Kết luận và hàm ý chính sách
Xuất phát từ thực tiễn là môi trường quản trị công/thể chế có tác động nhất định lên đầu tư
công, bài viết đánh giá thực nghiệm tác động của môi trường quản trị công lên đầu tư công cho dữ
liệu bảng cân bằng của 72 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 2002 - 2018 bằng phương pháp
ước lượng GMM Arellano-Bond hệ thống một bước và hai bước. Kết quả cho thấy môi trường
quản trị công làm giảm đầu tư công ở các quốc gia đang phát triển, ủng hộ giả thuyết là các viên
chức chính phủ sử dụng đầu tư công như một phương tiện để trục lợi. Ngoài ra, tăng trưởng kinh
tế, lạm phát, và cơ sở hạ tầng cũng là các yếu tố quyết định có ý nghĩa của đầu tư công ở các quốc
gia này.
Các phát hiện trong nghiên cứu này đòi hỏi sự thận trọng trong quá trình thiết kế, ban hành
và thực thi các chính sách đầu tư công và các dự án công. Hàm ý là chính phủ các quốc gia đang
phát triển, trong đó có chính phủ Việt Nam, cần cải cách mạnh mẽ môi trường quản trị công để
tạo các điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy đầu tư công trong tương lai. Đặc biệt, quá trình cải
thiện môi trường quản trị công ở các quốc gia đang phát triển sẽ giúp loại trừ các lỗ hổng mà các
viên chức công và các nhóm lợi ích lợi dụng để trục lợi trong các dự án công. Quá trình cải thiện
và cải cách môi trường quản trị công liên tục sẽ giúp các quốc gia này trong tương lai sẽ chuyển
đổi từ môi trường thể chế kém (quản trị công dựa trên quan hệ) sang môi trường thể chế tốt (quản
trị công dựa trên luật lệ) và khi đó môi trường quản trị công sẽ thúc đẩy thay vì làm giảm đầu tư
công ở các quốc gia này.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của quản trị công lên đầu tư công ở các quốc gia đang phát triển: Bằng chứng thực nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147 137
Tác động của quản trị công lên đầu tư công ở các quốc gia đang
phát triển: Bằng chứng thực nghiệm
The effect of governance environment on public investment in
developing countries: Empirical evidence
Nguyễn Văn Bổn1*, Trần Thị Mỹ Phước2
1Khoa Tài chính Ngân hàng, Trường Đại học Tài chính Marketing, Việt Nam
2Khoa Tài chính Kế toán, Trường Đại học Sài Gòn, Việt Nam
*Tác giả liên hệ, Email: boninguyen@gmail.com
THÔNG TIN TÓM TẮT
DOI:10.46223/HCMCOUJS.
econ.vi.16.1.558.2021
Ngày nhận: 24/06/2020
Ngày nhận lại: 06/07/2020
Duyệt đăng: 07/07/2020
Từ khóa:
đầu tư công, môi trường quản
trị công, phương pháp GMM
hệ thống, các quốc gia đang
phát triển
Keywords:
public investment,
governance environment,
system GMM Arellano-Bond
estimator, developing
countries.
Môi trường thể chế đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự khác biệt trong
môi trường thể chế đưa đến sự khác biệt trong các hoạt động kinh tế
giữa các quốc gia. Bài viết này đánh giá tác động của môi trường
quản trị công (thể chế) lên đầu tư công ở 72 quốc gia đang phát triển
trong giai đoạn 2002 - 2018 bằng phương pháp ước lượng GMM
Arellano-Bond hệ thống. Phát hiện cho thấy môi trường quản trị
công làm giảm đầu tư công ở các quốc gia này. Ngoài ra, tăng trưởng
kinh tế thúc đẩy trong khi lạm phát và cơ sở hạ tầng làm giảm đầu
tư công. Các phát hiện trong nghiên cứu này đề xuất một số hàm ý
chính sách quan trọng cho chính phủ ở các nước đang phát triển, đặc
biệt Việt Nam, trong quá trình cải thiện môi trường quản trị công để
gia tăng thúc đẩy đầu tư công, phục vụ cho phát triển kinh tế.
ABSTRACT
The institutional environment plays a critical role in the process
of economic development in most countries worldwide. The
difference in the institutional environment leads to a difference in
the level of development between countries. The paper empirically
investigates the effect of the governance environment on public
investment for 72 developing countries during the period of 2002 -
2018 using the system GMM Arellano-Bond estimators. The
findings indicated that the governance environment hinders public
investment in these countries. Besides, economic growth stimulates
while inflation and infrastructure reduce public investment. These
findings suggest some important policy implications for
governments in developing countries, especially Vietnam, in
reforming the governance environment to promote public
investment for economic development.
1. Giới thiệu
Mối quan hệ giữa môi trường thể chế và đầu tư công là một trong các chủ đề quan trọng
giữa các nhà kinh tế học. Bắt đầu từ công trình nghiên cứu của Tanzi và Davoodi (1998), một dòng
138 Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147
nghiên cứu nhỏ đã và đang nghiên cứu mối quan hệ này nhằm chứng minh cho tác động thúc đẩy
hoặc cản trở đầu tư công của môi trường thể chế. Trong nghiên cứu, có một sự nhất trí cao giữa
các nhà kinh tế học và các nhà chính trị là vốn công đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế bởi vì nó góp phần vào việc cải thiện cơ sở hạ tầng và gia tăng vốn con người (Haughwout,
2002). Cơ sở hạ tầng có thể làm giảm chi phí cố định, thu hút các doanh nghiệp và các yếu tố sản
xuất, và qua đó nâng cao sản xuất. Trong khi đó, môi trường thể chế có thể được xem là nguyên
nhân nền tảng của phát triển dài hạn ở các quốc gia trên thế giới. North (1990) định nghĩa “thể chế
là những luật lệ của cuộc chơi trong xã hội”. Cụ thể hơn thì thể chế là những ràng buộc do con
người tạo ra để để hiệu chỉnh và định hình các tương tác của mình. Dựa trên cách tiếp cận vĩ mô
thì lý thuyết thể chế của North (1990) lập luận trong trường hợp thị trường bị chi phối bởi các yếu
tố chính trị và kinh tế là hiệu quả, nghĩa là không có chi phí giao dịch, thì mọi lựa chọn sẽ luôn đạt
hiệu quả. Ở một khía cạnh khác, Acemoglu, Johnson, và Robinson (2005) nhấn mạnh sự khác biệt
trong môi trường thể chế đưa đến sự khác biệt trong các hoạt động kinh tế giữa các quốc gia. Đặc
biệt, các quốc gia đang phát triển phần lớn đều sử dụng chính sách tài khóa, cụ thể là chi tiêu đầu
tư công để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm và ổn định xã hội. Điều này đưa đến
câu hỏi nghiên cứu “Môi trường quản trị công ở các nước đang phát triển liệu có tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thúc đẩy đầu tư công hay không?”.
