Tác dụng dự phòng buồn nôn và nôn của nhĩ châm bộ huyệt thần môn - vị - não trong điều trị ung thư phổi bằng hóa chất

Giảm buồn nôn và nôn là một trong những vấn đề khó khăn trong chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân ung thư điều trị hóa chất vì nôn không chỉ gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh mà còn dẫn đến tình trạng suy kiệt của người bệnh do không ăn uống được và mất điện giải do nôn. Tác động lên huyệt ở loa tai là phương pháp để chẩn đoán và điều trị bệnh dựa trên việc lập lại hoạt động bình thường của các rối loạn trong cơ thể thông qua kích thích các huyệt ở tai. Tác dụng điều trị bệnh được cho là do các tác động lên hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Đây là phương pháp gây ra các đáp ứng được cho là tác động lên các nhóm tế bào đa năng chứa thông tin của toàn bộ các cơ quan và tạo ra các đáp ứng lên từng cơ quan khác nhau của cơ thể thông qua thu thập thông tin thêm từ các tế bào vỏ não liên quan tới các phần của cơ thể. Do đó việc tác động lên các điểm phản ứng ở tai có thể làm giảm triệu chứng của các bệnh ở vị trí khác [9]. Kết quả này cũng bước đầu cho thấy nhĩ châm bộ huyệt thần môn - vị - não có tác dụng giảm tỉ lệ nôn, có xu hướng giảm mức độ nôn.

pdf10 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng dự phòng buồn nôn và nôn của nhĩ châm bộ huyệt thần môn - vị - não trong điều trị ung thư phổi bằng hóa chất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
100 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TÁC DỤNG DỰ PHÒNG BUỒN NÔN VÀ NÔN CỦA NHĨ CHÂM BỘ HUYỆT THẦN MÔN - VỊ - NÃO TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI BẰNG HÓA CHẤT Lê Thị Minh Phương1, Nguyễn Kim Cương1, Đỗ Thị Phương1, Nguyễn Song An2, Lương Thị Ngọc Yến3 1Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí 3Viện Y dược học dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh Buồn nôn và nôn là tác dụng phụ thường gặp ở bệnh nhân ung thư điều trị hóa chất. Nghiên cứu nhằm (1) Đánh giá tác dụng giảm nôn của bộ huyệt thần môn - vị - não trong điều trị ung thư phổi bằng hóa chất. (2) Đánh giá tác dụng giảm buồn nôn của nhĩ châm bộ huyệt thần môn - vị - não trong điều trị ung thư phổi bằng hóa chất. Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng, mù đơn trên 90 bệnh nhân ung thư phổi điều trị hóa chất bằng carboplastin hoặc ciplastin, được dự phòng nôn bằng phác đồ nền, trong đó 45 bệnh nhân được kết hợp dự phòng nôn bằng nhĩ châm bộ huyệt thần môn - vị - não và 45 bệnh nhân giả châm cứu. Kết quả cho thấy nhĩ châm bộ huyệt thần môn - vị - não có tác dụng giảm buồn nôn cấp tính (tỉ lệ buồn nôn ở nhóm nhĩ châm và đối chứng là 8,89% và 24,44%), nhưng chưa thấy tác dụng lên mức độ buồn nôn; giảm tỉ lệ nôn ở nhóm nhĩ châm (tỉ lệ nôn trước can thiệp và sau can thiệp 37,78% và 15,56%) với p > 0,05, nhưng chưa thấy tác dụng lên mức độ nôn (p < 0,05). Từ khóa: Nhĩ châm, buồn nôn, nôn do điều trị hóa chất, y học cổ truyền Địa chỉ liên hệ: Lê Thị Minh Phương, Khoa Y học cổ truyền, Trường Đại học Y Hà Nội Email: lethiminhphuong@hmu.edu.vn Ngày nhận: 10/6/2018 Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư phổi là sự tăng sinh ác tính của tế bào biểu mô phế quản, đây là bệnh lý ác tính có xu hướng ngày càng gia tăng. