81
71
0.
11
04
85
-0.
15
53
01
1.
00
00
00
0.
17
89
29
0.
22
34
50
0.
10
20
42
0.
38
14
70
DE
BT
-0.
36
16
09
-0.
08
67
12
0.
99
03
28
0.
71
75
76
0.
17
89
29
1.
00
00
00
-0.
29
93
57
-0.
68
79
29
0.
39
02
15
IN
F
-0.
21
49
73
0.
12
10
74
-0.
37
16
20
-0.
60
38
93
0.
22
34
50
-0.
29
93
57
1.
00
00
00
0.
30
49
44
0.
15
45
59
IN
V
0.
36
38
80
0.
07
17
98
-0.
69
67
98
-0.
61
83
22
0.
10
20
42
-0.
68
79
29
0.
30
49
44
1.
00
00
00
-0.
44
26
53
OP
EN
0.
08
33
25
0.
49
92
16
0.
31
63
96
0.
03
50
72
0.
38
14
70
0.
39
02
15
0.
15
45
59
-0.
44
26
53
1.
00
00
00
?hệ số không được vượt quá trị số tuyệt đối là 0,8.
Nếu hệ số vượt quá trị số tuyệt đối 0,8 thì sẽ xảy ra
hiện tượng tự tương quan. Bảng 2 cho thấy rằng các
hệ số của các biến độc lập EXP_GR, EXP,
DEBT_GR, INF, INV, OPEN đều ổn, tuy nhiên, có
hệ số giữa hai biến EXP_DEBT và DEBT là
0.990328 (vượt quá trị tuyệt đối 0,8). Do vậy hai
biến này đang xảy ra hiện tượng tự tương quan, có
tác động chặt chẽ với nhau. Để có thể khắc phục
hiện tượng này, nhóm nghiên cứu sẽ chỉ chọn một
trong hai biến để đưa vào nghiên cứu tác động của
nợ công đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
4.3. Kết quả hồi quy mô hình
Dựa vào phương pháp hổi quy đã phân tích ở
trên, nhóm nghiên cứu đã thực hiện chạy mô hình
hồi quy và cho kết quả như sau (bảng 3):
Bảng 3 cho thấy kết quả của mô hình hồi quy
giữa biến phụ thuộc là tổng sản phẩm quốc nội (GR)
và nợ công ở Việt Nam. Kết quả ước tính cho thấy ở
độ trễ bằng 0, tốc độ gia tăng chi tiêu dùng hàng
năm (EXP_GR), tổng quy mô nợ công của chính
phủ (DEBT) có tác động tiêu cực đáng kể đến GR,
trong khi đó tỷ lệ lạm phát (INF), tốc độ gia tăng nợ
hàng năm (DEBT_GR) có tác động tiêu cực và
không đáng kể đến GR. Kết quả cũng đã chỉ ra rằng,
tại độ trễ bằng 0, tỷ lệ đầu tư công (INV), và tổng
giá trị xuất nhập khẩu (OPEN), tổng chi tiêu dùng
của chính phủ (EXP) có tác động tích cực đến tăng
trưởng GDP hàng năm (GR). Khi nợ công (DEBT)
ở Việt Nam tăng 1% sẽ làm giảm GR ở Việt Nam
xuống 0.076587 đơn vị. Tương tự, tốc độ gia tăng
Sè 145/202032
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Bảng 3: Kết quả phân tích hồi quy
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
EXP_GR -1.896124 0.567642 -3.340353 0.0059
EXP 1.734786 1.007555 1.721778 0.1108
DEBT_GR -0.000578 0.008974 -0.064417 0.9497
DEBT -0.076587 0.024919 -3.073428 0.0097
INF -0.056665 0.021137 -2.680830 0.0200
INV 0.175515 0.040658 4.316831 0.0010
OPEN 0.037168 0.007779 4.777689 0.0005
C -0.112715 0.070506 -1.598656 0.1359
R-squared 0.802415 Mean dependent var 0.063550
Adjusted R-squared 0.687157 S.D. dependent var 0.008043
S.E. of regression 0.004499 Akaike info criterion -7.680889
Sum squared resid 0.000243 Schwarz criterion -7.282596
Log likelihood 84.80889 Hannan-Quinn criter. -7.603138
F-statistic 6.961898 Durbin-Watson stat 2.185233
Prob(F-statistic) 0.001868 Wald F-statistic 28.47066
Prob(Wald F-statistic) 0.000001
chi tiêu dùng hàng năm (EXP_GR) sẽ làm giảm tốc
độ tăng trưởng GDP hàng năm xuống 1.896124 đơn
vị khi tăng EXP_GR lên 1%. Cùng với đó, khi tỷ lệ
lạm phát (INF) và tốc độ gia tăng nợ hàng năm