Liên quan đến chủ đề nghiên cứu, chúng tôi có một số lập luận để lý giải cho sự tác động
của môi trường quản trị công lên đầu tư công như sau. Dưới môi trường quản trị công kém, các dự
án đầu tư công không được kiểm soát chặt chẽ và giám sát công khai. Hầu hết các dự án đầu tư
công được thực thi mà không có sự tham gia của người dân, vì thế tham nhũng xuất hiện. Tham
nhũng có thể làm sai lệch toàn bộ quá trình ra quyết định gắn với ngân sách đầu tư của chính phủ.
Các hiện tượng giả tạo như “voi trắng” và “lâu đài trên cát” trong các dự án công được tạo ra
(Tanzi & Davoodi, 1998). Các viên chức chính phủ có thể trình ra một báo cáo sai lệch về quá
trình mua sắm chất lượng cao chi phí cao, nhưng cung cấp các sản phẩm chất lượng thấp giá thấp
(Haque & Kneller, 2015). Vì thế, tham nhũng có thể làm tăng lượng vốn đầu tư cho các dự án
công, nhưng làm giảm tỷ suất sinh lời trên các nguồn vốn đó. Đặc biệt, do thiếu giám sát công khai
và kiểm soát minh bạch, việc thiết kế, hình thành và thực thi các chính sách liên quan đến đầu tư
công và các dự án đầu tư công bị tác động bởi các nhóm lợi ích và các viên chức trục lợi. Nhiều
dự án đầu tư công không gắn kết với lợi ích của người dân. Trong khi đó, việc cải thiện môi trường
quản trị công sẽ dần loại trừ sự trục lợi của các viên chức chính phủ, lợi ích nhóm và các lỗ hổng
luật pháp trong quá trình thiết kế, ban hành và thực thi các chính sách liên quan đến đầu tư công.
Do vậy, việc cải thiện môi trường quản trị công sẽ làm giảm đầu tư công.
Xuất phát từ bối cảnh môi trường quản trị công có thể tác động có ý nghĩa lên đầu tư công
ở các nước đang phát triển và trả lời cho câu hỏi nghiên cứu trên, chúng tôi đánh giá thực nghiệm
mối quan hệ giữa môi trường quản trị công và đầu tư công cho 72 quốc gia đang phát triển trong
khoảng thời gian 2002 - 2018 với các biến kiểm soát như tăng trưởng kinh tế, độ mở thương mại,
lạm phát, và cơ sở hạ tầng bằng phương pháp ước lượng GMM Arellano-Bond hệ thống hai bước.
Tính bền của nghiên cứu sẽ được kiểm tra bằng phương pháp ước lượng GMM Arellano-Bond hệ
thống một bước. So với các nghiên cứu trước đây cùng chủ đề thì bài viết này thể hiện sự khác
biệt (tính mới) dựa trên hai khía cạnh: (i) sử dụng 6 thành phần quản trị công của World Bank đại
diện cho môi trường thể chế; và (ii) sử dụng phương pháp ước lượng GMM Arellano-Bond hệ
thống hai bước cho việc ước lượng và phương pháp ước lượng GMM Arellano-Bond hệ thống một
bước để kiểm tra tính bền.
Bài viết được cấu trúc như sau. Ngoài Phần 1 là giới thiệu thì Phần 2 là tổng quan các
nghiên cứu trước, tập trung vào mối quan hệ giữa thể chế/quản trị công/tham nhũng và đầu tư
công. Mô hình và dữ liệu nghiên cứu được trình bày ở Phần 3 với việc nhấn mạnh vào sự phù hợp
Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147 139
của các phương pháp ước lượng GMM Arellano-Bond hệ thống. Phần 4 trình bày các kết quả ước
lượng, bàn luận và kiểm tra tính bền. Phần cuối cùng kết luận và đề xuất một vài hàm ý quan trọng
từ các phát hiện trong Phần 4.