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, ung thư phổi chiếm 13% tổng số ca ung thư, khoảng 1,8 triệu người mắc mới mỗi năm [1; 2]. Hóa trị là phương pháp điều trị căn bản đối với ung thư phổi tuy nhiên phương pháp điều trị này có nhiều tác dụng phụ, trong đó buồn nôn và nôn là biến chứng nặng và thường gặp ở 70 – 80% các bệnh điều trị hóa chất [3]. Mặc dù hiện nay đã có nhiều thuốc chống nôn có hiệu quả tốt trong dự phòng và điều trị buồn nôn, nôn do điều trị hóa chất, tuy nhiên tỉ lệ bệnh nhân gặp tác dụng phụ này vẫn còn khá cao (40 - 50%), đòi hỏi cần kết hợp nhiều phương pháp trong điều trị và chăm sóc giảm nhẹ [4]. Nhiều nghiên cứu cho thấy các phương pháp điều trị không dùng thuốc của y học cổ truyền như châm cứu, điện châm, bấm huyệt, có hiệu quả giảm buồn nôn và nôn trong kết hợp điều trị dự phòng nôn ở bệnh nhân ung thư điều trị hóa chất [5 - 7]. Tuy nhiên, đa số các phương pháp này có nhiều bất tiện cho bệnh nhân, hoặc đòi hỏi có nhân viên y tế thường xuyên giám sát thực hiện. Nhĩ châm là một phương pháp điều trị thuận tiện, dễ thực hiện, được chỉ định trong điều trị các triệu chứng cơ năng như nôn, mất ngủ, đau đầu, mệt mỏi cũng như bệnh lý thực thể như thoái hóa khớp, đau thần kinh hông to, liệt nửa người [8; 9]. Một số nghiên cứu cho thấy nhĩ châm có tác dụng giảm đau, giảm stress [8]. Thử nghiệm lâm sàng trên 10 bệnh nhi ung thư điều trị hóa TCNCYH 113 (4) - 2018 101 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC chất, bước đầu cho thấy có tác dụng giảm buồn nôn và nôn [10]. Để có được bằng chứng đầy đủ hơn về tác dụng dự phòng nôn của điện châm trên bệnh nhân ung thư, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này tại khoa Ung bướu Bệnh viện Phổi Trung ương với mục tiêu: 1. Đánh giá tác dụng giảm buồn nôn của nhĩ châm bộ huyệt thần môn-vị-não trong điều trị ung thư phổi bằng hóa chất. 2. Đánh giá tác dụng giảm nôn của nhĩ châm bộ huyệt thần môn-vị-não trong điều trị ung thư phổi bằng hóa chất. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu Khoa Ung bướu – Bệnh viện Phổi Trung ương, từ tháng 6/2014 đến tháng 1/2017. 2. Đối tượng Bệnh nhân ung thư phế quản phổi được điều trị hóa chất. 2.1. Tiêu chuẩn thu nhận Bệnh nhân ung thư phổi phế quản có chỉ định điều trị hóa chất Carboplastin hoặc Ciplastin; Tuổi ≥ 18; Có buồn nôn trong lần điều trị hóa chất trước tham gia nghiên cứu; Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. 