Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
tương đồng với nghiên cứu của Marashi
và CS [2] về tỷ lệ tụt huyết áp ở nhóm sử
dụng nước muối sinh lý cao hơn so với
nhóm sử dụng ondansetron. Marashi và
CS đã so sánh hai liều ondansetron tiêm
tĩnh mạch với giả dược về giảm biến chứng
tụt huyết áp sau GTTS trên 210 BN được
chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm 70 người.
Nhóm 1 được tiêm nước muối sinh lý,
nhóm 2 tiêm tĩnh mạch 6 mg ondansetron,
nhóm 3 tiêm tĩnh mạch 12 mg ondansetron.
Các tác giả ghi nhận 12 BN trong nhóm
nhận nước muối sinh lý bị tụt huyết áp và
không có BN nào trong nhóm ondansetron
bị tụt huyết áp (p = 0,04). Họ kết luận
rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm sử dụng ondansetron.
Điều này chứng tỏ tăng liều ondansetron
không làm tăng tác dụng dự phòng tụt
huyết áp và nhịp tim chậm. Vì vậy,
nghiên cứu của chúng tôi sử dụng liều
ondansetron là 4 mg, liều này tương đồng
với nhiều nghiên cứu của các tác giả khác
như Ayman A Shabana và CS [8], El Khouly
và CS [1], T Shahoo và CS [4].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cũng tương đồng với nghiên cứu của
KRaghu và CS [6] thực hiện trên 2 nhóm
BN (n = 110) GTTS với 15 mg bupivacain
ưu tỷ trọng 0,5%. Nhóm A được tiêm tĩnh
mạch 8 mg ondansetron ngay trước
GTTS, nhóm B được truyền nước muối
sinh lý cùng thời điểm. Các tác giả đã kết
luận rằng dùng ondansetron dự phòng có
hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ tụt huyết áp
sau GTTS. Tuy nhiên, đối tượng nghiên
cứu của chúng tôi là sản phụ trong khi
của các tác giả trên là những BN cao tuổi.
Tác dụng của ondansetron trong dự
phòng tụt huyết áp rất hữu ích đối với phụ
nữ mang thai, những đối tượng mà dùng
thuốc co mạch có thể có ảnh hưởng xấu
đến lưu lượng máu tử cung hoặc BN cao
tuổi không chịu được truyền dịch quá
nhiều (do các bệnh lý tim mạch).
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng dự phòng tụt huyết áp và nhịp tim chậm của Ondansetron sau gây tê tủy sống mổ lấy thai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
87
TÁC DỤNG DỰ PHÒNG TỤT HUYẾT ÁP VÀ NHỊP TIM CHẬM
CỦA ONDANSETRON SAU GÂY TÊ TỦY SỐNG MỔ LẤY THAI
Lê Tịnh1, Trần Đắc Tiệp1
Nguyễn Ngọc Thạch2, Mai Đức Hạnh1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng dự phòng hạ huyết áp và nhịp tim chậm của ondansetron
trong gây tê tủy sống (GTTS) mổ lấy thai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên, đối chứng, mù đôi được thực hiện ở 60 sản phụ chia thành 2 nhóm,
mỗi nhóm 30 sản phụ. 5 phút trước GTTS bằng hỗn hợp 7 mg bupivacain ưu tỷ trọng 0,5% với
20 mcg fentanyl, các sản phụ ở nhóm I (nhóm can thiệp) được tiêm tĩnh mạch chậm 4 mg
ondansetron pha loãng với nước cất thành 5 ml, trong khi ở nhóm II (nhóm chứng) được tiêm
tĩnh mạch 5 ml nước cất. Ngay sau khi gây tê xong, sản phụ được theo dõi tần số tim, huyết áp
không xâm nhập và SpO2 1 phút/lần cho đến 10 phút, sau đó 2 phút/lần cho đến khi kết thúc
phẫu thuật. Xử trí tụt huyết áp bằng ephedrin, xử trí mạch chậm bằng atropin. Kết quả: Tỷ lệ
sản phụ tụt huyết áp và nhịp tim chậm ở nhóm I (23,3% và 6,7%) thấp hơn có ý nghĩa thống kê
so với nhóm II (53,3% và 33,3%) với p < 0,05. Liều lượng ephedrin và atropin sử dụng trong
mổ ở nhóm I (0 mg và 0 mg) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm II (12 mg và 0,5 mg)
với p < 0,05. Kết luận: Qua nghiên cứu 30 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai dưới GTTS được
tiêm tĩnh mạch 4 mg ondansetron 5 phút trước GTTS, kết quả cho thấy giảm tỷ lệ tụt huyết áp,
nhịp tim chậm và liều lượng ephedrin và atropine sử dụng trong phẫu thuật.