2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Tham nhũng làm móp méo toàn bộ quá trình ra quyết định gắn với các dự án đầu tư công;
đặc biệt môi trường quản trị công càng yếu kém thì mức độ móp méo càng cao (Tanzi & Davoodi,
1998). Bằng cách sử dụng phương pháp ước lượng OLS cho mẫu của 92 quốc gia trong giai đoạn
1982 - 1995, Tanzi và Davoodi (1998) chỉ ra tham nhũng làm tăng đầu tư công. Tương tự, mô hình
tăng trưởng nội sinh với thông tin bất cân xứng giữa chính phủ và các quan chức được phát triển
bởi Haque và Kneller (2015) để lý giải tại sao đầu tư công thất bại trong việc thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế ở các quốc gia nơi tham nhũng có tính địa phương. Để minh chứng quan điểm này, Haque
và Kneller (2015) sử dụng phương pháp ước lượng 3SLS cho mẫu của 66 quốc gia từ 1970 đến
2000. Kết quả thực nghiệm cho thấy: (1) tham nhũng làm tăng đầu tư công; (2) tham nhũng làm
giảm tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư công và không hiệu quả trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Trong khi đó, Grigoli và Mills (2014) lập luận rằng tầng lớp tinh hoa ở các quốc gia với thể chế
kém sử dụng đầu tư công như cỗ máy phục vụ cho lợi ích của họ. Grigoli và Mills (2014) sử dụng
các phương pháp ước lượng GMM sai phân và hệ thống để kiểm tra thực nghiệm ảnh hưởng của
chất lượng thể chế lên số lượng, sự thay đổi và chất lượng của đầu tư công cho dữ liệu bảng của
144 quốc gia trong giai đoạn 1984 - 2008. Các kết quả ước lượng cho thấy môi trường quản trị
công có tác động âm lên đầu tư công, ủng hộ giả thuyết là chính phủ sử dụng đầu tư công như một
phương tiện để trục lợi. Trái lại, Agyei (2017) cho thấy việc cải thiện môi trường quản trị công
thúc đẩy vốn đầu tư công. Agyei (2017) đánh giá thực nghiệm ảnh hưởng của cấu trúc quản trị
công lên đầu tư công cho dữ liệu bảng không cân bằng của 48 quốc gia vùng Hạ Sahara Châu Phi
(SSA) trong thời gian 1990 - 2009 bằng cách sử dụng phương pháp ước lượng sai phân một bước.
Các kết quả ước lượng đề nghị cấu trúc quản trị công làm gia tăng đầu tư công ở SSA.
Trái lại, De la Croix và Delavallade (2009) khẳng định rằng ảnh hưởng của tham nhũng
lên đầu tư công không phải lúc nào cũng giống nhau. Tham nhũng có thể hạn chế khả năng của
các quốc gia nghèo bắt kịp các quốc gia giàu có. Điều này có thể làm móp méo việc phân bổ chi
tiêu công. Thực vậy, Delavallade (2006) đánh giá thực nghiệm tác động của tham nhũng lên thành
phần chi tiêu công theo lĩnh vực bằng cách sử dụng phương pháp ước lượng 3SLS cho mẫu 64
quốc gia từ 1996 đến 2001. Các kết quả ước lượng chỉ ra tham nhũng làm giảm phần chi tiêu sử
dụng cho giáo dục, y tế và bảo vệ xã hội và làm tăng phần chi tiêu dành cho dịch vụ công, xăng
dầu, văn hóa, và quốc phòng. Tương tự như vậy, De la Croix và Delavallade (2009) sử dụng
phương pháp ước lượng 2SLS cho mẫu 62 quốc gia trong thời gian từ 1996 đến 2004. Các phát
hiện nhấn mạnh rằng tác động của hệ thống tư pháp kém lên cấu trúc của đầu tư công tùy vào trình
độ phát triển của một quốc gia.
Không như các nghiên cứu trên, một số nghiên cứu khác sử dụng các đo lường về thể chế
có tính khác biệt như các dạng ảnh hưởng của doanh nghiệp (Duchin & Sosyura, 2012), thể chế
và luật lệ phi chính thống (Xu & Yao, 2015), và chế độ chính trị (Gwatipedza & Janus, 2019).
Duchin và Sosyura (2012) nghiên cứu mối quan hệ giữa các dạng ảnh hưởng chính trị của doanh
nghiệp như sân nhà của các chính trị gia, vận động hành lang, đóng góp chiến dịch tranh cử lên
đầu tư công. Bằng cách sử dụng các dữ liêu thu thập dựa trên các đơn xin cấp vốn của doanh
nghiệp theo Chương trình TARP, nghiên cứu phát hiện đầu tư đến từ tài trợ của chính phủ dành
cho các doanh nghiệp có ảnh hưởng chính trị có tính kém hiệu quả so với đầu tư đến từ tài trợ của
chính phủ dành cho các doanh nghiệp không có ảnh hưởng chính trị. Trong khi đó, Xu và Yao
(2015) lại đặt vấn đề liệu các thể chế, luật lệ và chuẩn mực phi chính thống được tạo dựng và giám
140 Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147
sát bởi các nhóm xã hội có thúc đẩy đầu tư công ở địa phương hay không xét trong bối cảnh tính
dân chủ thấp và tệ quan liệu cao? Để trả lời cho câu hỏi tương đối khó này, hai nhà nghiên cứu sử
dụng bộ dữ liệu bảng của 220 ngôi làng ở Trung Quốc từ 1986 đến 2005. Kết quả cho thấy các thể
chế phi chính thống này thúc đẩy việc gia tăng đầu tư công ở địa phương. Mới nhất, Gwatipedza
và Janus (2019) phân tích và đánh giá thực nghiệm sự khác biệt về hiệu quả của đầu tư công giữa
các quốc gia độc tài và các quốc gia dân chủ. Kết quả cho thấy đầu tư của chính phủ ở các quốc
gia độc tài thay đổi nhiều và kém hiệu quả hơn so với đầu tư của chính phủ ở các quốc gia
dân chủ.
3. Mô hình và dữ liệu nghiên cứu
3.1 Mô hình nghiên cứu
Dựa trên nghiên cứu của Grigoli và Mills (2014), phương trình thực nghiệm được mở rộng
như sau:
𝐺𝐼𝑁𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1𝐺𝐼𝑁𝑖𝑡−1 + 𝛽2𝐺𝑂𝑉𝑖𝑡 + 𝑋𝑖𝑡𝛽
′ + 𝜂𝑖 + 𝜉𝑖𝑡 (1)
với i và t lần lượt ký hiệu cho quốc gia và thời gian. GINit là đầu tư công (%GDP), GINit-1
đại diện cho vốn đầu tư công lúc ban đầu, và GOVit là môi trường quản trị công (bao gồm 6 biến
quản trị công, bao gồm kiểm soát tham nhũng, hiệu quả chính phủ, ổn định chính trị, chất lượng
luật lệ, nhà nước pháp quyền, tiếng nói và giải trình). Xit là một tập các biến kiểm soát như tăng
trưởng kinh tế (GDP bình quân đầu người thực), độ mở thương mại (tỷ lệ xuất nhập khẩu theo
GDP), lạm phát, và cơ sở hạ tầng (số thuê bao điện thoại cố định trên 100 dân); ηi là tác động cố
định không quan sát được có đặc điểm quốc gia, bất biến theo thời gian và ζit là đại lượng sai số;
β0, β1, β2, và β’ là các hệ số ước lượng.