2.2. Tiêu chuẩn loại trừ Dị ứng với các thuốc chống nôn; Có bệnh lý da tại vị trí nhĩ châm; Có bệnh lý là nguyên nhân hoặc đang có tình trạng nôn, buồn nôn cấp tính và mạn tính; Tổn thương di căn não, màng não trên chụp cắt lớp vi tính sọ não, nghi ngờ trên lâm sàng (buồn nôn hoặc nôn do hội chứng tăng áp lực nội sọ hoặc hội chứng màng não); Bệnh nhân trong tình trạng đe dọa tính mạng: suy hô hấp, suy tuần hoàn. 3. Phương pháp 3.1. Thiết kế nghiên cứu - Thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên có đối chứng, mù đơn - Bệnh nhân được chọn lựa ngẫu nhiên vào các nhóm bằng bảng số. + Nhóm can thiệp: bệnh nhân ung thư phổi được dự phòng nôn theo phác đồ chuẩn và được gài kim tại các điểm thần môn, vị, não, ở cả hai bên tai trước truyền hóa chất. + Nhóm chứng: bệnh nhân ung thư phổi được dự phòng nôn theo phác đồ chuẩn và dán các điểm sau tai trước truyền hóa chất. 3.2. Công thức tính cỡ mẫu n = [(Zα/2 + Zβ) 2 × {(p1 (1-p1) + (p2 (1 - p2))}]/(p1 - p2)2 = 42 n = cỡ mẫu của mỗi nhóm; p1: Tỉ lệ nôn ở nhóm được dùng thuốc chống nôn (40%). p2: Tỉ lệ nôn ở nhóm được dùng thuốc chống nôn + nhĩ châm (14%). p1 - p2 = Giả định khác biệt giữa hai nhóm = 0,28. Zα/2: mức độ ý nghĩa thống kê, với 5% là 1,96; Zβ: độ mạnh, với 80% là 0,84. Cỡ mẫu nghiên cứu là 45 bệnh nhân cho mỗi nhóm. 3.3. Các kỹ thuật và nguyên liệu sử dụng trong nghiên cứu 3.3.1. Phác đồ điều trị hóa chất Cisplastin 75 - 100 mg/m2 da + Gemcitabine 1000 mg/m2 da. Carboplatin 300 - 450 mg/m2 da + Paclitaxel 170 - 175 mg/m2 da. 102 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 3.3.2. Phác đồ chống nôn - Chất đối kháng thụ thể 5 - HT3. Odansetron: 8 mg/4ml, tiêm tĩnh mạch trước khi truyền hóa chất 30 phút. Palononsetron: 0,25 mg/5ml, tiêm tĩnh mạch trước khi truyền hóa chất 30 phút. - Methyl prednisolon: 40mg x 2 lọ truyền tĩnh mạch trước truyền hóa chất 30 phút. - Thuốc Cimetidine: 20mg x 2ống tiêm tĩnh mạch trước truyền hóa chất. 3.3.3. Nhĩ châm - Kim nhĩ áp, vô khuẩn, dùng một lần, bằng thép không gỉ, dài 1,5 mm, đường kính 0,2 mm. Đóng vỉ vô khuẩn 100 cái/hộp. Bảo quản ở điều kiện thường. - Các vị trí nhĩ châm: Điểm thần môn: đỉnh hố tam giác, nơi gặp nhau của 2 chân gờ đối vành. Điểm vị: ở xoắn tai, sát đầu tận cùng của rễ gờ vành xe. Điểm não: giữa đối bình tai. Bệnh nhân được gài kim ở cả 2 bên tai. - Kim được lưu và bệnh nhân được hướng dẫn tự ấn vào các vị trí gài kim. Ngày đầu: bệnh nhân tự ấn vào các điểm gài kim sau mỗi 3 tiếng kể từ sau khi kết thúc truyền hóa chất. Ngày 2 và 3: bệnh nhân tự ấn vào các điểm gài kim vào các thời điểm trong ngày lúc 8h, 11h, 14h, 17h, 20h. - Quy trình dán các điểm sau tai ở nhóm đối chứng. Bệnh nhân được dán tại 3 vị trí trên đường song song và cách 1 cm với đường tiếp nối loa tai và da đầu (A). Điểm 1 là giao điểm của đường A với đường này qua góc nhĩ luân và đầu. Điểm 3 là giao điểm của đường A và đường ngang qua góc dái tai và da đầu Điểm 2 nằm giữ điểm 