(DEBT_GR) tăng 1% sẽ khiến cho tốc độ tăng
trưởng hàng năm của Việt Nam giảm lần lượt là
0.056665, 0.000578 đơn vị. Cuối cùng, nghiên cứu
ước tính rằng khi tăng 1% INV, OPEN và EXP sẽ
tăng GR lần lượt 0.175515, 0.037168, 1.734786 đơn
vị. Kết quả trên cũng đưa ra giá trị R2 là 0.802415,
tức là 80,24% biến phụ thuộc GR đã được giải thích
bằng các biến độc lập trên. Qua kết quả của bảng 4
và 5, chúng ta thấy rằng biến tổng quy mô nợ công
của chính phủ (DEBT) có giá trị p nhỏ hơn 5%, do
vậy, ta có thể kết luận rằng nợ công có tác động tiêu
cực đến sự tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Như vậy, mô hình hồi quy có kết quả như sau:
GR = -1.896*EXP_GR + 1.735*EXP -
0.0006*DEBT_GR - 0.077*DEBT - 0.0567*INF +
0.1755*INV + 0.0372*OPEN - 0.1127
5. Khuyến nghị về chính sách
Trong giai đoạn vừa qua, nợ công của Việt Nam
tăng nhanh trong bối cảnh Chính phủ đang nỗ lực
tìm mọi giải pháp để kiểm soát tốt thâm hụt ngân
sách. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của
quản lý nợ công bền vững, đó là nợ công hiện tại
phải được tài trợ bằng thặng dự ngân sách trong
tương lai.
Trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm và phân tích
thực trạng về những tác động của nợ công đến tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam, nhóm nghiên cứu đề xuất
một số khuyến nghị chính sách về nợ công ở Việt
Nam với mục đích cải thiện, nâng cao hiệu quả sử
dụng với tầm nhìn đến năm 2025 như sau:
Nâng cao hiệu quả của việc quản lý nợ công
Chính phủ cần tăng cường cải cách thể chế, xây
dựng chiến lược nợ công tốt trên cơ sở xác lập rõ
ràng mức độ an toàn, cấu trúc tài trợ và trả nợ;
cùng với đó là đẩy mạnh chương trình tái cấu trúc
đầu tư công và tái cấu nền kinh tế có hiệu quả hơn
để nâng cao khả năng hấp thu nợ công cho tăng
trưởng kinh tế
Đồng thời, Chính phủ cần chú trọng đến năng
lực và trình độ chuyên môn của các nhân sự phụ
trách quản lý nợ công. Cần công khai minh bạch về
các cơ chế sử dụng vốn vay. Đối với các dự án sử
dụng từ vốn vay cần chuẩn bị những kế hoạch để
phân bổ chi phi trong từng giai đoạn, cần nắm vững
về tiến độ thực hiện của các dự án với mục đích hạn
chế tối thiểu các dự án chậm giải ngân, dự án treo
làm phung phí nguồn lực tài chính. Ngoài ra, Việt
Nam cần đẩy mạnh công tác phòng chống, xử lý
nghiêm những hành vi tham nhũng trong bộ máy
quản lý nhà nước.
Duy trì và giám sát các khoản nợ công
Qua nghiên cứu và phân tích định tính, nhóm
nghiên cứu nhận thấy nhiều số liệu về nợ công ở
Việt Nam chưa được công khai đầy đủ. Mô hình
quản lý của nợ công còn chồng chéo giữa các bộ,
ban ngành. Số liệu về nợ công được lấy từ Bản tin
nợ công mà Bộ Tài chính đưa ra chưa có những
thông tin cần thiết về rủi ro mà nợ công mang lại cho
Việt Nam. Do vậy, nhóm đưa ra chính sách khuyến
nghị Chính phủ Việt Nam cần công khai, minh bạch
về các khoản nợ theo quý để hỗ trợ cho công tác
quản lý, dự báo và tạo được niềm tin từ các nhà tài
trợ ở hiện tại và tương lai. Mặc dù mức nợ công ở
Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng an toàn, nhưng
chúng ta cần phòng ngừa những rủi ro mà nợ công
mang lại.