* Từ khóa: Ondansetron; Tụt huyết áp; Nhịp tim chậm; Gây tê tủy sống; Mổ lấy thai.
Efficacy of Ondansetron in Prevention of Spinal Anesthesia
Induced-Hypotension and Bradycardia During Cesarean Section
Summary
Objectives: To evaluate the effect of ondansetron in prevention of spinal anesthesia-
induced hypotension and bradycardia during cesarean section. Subjects and methods:
A randomized, controlled, double-blind clinical trial was conducted in sixty parturients indicated
for cesarean section under spinal anesthesia. These subjects were divided into two groups,
30 parturients in each group. Five minutes before spinal anesthesia with mixture of 7 mg
hyperbaric bupivacain 0.5% and 20 mcg fentanyl (group I: intervention group) received
intravenous ondansetron 4 mg which was diluted in 3 mL of normal saline and group II
(control group) received 5mL of normal saline. Heart rate, blood pressure and SpO2 were
monitored at 1-min intervals up to 10 min, followed by 2-min intervals until the end of surgery.
1Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y
2Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác
Người phản hồi: Lê Tịnh (letinhgmhs@gmail.com)
Ngày nhận bài: 10/8/2020
Ngày bài báo được đăng: 17/9/2020
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
88
Results: The proportion of parturients with hypotension and bradycardia in the group I (23.3%
and 6.7%) was statistically significantly lower than in the group II (53.3% and 33,3%) (p < 0.05).
The dose of ephedrine and atropine used in the surgery in the group I (0 mg and 0 mg) was
statistically significantly lower than in the group II (12 mg and 0.5 mg) (p < 0.05). Conclusions:
The study on 30 parturients indicated cesarean section under spinal anesthesia who received
intravenous 4 mg ondansetron 5 mins before spinal anesthesia, the results showed a reduction
in the rate of hypotension, heart rate, and the dose of ephedrine and atropine used in the surgery.
* Keywords: Ondansetron; Hypotension; Bradycardia; Spinal anesthesia; Ceserean section.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gây tê tủy sống là phương pháp vô
cảm phổ biến trong mổ lấy thai, tác dụng
không mong muốn thường gặp như hạ
huyết áp, nhịp tim chậm ở sản phụ gây
ảnh hưởng đến cả mẹ và con. Mặc dù đã
có nhiều biện pháp dự phòng hạ huyết
áp, nhịp tim chậm được đề xuất nhưng tỷ
lệ hạ huyết áp có thể gặp tới 50% - 60%
[7]. Giảm sức cản mạch máu do ức chế
thần kinh giao cảm là nguyên nhân chính
của tụt huyết áp. Cường phó giao cảm
tương đối, kích hoạt phản xạ Bezold
Jarisch (BJR) và tăng hoạt động của thụ
thể áp lực có thể dẫn đến nhịp tim chậm
và tụt huyết áp ở một mức độ nào đó.
Các thụ thể chịu trách nhiệm cho BJR là
thụ thể cơ học nằm trong thành tim tham
gia vào các đáp ứng hệ thống đối với tình
trạng tăng và giảm thể tích tuần hoàn.
Chúng cũng bao gồm các thụ thể hóa học
nhạy cảm với serotonin (thụ thể 5-HT3)
[10]. Gần đây, nhiều nghiên cứu chỉ ra
rằng ondansetron, một thuốc chống nôn
thường dùng và cũng là chất đối kháng
serotonin đã được sử dụng một cách an
toàn để làm giảm phản xạ Bezold-Jarisch,
kết quả là làm giảm các biến chứng nhịp
tim chậm và tụt huyết áp sau GTTS [1, 3,
4, 5]. Hiện nay, chưa có công bố nào
trong nước về lĩnh vực này, do đó, chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm:
Đánh giá tác dụng dự phòng hạ huyết áp
và nhịp tim chậm của ondansetron do
GTTS mổ lấy thai.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
60 sản phụ ASAI - II, tuổi từ 18 - 40,
tuổi thai 38 - 41 tuần, mổ lấy thai dưới
GTTS tại Khoa Gây mê, Bệnh viện Quân
y 103 từ tháng 1 đến tháng 8 - 2020.
2. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Phương pháp
tiến cứu, ngẫu nhiên, có so sánh.
* Tiêu chuẩn lựa chọn: Sản phụ có
điểm ASA độ I - II, độ tuổi từ 18 - 40, thai
đủ tháng 38 - 41 tuần và có chỉ định mổ
lấy thai.
* Tiêu chuẩn loại trừ: Sản phụ không
đồng ý tham gia nghiên cứu, có chống chỉ
định GTTS, nhịp tim nền < 60 chu
kỳ/phút, mổ lấy thai khẩn cấp (sa dây rau,
tổn thương thai nhi nặng), nguy cơ xuất
huyết nghiêm trọng, giảm thể tích tuần
hoàn (rau bong non, rau tiền đạo, rau cài
răng lược, nguy cơ vỡ tử cung hoặc vỡ
tử cung), tiền sản giật nặng hoặc sản giật,
hội chứng HELLP.
* Các bước tiến hành:
- Tại phòng mổ, sản phụ được lắp đặt
theo dõi các các chỉ số sinh tồn điện tim,
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
89
mạch, huyết áp, SpO2. Sản phụ được thở
oxy qua mũi 3 lít/phút và đặt kim luồn 18G
truyền dịch. 60 sản phụ được chia thành
hai nhóm, mỗi nhóm có 30 sản phụ. 5
phút trước GTTS, sản phụ ở nhóm I
(nhóm can thiệp) được tiêm tĩnh mạch
chậm 4 mg ondansetron pha loãng với
nước cất thành 5 ml, nhóm II (nhóm
chứng) được tiêm tĩnh mạch 5 ml nước
cất. Các sản phụ đủ điều kiện được phân
chia ngẫu nhiên thành hai nhóm bằng
cách sử dụng các số ngẫu nhiên trên máy
tính, mỗi nhóm bao gồm 30 sản phụ. Các
sản phụ trong nhóm chứng (nhóm II)
được tiêm 5 ml nước muối sinh lý trong
khi nhóm I được tiêm 4 mg ondansetron
pha loãng trong nước muối sinh lý với
cùng một thể tích. Bơm tiêm giả dược và
ống tiêm ondansetron đều là bơm tiêm 5
ml (nước muối sinh lý và ondansetron
pha loãng trong nước muối sinh lý) đều
trong và có thể tích tương tự nhau. Dung
dịch trong bơm tiêm được tiêm 5 phút
trước khi tiến hành GTTS. Người gây tê
không biết nội dung trong bơm tiêm. Kỹ
thuật viên gây mê, người không tham gia
nghiên cứu và thu thập số liệu chuẩn bị
bơm tiêm và biết thành phần của nó.
- Gây tê tủy sống theo quy trình của
Bộ Y tế: Sản phụ nằm nghiêng trái, kim
GTTS 27G, vị trí chọc kim tại khe L2-3,
khi dịch não tủy chảy tự do qua kim, tiêm
hỗn hợp 7 mg bupivacain tỷ trọng cao
0,5% với 20 mcg fentanyl trong 30 giây
vào khoang dưới nhện.
- Sau gây tê, sản phụ nằm ngửa trên
bàn mổ, theo dõi nhịp tim, huyết áp và
SpO21 phút/lần cho đến 10 phút, sau đó
2 phút/lần cho đến khi kết thúc phẫu
thuật và đánh giá mất cảm giác đau bằng
nghiệm pháp châm kim cứ mỗi 2 phút
trong 10 phút.
* Các chỉ tiêu nghiên cứu: Tuổi sản
phụ, chiều cao, cân nặng, ASA, số lần
sinh, huyết áp trung bình, nhịp tim, liều
ephedrin và atropin đã dùng trong mổ.
* Xử trí khi tụt huyết áp, mạch chậm:
- Tụt huyết áp khi huyêt áp giảm ≥ 20%
giá trị huyết áp nền hoặc huyết áp tâm thu
< 90 mmHg. Điều trị bằng truyền nhanh
dung dịch Hesteril 6% và tiêm tĩnh mạch
ephedrin 6 mg/lần. Nếu huyết áp không
tăng lên mức ban đầu, tiêm lặp lại liều
này mỗi một phút cho đến khi có hiệu
quả. Nếu huyết áp vẫn không cải thiện
sau 5 lần tiêm ephedrin, kết hợp với truyền
nhanh dung dịch Hesteril 6%, đẩy tử cung
sang trái và lấy thai nhanh. Nếu huyết áp
không nâng lên được bằng các phương
pháp trên, truyền tĩnh mạch noradrenalin
0,05 mcg/kg/phút và điều chỉnh tốc độ
truyền theo huyết áp của sản phụ.