Có bốn vấn đề nghiêm trọng về kinh tế lượng từ việc ước lượng phương trình (1). Thứ
nhất, một vài biến như tăng trưởng kinh tế, cơ sở hạ tầng, quản trị công có thể mang tính nội sinh.
Các biến này có thể tương quan với đại lượng sai số ηi, và đưa đến hiện tượng nội sinh. Thứ hai,
một vài đặc điểm không quan sát được, bất biến theo thời gian và có đặc tính quốc gia (tác động
cố định) như địa lý và nhân khẩu học có thể tương quan với các biến độc lập. Các tác động cố định
này hiện diện trong đại lượng sai số ηi. Thứ ba, sự hiện diện của biến phụ thuộc có độ trễ GINit-1
dẫn đến tự tương chuỗi quan cao. Cuối cùng, dữ liệu bảng có khoảng thời gian quan sát ngắn (T =
17) và số đơn vị bảng nhiều (N = 72). Những vấn đề này có thể khiến ước lượng OLS không nhất
quán và bị chệch. Mô hình các tác động cố định FEM và mô hình các tác động ngẫu nhiên REM
không xử lí được hiện tượng nội sinh và tự tương quan chuỗi trong khi ước lượng PMG (Pool
Mean Group) và ước lượng MG (Mean Group) cần một khoảng thời gian quan sát dài để ước lượng
cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Thêm vào đó, ước lượng IV-2SLS đòi hỏi một vài biến công cụ
thích hợp nằm ngoài các biến độc lập trong mô hình. Vì thế, chúng tôi quyến định lựa chọn phương
pháp ước lượng sai phân được đề xuất bởi Judson và Owen (1999).
Phương trình (1) sẽ được dùng để đánh giá mối quan hệ giữa môi trường quản trị công -
đầu tư công cho 72 quốc gia đang phát triển. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 6 biến quản
trị công được xây dựng bởi dự án Worldwide Governance Indicators (Kaufmann, Kraay, &
Mastruzzi, 2011), để đại diện cho môi trường quản trị công. “Quản trị công là quá trình qua đó các
đối tượng thuộc nhà nước và bên ngoài tương tác với nhau để thiết kế và thực thi các chính sách
trong điều kiện các luật lệ chính thống và phi chính thống định hình nên quyền lực và cũng được
hình thành bởi quyền lực” và “Quyền lực là khả năng của một nhóm người hay một nhóm các cá
nhân có tác động lẫn nhau dựa trên các lợi ích của nhau và mang lại các thành quả nhất.” (World
Bank, 2017, p. 3). Sáu biến quản trị công được đo lường theo các điểm số của chỉ số quản trị công
Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147 141
trong khoảng -2.5 đến 2.5. Việc thiếu môi trường quản trị công tốt ở hầu hết các quốc gia đang
phát triển dẫn đến các tác động tiêu cực lên triển vọng phát triển kinh tế; vì thế cải thiện môi trường
quản trị công đóng vai trò quan trọng trong nghị trình phát triển chính ở các quốc gia này (Hope,
2009). Một môi trường quản trị công tốt đóng góp có ý nghĩa vào sự hình thành chính phủ kiến
tạo với khả năng thực thi các chính sách phát triển.
Chúng tôi sử dụng các phương pháp ước lượng GMM Arellano và Bond (1991) lần đầu
được đề xuất bởi Holtz-Eakin, Newey, và Rosen (1988). Để ước lượng phương trình (1), chúng
tôi lấy sai phân bậc một để loại trừ các tác động cố định có đặc tính quốc gia (ηi). Sau đó, các biến
độc lập ở dạng sai phân bậc nhất được sử dụng như các biến được công cụ theo độ trễ của chúng
dưới giả định rằng các sai số thay đổi theo thời gian trong các mô hình gốc không có tương quan
chuỗi (Judson & Owen, 1999). Chiến lược này là GMM sai phân, được biết là có khả năng xử lí
các hiện tượng chệch do tác động đồng thời trong các ước lượng.
Phương trình (1) có thể được chuyển đổi thành phương trình dưới dạng sai phân bậc nhất
như sau:
𝐺𝐼𝑁𝑖𝑡 − 𝐺𝐼𝑁𝑖𝑡−1 = 𝛽1(𝐺𝐼𝑁𝑖𝑡−1 − 𝐺𝐼𝑁𝑖𝑡−2) + 𝛽2(𝐺𝑂𝑉𝑖𝑡 − 𝐺𝑂𝑉𝑖𝑡−1)
+(𝑋𝑖𝑡 − 𝑋𝑖𝑡−1)𝛽
′ + (𝜉𝑖𝑡 − 𝜉𝑖𝑡−1)
Trong trường hợp các biến có tính dai dẳng, nghĩa là các giá trị quá khứ cho thấy khá ít
thông tin về sự biến đổi trong tương lai, khiến cho các biến trễ trở thành các công cụ yếu ở dạng
sai phân. Vì thế, Arellano và Bover (1995) đề nghị kết hợp phương trình (1) và phương trình (2)
để hình thành một hệ gồm hai phương trình, một phương trình dạng sai phân được công cụ bởi các
biến trễ, và một phương trình dạng gốc được công cụ bởi các biến trễ sai phân qua đó GMM được
áp dụng. Đây là phương pháp ước lượng GMM hệ thống, một chiến lược có khả năng tăng tính
hiệu quả thông qua việc giảm bớt hiện tượng chệch và giải quyết được các biến công cụ yếu ở
GMM sai phân. Tính nhất quán của GMM hệ thống hoàn toàn dựa trên các giả định là các đại
lượng sai số không tương quan nhau, các biến công cụ có hiệu lực, và các thay đổi trong các biến
công cụ thêm vào không tương quan với các tác động cố định.