Tăng cường hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn
nợ công
Với nhu cầu tiếp tục gia tăng đầu tư để phát
triển, chắc chắn nợ công của Việt Nam sẽ tiếp tục
gia tăng trong thời gian tới. Tốc độ tăng trưởng
GDP cao là điều kiện cần để tăng nguồn thu và đạt
thặng dư ngân sách. Tuy nhiên, ở VN tăng trưởng
GDP chủ yếu do tăng về lượng đầu tư mà không đi
kèm với tăng hiệu quả. Thông qua nghiên cứu định
lượng nhóm nghiên cứu thấy rằng nợ công đang
gây ra những tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế như tác động của rủi ro tích lũy của các
chính sách tài khóa còn chưa phù hợp. Với mức
trần nợ công mà Việt Nam quy định là 65% GDP
(theo Luật quản lý nợ công tại Việt Nam). Từ kết
quả nghiên cứu cho thấy các năm gần đây Việt
33
?
Sè 145/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
?Nam tương đối kiểm soát được nợ công trong
ngưỡng an toàn. Tuy nhiên mức nợ công này đã sát
với ngưỡng an toàn mà chính phủ đề ra. Việt Nam
cần có những biện pháp nhằm giảm thu từ vay nợ
để tài trợ cho thâm hụt ngân sách nhằm kiểm soát
và duy trì mức nợ công dưới ngưỡng an toàn tránh
các rủi ro khủng hoảng nợ công có thể xảy ra. Việc
chi tiêu cho tiêu dùng của chính phủ, đầu tư công
và xuất nhập khẩu trong giai đoạn 1998 - 2018 có
tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Do vậy,
Nhóm nghiên cứu khuyến nghị Chính phủ chỉ nên
tăng chi tiêu cho tiêu dùng khi nguồn ngân sách có
thể đáp ứng đủ mà không làm tăng mức nợ công
cùng với đó cần phải sử dụng vốn đầu tư có hiệu
quả hơn, đặc biệt là trong đầu tư trong các giai
đoạn tiếp theo tại Việt Nam.
6. Kết luận
Nghiên cứu sử dụng phương pháp và mô hình
hồi quy để tìm hiểu và nghiên cứu mối quan hệ
giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
giai đoạn 1999-2018. Dữ liệu lấy từ bản tin thống
kê của Tổng cục Thống kê về tăng trưởng GDP và
hàng năm (GR), tổng quy mô nợ công của chính
phủ (DEBT), tốc độ gia tăng nợ hàng năm
(DEBT_GR), tổng chi tiêu dùng của chính phủ
(EXP), tốc độ gia tăng chi tiêu dùng hàng năm
(EXP_GR), biến tương tác giữa quy mô nợ và chi
tiêu dùng chính phủ (EXP_DEBT), tỷ lệ đầu tư
công (INV), tỷ lệ lạm phát (INF), tổng giá trị xuất
nhập khẩu (OPEN) đã được phân tích trong
nghiên cứu. Cuối cùng, kết quả của mô hình hồi
quy cho thấy tổng quy mô nợ công của chính phủ
(DEBT) có tác động tiêu cực đáng kể đến tốc độ
tăng trưởng GDP hàng năm (GR), ngược lại tổng
chi tiêu dùng của chính phủ (EXP) có tác động
tích cực và đáng kể đến tăng trưởng kinh tế tại
Việt Nam. Thông qua kết quả phân tích, giả
thuyết với các biến đều đạt theo đúng dấu kỳ vọng
đã đặt ra.
Những hàm ý chính sách từ kết quả nghiên cứu
có ý nghĩa rất quan trọng cho việc hoạch định
chính sách nợ công, đặc biệt là đối với nợ nước
ngoài. Tuy nhiên, do sự giới hạn của dữ liệu
nghiên cứu cũng như những đặc thù của nền kinh
tế trong quá trình chuyển đổi, việc nghiên cứu
thêm trong tương lai là cần thiết nhằm xác định rõ
ràng bản chất các mối quan hệ cơ bản khi hệ thống
dữ liệu tốt hơn. Bên cạnh đó, nghiên cứu này mới
chỉ dừng lại ở việc thực hiện kiểm định mô hình
tuyến tính để xem xét sự tác động một chiều của
nợ công tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, do
vậy việc nghiên cứu thêm mối quan hệ phi tuyến
giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
thông qua việc mô hình ước lượng ngưỡng là hết
sức cần thiết để thực hiện ước lượng giá trị
ngưỡng nợ công ở Việt Nam làm cơ sở để xuất các
hàm ý chính sách tốt hơn trong quản lý nợ công.u
Tài liệu tham khảo:
1. Alejandro, D. J., & Ileana, R. J. (2017), The
impact of government debt on economic growth: An
overview for Latin America, Department of
Economics, University of Perugia (IT), working
paper, 28, 1-11.
2. Andrea F. Presbitero (2010), Total Public Debt
and Growth in Developing Countries, Università
Politecnica delle Marche.