- Nhịp tim chậm khi nhịp tim giảm > 30%
giá trị nền hoặc giảm < 60 chu kỳ/phút,
điều trị bằng tiêm tĩnh mạch atropin 0,5 mg.
Nếu nhịp tim không tăng lên, tiêm lặp lại
liều này sau 1 phút, liều tối đa là 2 mg.
* Thời điểm thu thập số liệu: Ngay
trước khi gây tê, các phút thứ 1, 2, 3, 4, 5,
6, 7, 8, 9, 10, 12, 15, 20, 30, 40, 50, 60 và
giờ thứ 3, 6 12, 24 sau GTTS.
* Xử lý số liệu:
- Các số liệu thu thập được nhập và
xử lý theo phương pháp thống kê y học
bằng phần mềm SPSS 20.0. Số liệu được
biểu diễn dưới dạng ± SD, lớn nhất,
nhỏ nhất, trung vị, Q1, Q3, tần suất, tỷ lệ %.
Sự khác biệt được xem có ý nghĩa thống
kê với p < 0,05.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
90
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
1. Đặc điểm chung của sản phụ
Bảng 1: Đặc điểm chung của sản phụ.
Chỉ tiêu Nhóm I (n = 30) Nhóm II (n = 30) p
± SD 30,1 ± 4,40 28,73 ± 4,21
Tuổi sản phụ
Nhỏ nhất - lớn nhất 23 - 39 20 - 37
> 0,05
Trung vị 155,5 155
Chiều cao (cm)
Q1 - Q3 152 -159,3 152,75 - 160
> 0,05
± SD 66,33 ± 6,38 67,37 ± 8,03
Cân nặng (kg)
Nhỏ nhất - lớn nhất 53 - 78 51 - 85
> 0,05
Độ I 29 (96,7) 28 (93,3) ASA
(n, %) Độ II 1 (3,3) 2 (6,7)
> 0,05
Con so 13 (43,3) 13 (43,3) Số lần sinh
(n, %) Con rạ 17 (56,7) 17 (56,7)
> 0,05
Các đặc điểm về tuổi, chiều cao, cân nặng, số lần sinh và ASA của 2 nhóm nghiên
cứu khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
2. Sự thay đổi về nhịp tim
Biểu đồ 1: Thay đổi nhịp tim.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
91
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về giá trị trung bình của
nhịp tim trước gây tê, thời điểm phút thứ nhất, phút thứ 2 và từ phút thứ 4sau gây tê
cho đến khi kết thúc phẫu thuật. Nhưng ở phút thứ 3 sau GTTS, nhịp tim của nhóm I
cao hơn nhóm II có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
3. Sự thay đổi về huyết áp trung bình
Biểu đồ 2: Thay đổi huyết áp trung bình.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về huyết áp trung bình
trước gây tê và tại các thời điểm 1, 4, 6, 8, 9, 20, 30, 40, 50, 60 phút và 3, 6, 12 giờ và
24 giờ sau gây tê (p > 0,05). Tuy nhiên, huyết áp trung bình của nhóm I cao hơn có ý
nghĩa thống kê so với nhóm II ở các phút thứ 2, 3, 5 ,7, 10, 12 và 15 sau GTTS (p < 0,05).
4. Tỷ lệ tụt huyết áp và nhịp tim chậm
Bảng 2: Tỷ lệ tụt huyết áp và nhịp tim chậm.
Nhóm I
(n = 30)
Nhóm II
(n = 30) Tác dụng
không mong muốn
n % n %
p
Tụt huyết áp 7 23,3 16 53,3 < 0,05
Nhịp tim chậm 2 6,7 10 33,3 < 0,05
Tỷ lệ sản phụ tụt huyết áp và nhịp tim chậm ở nhóm I (23,3% và 6,7%) thấp hơn có
ý nghĩa thống kê so với nhóm II (53,3% và 33,3%) với p < 0,05.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
92
5. Liều lượng ephedrin, atropin lượng dịch voluven và natri clorid 0,9% sử
dụng trong phẫu thuật
Bảng 3: Liều lượng ephedrin, atropin lượng dịch voluven và natri clorid 0,9% sử
dụng trong phẫu thuật.