1 và 3. Bệnh nhân được dán các điểm trên ở cả hai bên tai. 4. Các biến số nghiên cứu 4.1. Đặc điểm chung bệnh nhân nghiên cứu Tuổi, giới, nghề nghiệp, giai đoạn bệnh, các thuốc dùng trong phác đồ điều trị hóa chất, số đợt điều trị hóa chất trước đây, tiền sử nôn và buồn nôn. 4.2. Các biến số đánh giá tác dụng dự phòng nôn Tỉ lệ bệnh nhân buồn nôn, thời gian buồn nôn, mức độ buồn nôn, tần suất buồn nôn trong ngày 1, 2, 3 sau truyền hóa chất, tần suất nôn trong ngày 1, 2, 3 sau truyền hóa chất. 5. Thu thập số liệu Số liệu được phân tích theo phương pháp thống kê y sinh học trên phần mềm thống kê SPSS 20.0. 6. Đạo đức trong nghiên cứu Nghiên cứu được xem xét và chấp thuận bởi hội đồng khoa học và y đức bệnh viện Phổi Trung ương. Kết quả nghiên cứu đã được thông qua theo quyết định số 1414/QĐ BVPTƯ ngày 02/12/2016. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu 1.1. Một số đặc điểm nhân khẩu – xã hội học Không có sự khác biệt về phân bố bệnh nhân theo tuổi, giới và nghề nghiệp của bệnh nhân nghiên cứu ở cả hai nhóm (p > 0,05). TCNCYH 113 (4) - 2018 103 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 1. Phân bố tuổi, giới, nghề nghiệp của bệnh nhân nghiên cứu 1.2. Một số đặc điểm bệnh lý và điều trị Bảng 2. Phân loại bệnh nhân theo một số đặc điểm bệnh lý và điều trị Chỉ số Đối chứng Nhĩ châm Cộng n = 45 % n = 45 % n = 90 % Giai đoạn ung thư phổi Giai đoạn 1 1 2,22 0 0 1 1,11 0,651 Giai đoạn 3 11 24,44 14 31,11 25 27,78 Giai đoạn 4 33 73,33 31 68,89 64 71,11 Hóa chất được sử dụng Carboplatin 40 88,89 39 86,67 79 87,78 0,748 Cisplastin 5 11,11 6 13,33 11 12,22 Thuốc chống nôn được sử dụng Odansetron (1) 32 68,89 35 77,78 67 73,34 0,767 Palonsetron (2) 8 17,78 6 13,33 14 15,56 (1) + (2) 5 11,11 4 8,89 9 10,00 p Đối chứng Nhĩ châm Cộng p n = 45 % n = 45 % n = 90 % Tuổi (năm) 18 - 39 2 4,44 3 6,67 5 5,56 0,920 40 - 49 9 20 8 17,78 17 18,89 50 - 59 17 37,78 19 42,22 36 40 > = 60 17 37,78 15 33,33 32 35,56 Giới tính Nam 39 86,67 37 82,22 76 84,44 0,561 Nữ 6 13,33 8 17,78 14 15,56 Nghề nghiệp Công nhân 3 6,67 4 8,89 7 7,78 0,790 Làm ruộng 16 35,56 17 37,78 33 36,67 Công chức 2 4,44 1 2,22 3 3,33 Hưu trí 11 24,44 14 31,11 25 27,78 Khác 14 28,89 9 20 23 24,45 Chỉ số 104 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Không có sự khác biệt về giai đoạn bệnh, hóa chất và thuốc chống nôn được sử dụng ở 2 nhóm (p > 0,05). Đa số ở giai đoạn 3 và 4 (98,89%) sử dụng Carboplatin (87,78%) và chống nôn bằng Odansetron (73,24%). 