Các ước lượng GMM sai phân hai bước có tính hiệu quả hơn các ước lượng GMM sai phân
một bước. Tuy nhiên, việc áp dụng các ước lượng GMM sai phân hai bước trong các mẫu dữ liệu
nhỏ, chẳng hạn ở nghiên cứu này, có một vài vấn đề (Roodman, 2009). Những vấn đề này hình
thành từ việc gia tăng theo cấp số nhân số lượng biến công cụ khi khoảng thời gian tăng lên. Điều
này có thể khiến số lượng biến công cụ quá nhiều so với số lượng các quốc gia. Để tránh việc này,
quy tắc ngón trỏ nên được áp dụng để duy trì số lượng biến công cụ nhỏ hơn hoặc bằng số lượng
các đơn vị bảng (số quốc gia) (Roodman, 2009).
Tính hiệu lực của các biến công cụ trong phương pháp GMM hệ thống và sai phân được
đánh giá thông qua thống kê Sargan/Hansen và thống kê Arellano-Bond. Các kiểm định
Sargan/Hansen với giả thuyết null H0: biến công cụ có tính ngoại sinh chặt chẽ, nghĩa là biến công
cụ không tương quan với các sai số. Kiểm định Arellano-Bond được dùng để đánh giá tự tương
quan chuỗi của các số dưới dạng sai phân bậc nhất. Vì thế, kết quả kiểm định tự tương quan chuỗi
bậc nhất của các sai số bậc nhất AR(1) được bỏ qua trong khi tự tương quan chuỗi bậc hai của các
sai số AR(2) được thực hiện dựa trên các sai phân bậc nhất của các sai số để dò tìm hiện tượng tự
tương quan chuỗi bậc nhất của các sai số.
3.2 Dữ liệu nghiên cứu
Các biến là đầu tư công, sáu thành phần quản trị công, GDP bình quân đầu người thực, độ
mở thương mại, lạm phát, và cơ sở hạ tầng. Dữ liệu được lấy từ World Development Indicators
(2)
142 Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147
(WDI) và Worldwide Governance Indicators (WGI) của World Bank và Government Finance
Statistics (GFS) của IMF. Mẫu nghiên cứu bao gồm 72 quốc gia đang phát triển gồm Albania,
Angola, Argentina, Armenia, Azerbaijan, Bangladesh, Belize, Bhutan, Bosnia and Herzegovina,
Botswana, Brazil, Bulgaria, Burkina Faso, Cabo Verde, Cambodia, Central African, China,
Colombia, Congo Rep., Cote d'Ivoire, Croatia, Dominican Republic, Egypt, El Salvador,
Equatorial Guinea, Gambia, Georgia, Ghana, Guatemala, Honduras, India, Indonesia, Iran, Jordan,
Kazakhstan, Kuwait, Lao, Lebanon, Lesotho, Madagascar, Malawi, Malaysia, Maldives, Mali,
Mauritius, Moldova, Mongolia, Morocco, Namibia, Nepal, Paraguay, Peru, Philippines, Romania,
Russia, Saudi Arabia, Serbia, South Africa, Sri Lanka, St. Kitts and Nevis, St. Lucia, St. Vincent
and the Grenadines, Tanzania, Thailand, Togo, Tunisia, Turkey, Ukraine, Uzbekistan, Việt Nam,
Zambia, và Zimbabwe trong giai đoạn 2002 - 2018.
Thống kê mô tả các biến được trình bày trong Bảng 1. Đặc biệt, các thành phần quản trị
công có giá trị trung bình tương đối thấp với các giá trị âm. Điều này khá tương đồng với nghiên
cứu của Li và Filer (2007) khi cho rằng các quốc gia đang phát triển có môi trường quản trị công
kém (quản trị công dựa trên quan hệ). Bảng 2 trình bày ma trận tương quan giữa các biến với các
hệ số tương quan có giá trị < 0.8, giúp loại trừ khả năng cộng tuyến/đa cộng tuyến giữa các biến
này. Trong khi đó, các biến thành phần quản trị công có hệ số tương quan với các giá trị tương đối
cao, vượt qua 0.8 (Bảng 3). Do vậy, các biến thành phần này được sử dụng riêng lẻ trong các
phương trình ước lượng để loại trừ khả năng cộng tuyến giữa các biến này.