3. Christabell, M. (2013), The relationship
between public debt and economic growth in Kenya,
International Journal of Social Sciences and Project
Planning Management, 1(1), 1-21.
4. Checherita-Westphal, C., & Rother, P., The
impact of high and growing government debt on
economic growth - An empirical investigation for
the Euro area, European Central Bank, Working
paper No. 1237 (2010).
5. Elmendorf D. W. and Mankiw G. N (1999),
Government Debt, In J. B. Taylor and M. Woodford
(Eds), Handbook of Macroeconomics, Volume 1,
Part C, pp 1615-1669.
6. Hồ Hữu Tiến (2009), Bàn về vấn đề quản lý
vốn ODA ở Việt Nam, Tạp chí khoa học và công
nghệ, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng -
số 2 (31), 2009.
Sè 145/202034
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
7. Hoàng Khắc Lịch và Dương Cẩm Tú (2018),
Nghiên cứu “Ảnh hưởng của nợ công tới tăng
trưởng kinh tế”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc
Gia Hà Nội; Kinh tế và Kinh doanh.
8. Hansen, Bruce E. (1999), Threshold Effects in
Non-dynamic Panels: Estimation, Testing, and
Inference, Journal of Econometrics 93.
9. Lê Thị Khương (2016), Nghiên cứu “Bàn về
nợ công Việt Nam hiện nay” (số 21), Tạp chí
Ngân hàng.
10. Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt,
Nghiên cứu vấn đề “Tình hình nợ công và quản lý
nợ công ở Việt Nam”.
11. Muritala, T. A. (2012), Empirical analysis on
impact of external debt on economic growth in
Nigeria, Acta Universitatis Danubius, 8(6), 1-13.
12. Nguyễn Xuân Trường (2019), Nghiên cứu
“Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh
tế Việt Nam”, trường ĐH Ngân hàng TPHCM.
13. Nguyễn Tuấn Tú (2012), Nghiên cứu về “Nợ
công ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải
pháp”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và
Kinh doanh 28 (2012) 200-208;
14. Nguyễn Thị Liên Hương (2018), Nghiên cứu
về “Nợ công Việt Nam giai đoạn 2014- 2018 và giải
pháp cho năm 2019”, Kỷ yếu hội thảo khoa học
quốc gia.
15. Precious, L. N. (2015), Effects of public debt
on economic growth in Swaziland, International
Journal of Business and Commerce, 5(1), 1-24.
16. Reinhart, C. M., Reinhart, V. R., & Rogoff,
K. S. (2012), Public debt overhangs: advanced-
economy episodes since 1800, The Journal of
Economic Perspectives, 26(3), 69-86.
17. Reinhart and Rogoff (2010), Growth in a
Time of Debt, JEL No. E44, F30, N20.
18. Sử Đình Thành (2012), Nghiên cứu về
“Ngưỡng nợ công - Nghiên cứu thực nghiệm ở Việt
Nam”, Tạp chí Kinh tế phát triển, tháng 3 năm 2012
19. Tawfiq Ahmad Mousa, Abdullah M
Shawawreh (2016), The Impact of Public Debt on
the Economic Growth of Jordan, An Empirical
Study (2000- 2015).
20. Teles & Mussolini, Public debt and the limits
of fiscal policy to increase economic growth,
European Economic Review (2014).
21. Uma, K., Eboh, F., & Obidike, P. (2013),
Debt and debt service: Implications on Nigerian
economic development, Asian Journal of Social
Sciences and Humanities, 2(2), 42-54.
22. Võ Hữu Phước, & Nguyễn Quyết, Impact of
Public Debt and Inflation on Vietnam's Economic
Growth: Quantitative Study Using the ARDL Model,
Economic Studies, 453 (2017).
Summary
This study aims to examine the impact of public
debt on Vietnam's economic growth in the period
1999 - 2018 by using a OLS regression method. The
final results indicate that public debt variables
(EXP_GR, DEBT) have significant negative effects
on economic growth (GR). Meanwhile, INV and
OPEN have positive impacts on annual GDP growth
(GR). The study also shows that in recent years
Vietnam has basically controlled its public debt
within a safe threshold at less than 65% (under
Vietnam's Public Debt Management Law).
Moreover, if the government's spending increases
within the budget without increasing public debt,
this spending will have a positive impact on eco-
nomic growth. In addition, other factors such as
public investment and import-export also encourage
Vietnam’s economic growth. And finally, basing on
the research results, the researchers made some rec-
ommendations on public debt management policy
for Vietnam.
35Sè 145/2020
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_no_cong_den_tang_truong_kinh_te_nghien_cuu_thuc.pdf