3.2. Tác dụng dự phòng buồn nôn, nôn do truyền hóa chất của nhĩ châm 3.2.1. Tác dụng giảm buồn nôn do truyền hóa chất 3.2.1.1. Tác dụng lên thời điểm buồn nôn Bảng 3. Tỉ lệ bệnh nhân buồn nôn tại các thời điểm Chỉ số Đối chứng Nhĩ châm p n % n % Ngay sau truyền hóa chất 11 24,44 4 8,89 0,048 Ngày 1 sau truyền hóa chất 15 33,33 12 26,67 0,490 Ngày 2 sau truyền hóa chất 21 46,67 19 42,22 1 Ngày 3 sau truyền hóa chất 21 46,67 15 33,33 0,280 p 0,180 0,004 Ngay sau truyền hóa chất tỉ lệ buồn nôn ở nhóm nhĩ châm (8,89%) thấp hơn nhóm đối chứng (24,44%) với p < 0,05. Ngày 1, 2, 3 sau truyền hóa chất, tỉ lệ này của 2 nhóm không có sự khác biệt (p > 0,05). Bảng 4. Thời gian xuất hiện buồn nôn sau truyền hóa chất Đối chứng Nhĩ châm p n ± SD(giờ) n ± SD(giờ) Thời gian xuất hiện 33 0,58 ± 0,90 27 24,75 ± 47,5 0,111 Thời điểm nặng nhất 33 8,80 ± 9,90 27 31,95 ± 35,06 0,049 Chỉ số Thời gian trung bình xuất hiện buồn nôn sau truyền hóa chất của 2 nhóm không có sự khác biệt (p > 0,05). Thời điểm buồn nôn nặng nhất của nhóm đối chứng sau truyền hóa chất sớm hơn nhóm nhĩ châm với p < 0,05. 3.2.1.2. Tác dụng lên mức độ buồn nôn X X TCNCYH 113 (4) - 2018 105 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Thời điểm Đối chứng Nhĩ châm p n % n % Ngày 1 Nhẹ 7 46,67 8 66,67 0,299 Trung bình 8 53,33 4 33,33 Ngày 2 Nhẹ 10 47,62 15 78,95 0,095 Trung bình 9 42,86 3 15,79 Nặng 2 9,52 1 5,26 Ngày 3 Nhẹ 11 62,39 11 73,34 0,529 Trung bình 7 33,33 3 20 Nặng 3 14,29 1 6,67 Mức độ buồn nôn 2 nhóm ngày 1, 2, 3 không khác biệt (p > 0,05). 3.2.2. Tác dụng giảm nôn 3.2.2.1. Tác dụng lên tỉ lệ nôn Bảng 6. Tỉ lệ bệnh nhân nôn do truyền hóa chất trước và sau can thiệp Chỉ số Đối chứng Nhĩ châm n = 45 % n = 45 % Trước can thiệp 11 24,44 17 37,78 0,172 Sau can thiệp 16 35,56 7 15,56 0,03 p 0,357 0,031 p Tỉ lệ nôn trước can thiệp của 2 nhóm tương đương nhau với p > 0,05. Sau can thiệp, tỉ lệ nôn của nhóm nhĩ châm thấp hơn so với nhóm đối chứng và trước can thiệp với p < 0,05. 3.2.2.2. Tác dụng lên thời điểm nôn Bảng 7. Tỉ lệ bệnh nhân nôn tại các thời điểm Đối chứng Nhĩ châm p (đc-nc) n = 45 % n = 45 % Ngay sau truyền hóa chất 7 15,56 1 2,22 0,026 Ngày thứ 1 sau THC 4 8,89 4 8,89 1 Ngày thứ 2 sau THC 9 20,00 4 8,89 0,134 Ngày thứ 3 sau THC 7 15,56 3 6,67 0,18 p 0,528 0,543 Chỉ số Bảng 5. Mức độ buồn nôn trung bình sau truyền hóa chất 106 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tỉ lệ bệnh nhân nôn ngay sau truyền hóa chất của nhóm nhĩ châm (2,22%) thấp hơn nhóm đối chứng (15,56%) (p < 0,05). Tỉ lệ nôn ở ngày thứ 1, 2, 3 sau truyền hóa chất ở 2 nhóm là tương đương nhau (p > 0,05). 3.2.2.3. Tác dụng lên mức độ nôn Bảng 9. Mức độ nôn trung bình sau truyền hóa chất Chỉ số Đối chứng Nhĩ châm p n % n % Ngày 1 Nhẹ 2 40 2 50 0,325 Trung bình 1 20 2 50 Nặng 2 40 0 Ngày 2 Nhẹ 1 11,11 1 25 1 Trung bình 6 66,67 2 50 Nặng 2 22,22 1 25 Ngày 3 Nhẹ 2 25 2 50 Trung bình 2 25 2 50 Nặng 4 50 0 0 0,223 Sự khác biệt mức độ nôn của 2 nhóm ở các thời điểm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). IV. BÀN LUẬN Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, mù đơn được thực hiện trên 90 bệnh nhân ung thư phổi điều trị hóa chất carboplastin hoặc ciplastin, được dự phòng nôn bằng phác đồ nền, trong đó 45 bệnh nhân được kết hợp dự phòng nôn bằng