Bảng 1
Thống kê mô tả các biến
Biến
Quan
sát
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Nhỏ nhất Lớn nhất
Đầu tư công (GIN) 1224 5.606 3.90 0.354 31.2714
Thu nhập bình quân (GDP) 1224 5263.07 5953.0 334.114 49578.5
Độ mở thương mại (OPE) 1224 82.544 33.574 22.105 210.374
Lạm phát (INF) 1224 6.20534 9.285 -72.729 156.964
Số thuê bao cố định trong 100 dân (TEL) 1224 12.352 10.753 0.017 52.031
Chất lượng luật lệ (GO1) 1224 -0.422 0.591 -1.826 1.646
Nhà nước pháp quyền (GO2) 1224 -0.328 0.563 -1.848 1.267
Tiếng nói và giải trình (GO3) 1224 -0.302 0.754 -2.699 1.364
Kiểm soát tham nhũng (GO4) 1224 -0.279 0.578 -2.236 1.240
Hiệu quả chính phủ (GO5) 1224 -0.387 0.577 -1.852 1.077
Ổn định chính trị (GO6) 1224 -0.339 0.750 -2.124 1.222
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nhóm nghiên cứu
Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147 143
Bảng 2
Ma trận tương quan giữa các biến
GIN GDP OPE INF TEL
GIN 1
GDP -0.033 1
OPE 0.242*** 0.156*** 1
INF -0.041 -0.085*** -0.067** 1
TEL -0.184*** 0.728*** 0.091*** -0.075*** 1
Ghi chú: ***, ** và * ký hiệu lần lượt cho các mức ý nghĩa 1%, 5%, và 10%
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nhóm nghiên cứu
Bảng 3
Ma trận tương quan giữa các biến quản trị công
GO1 GO2 GO3 GO4 GO5 GO6
GO1 1
GO2 0.801*** 1
GO3 0.553*** 0.455*** 1
GO4 0.681*** 0.786*** 0.407*** 1
GO5 0.886*** 0.847*** 0.586*** 0.768*** 1
GO6 0.623*** 0.499*** 0.407*** 0.615*** 0.612*** 1
Ghi chú: ***, ** và * ký hiệu lần lượt cho các mức ý nghĩa 1%, 5%, và 10%
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nhóm nghiên cứu
4. Kết quả và bàn luận
4.1. Ước lượng S-GMM hai bước
Các kết quả ước lượng được trình bày trong Bảng 4. Ở mỗi cột là một mô hình tương ứng
với một thành phần quản trị công. Trong tất cả các quy trình ước lượng, chúng tôi dò ra được biến
quản trị công là nội sinh, vì thế chúng tôi sử dụng biến quản trị công này như biến được công cụ
trong thủ tục GMM (biến nội sinh) và các biến còn lại (đầu tư công, tăng trưởng kinh tế, độ mở
thương mại, lạm phát, và cơ sở hạ tầng) như các biến công cụ trong thủ tục IV.
Các kết quả ở tất cả các mô hình đều cho thấy môi trường quản trị công làm giảm đầu tư
công đều ở mức ý nghĩa 1%. Tất cả các kết quả này đều nhất quán cao cho tất cả biến 6 thành phần
quản trị công. Phát hiện này hoàn toàn tương đồng với nghiên cứu của Grigoli và Mills (2014),
ủng hộ giả thuyết cho rằng các viên chức chính phủ sử dụng đầu tư công như một phương tiện để
trục lợi. Ngoài ra, phát hiện này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của Tanzi và Davoodi
(1998) và Haque và Kneller (2015) khi cho rằng tham nhũng đưa đến gia tăng đầu tư công, và việc
cải cách môi trường thể chế/quản trị công sẽ loại trừ dần tham nhũng và làm giảm đầu tư công.
Điều này cho thấy dưới môi trường quản trị công kém, như ở các quốc gia đang phát triển trong
nghiên cứu này (Li, Park, & Li, 2004), việc thiết kế, ban hành và thực thi các chính sách liên quan
đến các dự án đầu tư công không được giám sát công khai và minh bạch, tạo nên các lỗ hổng giúp
cho các viên chức công và các nhóm lợi ích trục lợi từ các dự án công thông qua việc gia tăng đầu
144 Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147
tư công. Việc cải thiện môi trường quản trị công vì thế sẽ loại trừ các lỗ hổng này và làm giảm đầu
tư công. Do vậy, các phát hiện này nhấn mạnh rằng việc cải cách môi trường quản trị công ở các
nước đang phát triển là một giải pháp cần thiết và quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Li và cộng
sự (2004) khẳng định quá trình cải thiện môi trường quản trị công sẽ chuyển đổi một quốc gia
đang phát triển với môi trường quản trị công kém (quản trị công dựa trên quan hệ) thành một quốc
gia phát triển với môi trường quản trị công tốt (quản trị dựa trên luật lệ) và tương ứng là sự thúc
đẩy của môi trường quản trị công lên đầu tư công thay vì làm giảm. Phát hiện trong nghiên cứu
này cũng hàm ý một giá trị ngưỡng của môi trường quản trị công, thể hiện sự khác biệt giữa các
quốc gia đang phát triển và các quốc gia phát triển. Theo đó, các thành phần thể chế ở các quốc
gia đang phát triển có giá trị nhỏ hơn zero (môi trường quản trị công kém) và do vậy quá trình cải
cách và nâng cao môi trường thể chế sẽ giúp các quốc gia này một ngày nào đó trở thành các quốc
gia phát triển với môi trường quản trị công tốt và khi đó môi trường quản trị công sẽ thúc đẩy thay
vì làm giảm đầu tư công. Một điều có thể nhận thấy mà chính phủ ở các quốc gia đang phát triển
có thể làm ngay để cải thiện môi trường quản trị công là nâng cao tính giải trình của các dự án đầu
tư công bằng cách cho phép sự tham gia giám sát công khai và minh bạch của người dân (người
thụ hưởng dự án) ở tất cả các khâu. Đặc biệt, một cơ chế kiểm soát tham nhũng hiệu quả cũng là
một yêu cầu cần thiết ở các quốc gia này. Một số hình thức đầu tư công mới hiện nay ở các nước
đang phát triển như hợp tác công tư (PPP), đấu thầu công khai, nên được đẩy mạnh áp dụng
nhằm loại trừ tính trục lợi của các viên chức công và nhóm lợi ích.
Các kết quả ước lượng cũng chỉ ra tăng trưởng kinh tế thúc đẩy trong khi lạm phát và cơ
sở hạ tầng làm giảm đầu tư công ở các quốc gia đang phát triển. Tác động dương của tăng trưởng
kinh tế lên đầu tư công có thể được tìm thấy trong các nghiên cứu như Haque và Kneller (2015)
và Gupta, Liu, và Mulas-Granados (2016) với lập luận rằng tăng trưởng kinh tế làm tăng nguồn
thu thuế của chính phủ, do vậy giúp chính phủ có nguồn tiền để gia tăng chi đầu tư. Tương tự, Jin
và Zou (2005) lập luận tác động tiềm tàng của lạm phát là làm tăng chi phí giao dịch và hạ thấp
lợi nhuận, và do vậy sẽ làm giảm đầu tư. Điều này cũng đúng cho trường hợp đầu tư công như
trong nghiên cứu này, đặc biệt việc gia tăng của lạm phát cũng khiến nhiều dự án công bị đình trệ
vì làm tăng vốn đầu tư. Trong khi đó, sự phát triển cơ sở hạ tầng cũng làm giảm đầu tư công như
trong nghiên cứu này chỉ ra. Điều này cho thấy khi cơ sở hạ tầng còn kém thì nhà nước sẽ gia tăng
chi tiêu để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế phát triển, nhưng khi cơ sở hạ tầng tốt lên thì đầu tư
công của nhà nước sẽ giảm dần để dành vốn cho các lĩnh vực khác.