Nhóm I
(n = 30)
Nhóm II
(n = 30) p
Median 0 12 Liều lượng ephedrin đã sử
dụng (mg) Q1 - Q3 0 - 1,5 0 - 19,5
< 0,05
Median 0 0,5 Liều lượng atropin đã sử
dụng (mg) Q1 - Q3 0 - 0,5 0 - 0,5
< 0,05
Median 500 500
Voluven (ml)
Q1 - Q3 (500 - 500) (500 - 700)
< 0,05
Median 800 1.000 Natri clorid 0,9% (ml)
Q1 - Q3 (800 - 900) (800 -1.00)
< 0,05
Liều lượng ephedrin và atropin sử
dụng trong mổ ở nhóm I (0 mg và 0 mg)
thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm II (12 mg và 0,5 mg) với p < 0,05.
Lượng dịch truyền voluven và natri
clorid sử dụng trong mổ ở nhóm I (500 ml
và 800 ml) thấp hơn có ý nghĩa thống kê
so với nhóm II (500 ml và 1.000 ml) với
p < 0,05.
Cơ chế của ondansetron trong việc
ngăn ngừa tụt huyết áp sau GTTS (PSH)
được thực hiện qua trung gian ức chế
phản xạ Bezold-Jarisch (BJR). Phản xạ
này được thực hiện thông qua dây thần
kinh hướng tâm phó giao cảm. Khi phản
xạ này được kích hoạt sẽ gây tụt huyết áp
và nhịp tim chậm. Kích hoạt các thụ thể
hóa học nhạy cảm với serotonin ở thành
nội tâm mạc có thể xảy ra do giảm thể
tích máu, có thể dẫn đến tăng hoạt động
của dây thần kinh phế vị, sau đó là nhịp tim
chậm và giãn mạch [9]. Một số nghiên cứu
đã thử nghiệm sử dụng ondansetron để
dự phòng tụt huyết áp sau GTTS (PSH) [3,
4, 6, 8].
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỷ
lệ tụt huyết áp ở nhóm chứng (53,3%)
cao hơn so với nhóm dùng ondansetron
(3,3%) có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Nhu cầu ephedrin ở nhóm chứng cao hơn
so với nhóm ondansetron có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ nhịp tim
chậm cũng cao hơn ở nhóm chứng (33,3%)
so với nhóm ondansetron (6,7%) có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05. Kết quả tỷ lệ tụt
huyết áp và nhịp tim chậm ở nhóm chứng
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm
sử dụng ondansetron được thể hiện rõ
hơn khi ở nhóm này liều thuốc ephedrin,
atropin cao hơn có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05) so với nhóm dùng ondansetron.
Kết quả nghiên cứu tương tự T. Sahoo
và CS [4] khi thực hiện nghiên cứu trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
93
52 sản phụ mổ lấy thai được GTTS với
liều 10 mg bupivacain ưu tỷ trọng 0,5%,
nhóm nghiên cứu dùng liều 4 mg
ondansetron 5 phút trước GTTS ở 26 sản
phụ (nhóm O) so sánh với 26 sản phụ
tiêm tĩnh mạch nước muối sinh lý (nhóm
S) cho kết quả sản phụ nhóm O (tụt huyết
áp 7,7%) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so
với nhóm S (tụt huyết áp 42,3%) (p =
0,009). Tác giả đưa ra kết luận tiêm tĩnh
mạch 4 mg ondansetron 5 phút trước
GTTS có hiệu quả giảm tỷ lệ tụt huyết áp.
Nhưng tỷ lệ tụt huyết áp trong nghiên cứu
của T Sahoo thấp hơn nghiên cứu của
chúng tôi có thể vì họ gây tê mức L3-4
hoặc L4-5 và truyền cho tất cả sản phụ 20
ml/kg/h ringer lactat trong 30 phút trước
khi gây tê. Trong nghiên cứu của mình, T
Sahoo nhận thấy tỷ lệ nhịp tim chậm
nhóm O (0%) khác biệt không có ý nghĩa
thống kê so với nhóm S (7,7%) (p = 0,49).