nhĩ châm bộ huyệt Não – Vị - Thần môn và 45 bệnh nhân giả châm cứu. Không có sự khác biệt về phân bố bệnh nhân theo tuổi, giới và nghề nghiệp, giai đoạn bệnh, hóa chất và thuốc chống nôn được sử dụng ở 2 nhóm. Đa số bệnh nhân ở độ tuổi 41 - 60 tuổi (58,89%) là nam giới (82,22%), làm nông nghiệp (36,67%), ở giai đoạn 3 và 4 (98,89%) sử dụng Carboplatin (87,78%) và chống nôn bằng Odansetron (73,24%). Buồn nôn và nôn là biến chứng nặng và thường gặp ở các bệnh điều trị hóa chất. Cảm giác buồn nôn gây khó chịu, mệt mỏi cho người bệnh, hạn chế người bệnh trong các sinh hoạt thường ngày [3]. Trong nghiên cứu này tỉ lệ buồn nôn của nhóm đối chứng và nhóm nhĩ châm tại các thời điểm ngay sau truyền hóa chất (24,44% và 8,89%), sau truyền hóa chất ngày thứ 1 (33,33% và 26,67%), ngày thứ 2 (42,22% và 42,22%) và ngày thứ 3 (44,44% và 33,33%), trong đó kết quả cho thấy tỉ lệ buồn nôn ngay sau truyền hóa chất của nhóm nhĩ châm thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng. Thời gian trung bình xuất hiện buồn nôn của nhóm đối chứng là khá sớm (0,58 ± 0,9 giờ) từ lúc TCNCYH 113 (4) - 2018 107 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC truyền hóa chất, trong khi thời gian này ở nhóm nhĩ châm là muộn hơn (24,75 ± 47,5 giờ), tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê. Đáng chú ý là thời điểm buồn nôn nặng nhất của nhóm nhĩ châm (31,95 ± 35,06 giờ) muộn hơn rõ rệt so với thời điểm này của nhóm chứng (8,8 ± 9,9 giờ). Về tác dụng lên mức độ buồn nôn, chưa thấy sự khác biệt về mức độ buồn nôn của 2 nhóm ở các thời điểm. Tác dụng giảm buồn nôn đặc biệt là buồn nôn cấp có vai trò quan trọng đối với bệnh nhân điều trị hóa chất vì trong 24 giờ đầu là thời gian bệnh nhân phải truyền hóa chất nằm tại chổ, có nhiều lo lắng, mệt mỏi. Việc giảm cảm giác buồn nôn trong thời gian này sẽ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Nôn là tác dụng không mong muốn do truyền hóa chất gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người bệnh cũng như việc sử dụng các thuốc điều trị bằng đường uống kèm theo [3]. Kết quả bảng 5 cho thấy tỉ lệ nôn của nhóm đối chứng (35,56%) trong lần truyền hóa chất này cao hơn nhóm nhĩ châm. Đáng chú ý tỉ lệ nôn của nhóm nhĩ châm trong lần truyền hóa chất này (15,56%) thấp hơn rõ rệt lần truyền hóa chất trước can thiệp (37,78%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cho thấy nhĩ châm bộ huyệt thần môn - vị - não có tác dụng giảm tỉ lệ nôn do truyền hóa chất. Về tác dụng lên thời điểm nôn, kết quả bảng 6 cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ nôn của các nhóm tại các thời điểm. Mặc dù nhĩ châm có tác dụng làm giảm buồn nôn cấp tính nhưng tác dụng lên thời điểm nôn lại không rõ ràng, điều này có thể do số lượng bệnh nhân có nôn trong nghiên cứu còn ít (16/45 của nhóm đối chứng và 7/45 của nhóm nhĩ châm) vì vậy cần tiếp tục đánh giá thêm với số