Bảng 4
Quản trị công và đầu tư công: S-GMM hai bước, 2002 - 2018
Biến phụ thuộc: Đầu tư công (%GDP)
Biến GO1 GO2 GO3 GO4 GO5 GO6
Đầu tư công (-1)
0.935***
(0.015)
0.925***
(0.018)
0.944***
(0.025)
0.916***
(0.019)
0.936***
(0.015)
0.906***
(0.014)
Quản trị công
-0.297***
(0.073)
-0.328***
(0.091)
-0.258***
(0.084)
-0.221***
(0.061)
-0.301***
(0.072)
-0.305***
(0.051)
Tăng trưởng kinh tế
0.0006***
(0.0001)
0.0006***
(0.0001)
0.0006**
(0.0002)
0.0007***
(0.0001)
0.0005***
(0.0001)
0.0008***
(0.0001)
Độ mở thương mại
0.0006
(0.001)
0.001
(0.001)
0.001
(0.001)
0.002**
(0.0001)
0.001
(0.001)
0.001
(0.001)
Lạm phát
-0.005***
(0.001)
-0.005**
(0.002)
-0.005***
(0.001)
-0.005***
(0.001)
-0.005**
(0.002)
-0.004***
(0.001)
Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147 145
Biến GO1 GO2 GO3 GO4 GO5 GO6
Cơ sở hạ tầng
-0.001***
(0.0003)
-0.001**
(0.0004)
-0.001**
(0.000)
-0.001***
(0.0004)
-0.0006**
(0.0003)
-0.001***
(0.0002)
Công cụ 37 37 37 36 37 36
Quốc gia/Quan sát 72/1008 72/1008 72/1008 72/936 72/1008 72/1008
AR(2) test 0.602 0.601 0.601 0.609 0.610 0.599
Sargan test 0.117 0.390 0.186 0.125 0.239 0.238
Hansen test 0.346 0.206 0.404 0.692 0.233 0.503
Ghi chú: ***, ** và * ký hiệu lần lượt cho các mức ý nghĩa 1%, 5%, và 10%
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nhóm nghiên cứu
4.2. Kiểm tra tính bền
Để kiểm tra tính bền, chúng tôi sử dụng S-GMM một bước để ước lượng lại phương trình
(1). Các kết quả tương ứng cho tất cả các mô hình được thể hiện trong Bảng 5. Nhất quán với các
ước lượng S-GMM hai bước trong Bảng 4, chúng tôi tìm thấy môi trường quản trị công làm giảm
đầu tư công. Tăng trưởng kinh tế làm tăng trong khi lạm phát và cơ sở hạ tầng làm giảm đầu tư
công mặc dù không có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, độ mở thương mại cũng là một yếu tố tác động
dương có ý nghĩa lên đầu tư công. Các phát hiện này được khẳng định bằng các kiểm định được
chỉ ra ở bên dưới Bảng 5, kiểm định Sargan tests và kiểm định Arellano-Bond AR(2), hàm ý rằng
các ước lượng S-GMM một bước đáng tin cậy.
Bảng 5
Quản trị công và đầu tư công: S-GMM một bước, 2002 - 2018
Biến phụ thuộc: Đầu tư công (%GDP)
Biến GO1 GO2 GO3 GO4 GO5 GO6
Đầu tư công (-1) 0.917***
(0.029)
0.926***
(0.029)
0.934***
(0.030)
0.907***
(0.027)
0.910***
(0.028)
0.898***
(0.025)
Quản trị công -0.525**
(0.209)
-0.592***
(0.229)
-0.509**
(0.251)
-0.372*
(.206)
-0.523***
(0.182)
-0.340**
(0.135)
Tăng trưởng kinh tế 0.0001
(0.0004)
0.0000
(0.0004)
0.0002
(0.0005)
0.0005
(0.0003)
0.0003
(0.0003)
0.0006**
(0.0003)
Độ mở thương mại 0.004**
(0.002)
0.003*
(0.002)
0.004*
(0.002)
0.004*
(0.002)
0.004**
(0.002)
0.003
(0.002)
Lạm phát -0.004
(0.009)
-0.005
(0.009)
-0.005
(0.009)
-0.005
(0.009)
-0.005
(0.009)
-0.002
(0.008)
Cơ sở hạ tầng -0.0004
(0.0007)
0.0002
(0.0009)
-0.001
(0.0008)
-0.0008
(0.0007)
-0.0007
(0.0007)
-0.001**
(0.0005)
Công cụ 34 35 36 35 35 36
Quốc gia/Quan sát 72/936 72/936 72/1008 72/936 72/936 72/1008
AR(2) test 0.504 0.499 0.490 0.506 0.522 0.492
Sargan test 0.136 0.445 0.141 0.104 0.102 0.238
Ghi chú: ***, ** và * ký hiệu lần lượt cho các mức ý nghĩa 1%, 5%, và 10%
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nhóm nghiên cứu
146 Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147
5. Kết luận và hàm ý chính sách
Xuất phát từ thực tiễn là môi trường quản trị công/thể chế có tác động nhất định lên đầu tư
công, bài viết đánh giá thực nghiệm tác động của môi trường quản trị công lên đầu tư công cho dữ
liệu bảng cân bằng của 72 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 2002 - 2018 bằng phương pháp
ước lượng GMM Arellano-Bond hệ thống một bước và hai bước. Kết quả cho thấy môi trường
quản trị công làm giảm đầu tư công ở các quốc gia đang phát triển, ủng hộ giả thuyết là các viên
chức chính phủ sử dụng đầu tư công như một phương tiện để trục lợi. Ngoài ra, tăng trưởng kinh
tế, lạm phát, và cơ sở hạ tầng cũng là các yếu tố quyết định có ý nghĩa của đầu tư công ở các quốc
gia này.