lượng bệnh nhân có nôn lớn hơn ở cả 2 nhóm để thấy được tác dụng của nhĩ châm trên tỉ lệ nôn. Đánh giá chi tiết về mức độ nôn của bệnh nhân vào các thời điểm, kết quả bảng 7 cho thấy đa số bệnh nhân nghiên cứu có mức độ nôn nhẹ và trung bình phù hợp với kết quả đã phân tích ở trên, đa số bệnh nhân nghiên cứu được hóa chất có tác dụng phụ gây nôn nhẹ và trung bình là carboplatin [3]. Kết quả bảng 7 cũng cho thấy nhóm đối chứng có tỉ lệ nôn trung bình, và nặng vào ngày 1 sau truyền hóa chất (60%), ngày 2 (88,89%), ngày 3 (75%), có xu hướng cao hơn nhóm nhĩ châm với tỉ lệ tương ứng là 50%, 75% và 5%. Tuy nhiên, sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê. Giảm buồn nôn và nôn là một trong những vấn đề khó khăn trong chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân ung thư điều trị hóa chất vì nôn không chỉ gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh mà còn dẫn đến tình trạng suy kiệt của người bệnh do không ăn uống được và mất điện giải do nôn. Tác động lên huyệt ở loa tai là phương pháp để chẩn đoán và điều trị bệnh dựa trên việc lập lại hoạt động bình thường của các rối loạn trong cơ thể thông qua kích thích các huyệt ở tai. Tác dụng điều trị bệnh được cho là do các tác động lên hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Đây là phương pháp gây ra các đáp ứng được cho là tác động lên các nhóm tế bào đa năng chứa thông tin của toàn bộ các cơ quan và tạo ra các đáp ứng lên từng cơ quan khác nhau của cơ thể thông qua thu thập thông tin thêm từ các tế bào vỏ não liên quan tới các phần của cơ thể. Do đó việc tác động lên các điểm phản ứng ở tai có thể làm giảm triệu chứng của các bệnh ở vị trí khác [9]. Kết quả này cũng bước đầu cho thấy nhĩ 108 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC châm bộ huyệt thần môn - vị - não có tác dụng giảm tỉ lệ nôn, có xu hướng giảm mức độ nôn. V. KẾT LUẬN Nhĩ châm bộ huyệt thần môn - vị - não có tác dụng giảm tỉ lệ buồn nôn cấp tính nhưng chưa thấy tác dụng lên mức độ buồn nôn. Nhĩ châm bộ huyệt thần môn - vị - não có tác dụng giảm tỉ lệ nôn ở nhóm nhĩ châm nhưng chưa thấy tác dụng lên mức độ buồn nôn và mức độ nôn. Lời cảm ơn Xin trân trọng cảm ơn Bệnh viện Phổi Trung ương, Khoa Ung bướu - Bệnh viện Phổi Trung ương tạo điều kiện cho chúng tôi triển khai nghiên cứu này. Trân trọng cảm ơn sự hỗ trợ tài chính đối với nghiên cứu của Quỹ Học Mãi Việt Nam - Australia. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngô Thế Quân (2007). Phân loại mô bệnh học ung thư phế quản theo phân loại của Tổ chức y tế thế giới - 1999. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007, 11(3) Chuyên đề: Giải phẫu bệnh - Tế bào học, 47. 2. GLOBOCAN 2008 (IARC) (2008), Section of Cancer Information, accessed 24/5/2013). 3. Doranne L. Hilarius, Paul H. Kloeg, Elsken van der Wall et al (2012). Chemotherapy - induced nausea and vomiting in daily clinical practice: a community hospital- based study. Support Care Cancer, 20, 107 – 117. 4. Schmoll HJ, Aapro MS, Poli-Bigelli S et al (2006). Comparison of an aprepitant regimen with a multiple-day ondansetron regimen, both with dexamethasone, for antiemetic efficacy in high-dose cisplatin treatment. Ann Oncol 2006; 17,1000. 5. Dundee JW, McMillan CM (1990). Clinical uses of P6 acupuncture antiemesis. Acupuncture Electrotherapeutics and Research, 15(3-4), 211 - 215. 6. Ezzo J, Richardson MA, Vickers A et al (2011). Acupuncture-point stimulation for chemotherapy-induced nausea or vomiting (Review). The Cochrane Library, 3. 7. Pan XC, Morrison RS, Ness J, Fugh- Berman A, Leipzig RM (2000). Complementary and alternative medicine in the management of pain, dyspnea, and nausea and vomiting near the end of life: A systematic review. Journal of Pain and Symptom Management, 20(5), 374 - 87. 8. Trường Đại học Y Hà Nội (2005). “Châm ở vành tai”, Bài giảng Y học cổ truyền tập 2. Nhà xuất bản Y học, 469 - 466. 9. Luigi G, Fabio F (2007). Ear acupuncture in Euro traditional Medicine, eCAM 2007; 4(S1),13 - 16. 10. Yeh CH, Chien LC, Chiang YC et al (2012). Reduction in nausea and vomiting in children undergoing cancer chemotherapy by either appropriate or sham auricular acupuncture points with standard care. J Altern Complement Med, 18(4), 334 - 340. Summary EFFECTS OF AURICULAR ACUPUNCTURE ON CHEMOTHERAPY- INDUCED NAUSEA AND VOMITING IN LUNG CANCER Nausea and vomiting are the common complications of chemotherapy in lung cancer patients. The purposes of this research are (1) Evaluating the effects of auricular acupuncture on reduced TCNCYH 113 (4) - 2018 109 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC nausea in chemotherapy for lung cancer. (2) Evaluating the effects of auricular acupuncture on reduced vomiting in chemotherapy for lung cancer. In randomized, single blind, controlled clinical trials on 90 lung cancer patients treated with carboplastin or ciplastin, 45 subjects used auricular acupuncture in combination with the standard antiemetic regimen and 45 subjects used sham auricular acupuncture in combination with the standard antiemetic regimen. The results show that auricular acupuncture reduced the proportion of acute nausea (proportion of nausea in auricular acupuncture group and sham auricular acupuncture group were 8.89% and 24.44%) and reduced the proportion of vomiting in auricular acupuncture group (before and after intervention are 37.78% and 15.56%) with p > 0.05. We have not seen any effect of aricular acupuncture on the level of severity of nausea and vomiting (p < 0.05). Key words: auricular acupuncture, chemotherapy-induced nausea and vomiting, traditional medicine

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftac_dung_du_phong_buon_non_va_non_cua_nhi_cham_bo_huyet_than.pdf
Tài liệu liên quan