Các phát hiện trong nghiên cứu này đòi hỏi sự thận trọng trong quá trình thiết kế, ban hành
và thực thi các chính sách đầu tư công và các dự án công. Hàm ý là chính phủ các quốc gia đang
phát triển, trong đó có chính phủ Việt Nam, cần cải cách mạnh mẽ môi trường quản trị công để
tạo các điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy đầu tư công trong tương lai. Đặc biệt, quá trình cải
thiện môi trường quản trị công ở các quốc gia đang phát triển sẽ giúp loại trừ các lỗ hổng mà các
viên chức công và các nhóm lợi ích lợi dụng để trục lợi trong các dự án công. Quá trình cải thiện
và cải cách môi trường quản trị công liên tục sẽ giúp các quốc gia này trong tương lai sẽ chuyển
đổi từ môi trường thể chế kém (quản trị công dựa trên quan hệ) sang môi trường thể chế tốt (quản
trị công dựa trên luật lệ) và khi đó môi trường quản trị công sẽ thúc đẩy thay vì làm giảm đầu tư
công ở các quốc gia này.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên tài trợ kinh phí của Trường Đại học Tài chính
Marketing (UFM).
Tài liệu tham khảo
Acemoglu, D., Johnson, S., & Robinson, J. A. (2005). Institutions as a fundamental cause of long-
run growth. Handbook of Economic Growth, 1(A), 385-472.
Agyei, S. K. (2017). Explaining public investment dynamics in Sub-Saharan Africa: The role of
country governance structures. Cogent Economics & Finance, 5(1), Article 1323987.
doi:10.1080/23322039.2017.1323987
Arellano, M., & Bond, S. (1991). Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence
and an application to employment equations. The Review of Economic Studies Journal,
58(2), 277-297.
Arellano, M., & Bover, O. (1995). Another look at the instrumental variable estimation of error-
components models. Journal of Econometrics, 68(1), 29-51.
Baum, C. F., Schaffer, M. E., & Stillman, S. (2003). XTIVREG2: Stata module to perform
extended IV/2SLS, GMM AND AC/HAC, LIML and k-class regression for panel data
models. The Stata Journal, 3.
De la Croix, D., & Delavallade, C. (2009). Growth, public investment and corruption with failing
institutions. Economics of Governance, 10(3), 187-219.
Delavallade, C. (2006). Corruption and distribution of public spending in developing
countries. Journal of Economics and Finance, 30(2), 222-239.
Nguyễn V. Bổn, Trần T. M. Phước. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), 137-147 147
Duchin, R., & Sosyura, D. (2012). The politics of government investment. Journal of Financial
Economics, 106(1), 24-48.
Grigoli, F., & Mills, Z. (2014). Institutions and public investment: An empirical
analysis. Economics of Governance, 15(2), 131-153.
Gupta, S., Liu, E. X., & Mulas-Granados, C. (2016). Now or later? The political economy of public
investment in democracies. European Journal of Political Economy, 45, 101-114.
Gwatipedza, J., & Janus, T. (2019). Public investment under autocracy and social
unrest. Economics & Politics, 31(1), 112-135.
Haque, M. E., & Kneller, R. (2015). Why does public investment fail to raise economic growth?
The role of corruption. The Manchester School, 83(6), 623-651.
Haughwout, A. F. (2002). Public infrastructure investments, productivity and welfare in fixed
geographic areas. Journal of Public Economics, 83(3), 405-428.
Holtz-Eakin, D., Newey, W., & Rosen, H. S. (1988). Estimating vector autoregressions with panel
data. Econometrica: Journal of the Econometric Society, 56(6), 1371-1395.
Hope, K. R. (2009). Capacity development for good governance in developing countries: Some
lessons from the field. International Journal of Public Administration, 3(2), 728-740.
Jin, J., & Zou, H. F. (2005). Fiscal decentralization, revenue and expenditure assignments, and
growth in China. Journal of Asian Economics, 16(6), 1047-1064.
Judson, R. A., & Owen, A. L. (1999). Estimating dynamic panel data models: A guide for
macroeconomists. Economics Letters, 65(1), 9-15.
Kaufmann, D., Kraay, A., & Mastruzzi, M. (2011). The worldwide governance indicators:
Methodology and analytical issues. Hague Journal on the Rule of Law, 3(2), 220-246.
Li, S., & Filer, L. (2007). The effects of the governance environment on the choice of investment
mode and the strategic implications. Journal of World Business, 42(1), 80-98.
Li, S., Park, S. H., & Li, S. (2004). The great leap forward: The transition from relation-based
governance to rule-based governance. Organizational Dynamics, 33(1), 63-78.
North, D. (1990). Institutions, institutional change and economic performance (Political economy
of institutions and decisions). Cambridge, UK: Cambridge University Press.
Roodman, D. (2009). How to do xtabond2: An introduction to difference and system GMM in
Stata. The Stata Journal, 9(1), 86-136.
Tanzi, V., & Davoodi, H. (1998). Corruption, public investment, and growth. In The welfare state,
public investment, and growth (pp. 41-60). Tokyo, Japan: Springer.
World Bank. (2017). World development report 2017: Governance and the law. Washington, DC:
World Bank.
Xu, Y., & Yao, Y. (2015). Informal institutions, collective action, and public investment in rural
China. American Political Science Review, 109(2), 371-391.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_quan_tri_cong_len_dau_tu_cong_o_cac_quoc_gia_da.pdf