Khác với nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ
nhịp tim chậm nhóm O (6,7%) thấp hơn
có ý nghĩa thống kê so với nhóm S
(33,3%) (p < 0,05). Sự khác biệt này có
thể do nghiên cứu của chúng tôi thực
hiện gây tê mức L2-3, trong khi đó T Sahoo
và CS tiến hành gây tê mức L3-4 hoặc L4-
5. Mặc khác, chúng tôi định nghĩa nhịp tim
chậm là < 60 nhịp/phút trong khi T Sahoo
và CS xác định nhịp tim chậm là < 50
nhịp/phút. Những khác biệt này làm cho
tỷ lệ nhịp tim chậm trong cả 2 nhóm
nghiên cứu của họ thấp hơn đáng kể so
với nghiên cứu của chúng tôi. Họ kết luận
tỷ lệ nhịp tim chậm giữa hai nhóm nghiên
cứu khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05) có thể do kích thước mẫu nhỏ
của nghiên cứu này và tỷ lệ BN bị nhịp
tim chậm thấp, nên không thể đánh giá
tác động của ondansetron đối với biến
chứng chậm nhịp tim. Tuy nhiên, trong
nghiên cứu của mình T Sahoo và CS
cũng thấy có kết quả nhịp tim trung bình
của nhóm O cao hơn nhóm S có ý nghĩa
thống kê ở phút thứ 24 và 45 sau gây tê
(p < 0,05). Liều ondansetron trong ngiên
cứu của chúng tôi tương tự T Sahoo và
CS và đều có hiệu quả giảm tỷ lệ tụt
huyết áp và nhịp tim chậm ở sản phụ
nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của
Marashi [2] và K Raghu [6].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
tương đồng với nghiên cứu của Marashi
và CS [2] về tỷ lệ tụt huyết áp ở nhóm sử
dụng nước muối sinh lý cao hơn so với
nhóm sử dụng ondansetron. Marashi và
CS đã so sánh hai liều ondansetron tiêm
tĩnh mạch với giả dược về giảm biến chứng
tụt huyết áp sau GTTS trên 210 BN được
chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm 70 người.
Nhóm 1 được tiêm nước muối sinh lý,
nhóm 2 tiêm tĩnh mạch 6 mg ondansetron,
nhóm 3 tiêm tĩnh mạch 12 mg ondansetron.
Các tác giả ghi nhận 12 BN trong nhóm
nhận nước muối sinh lý bị tụt huyết áp và
không có BN nào trong nhóm ondansetron
bị tụt huyết áp (p = 0,04). Họ kết luận
rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm sử dụng ondansetron.
Điều này chứng tỏ tăng liều ondansetron
không làm tăng tác dụng dự phòng tụt
huyết áp và nhịp tim chậm. Vì vậy,
nghiên cứu của chúng tôi sử dụng liều
ondansetron là 4 mg, liều này tương đồng
với nhiều nghiên cứu của các tác giả khác
như Ayman A Shabana và CS [8], El Khouly
và CS [1], T Shahoo và CS [4].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cũng tương đồng với nghiên cứu của
KRaghu và CS [6] thực hiện trên 2 nhóm
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
94
BN (n = 110) GTTS với 15 mg bupivacain
ưu tỷ trọng 0,5%. Nhóm A được tiêm tĩnh
mạch 8 mg ondansetron ngay trước
GTTS, nhóm B được truyền nước muối
sinh lý cùng thời điểm. Các tác giả đã kết
luận rằng dùng ondansetron dự phòng có
hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ tụt huyết áp
sau GTTS. Tuy nhiên, đối tượng nghiên
cứu của chúng tôi là sản phụ trong khi
của các tác giả trên là những BN cao tuổi.
Tác dụng của ondansetron trong dự
phòng tụt huyết áp rất hữu ích đối với phụ
nữ mang thai, những đối tượng mà dùng
thuốc co mạch có thể có ảnh hưởng xấu
đến lưu lượng máu tử cung hoặc BN cao
tuổi không chịu được truyền dịch quá
nhiều (do các bệnh lý tim mạch).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 30 sản phụ mổ lấy
thai được tiêm tĩnh mạch 4 mg
ondansetron 5 phút trước GTTS cho thấy
ondansetron liều 4 mg có tác dụng giảm
tỷ lệ tụt huyết áp, nhịp tim chậm, giảm liều
lượng ephedrin và atropin sử dụng trong
phẫu thuật mổ lấy thai dưới GTTS.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NIEl Khouly, AM Meligy. Randomized
controlled trial comparing ondansetron and
placebo for the reduction of spinal anesthesia-
induced hypotension during elective cesarean
delivery in Egypt. Int J Gynaecol Obstet 2016;
135(2):205-209.
2. Marashi SM, et al. Comparing two
different doses of intravenous ondansetron
with placebo on attenuation of spinal-induced
hypotension and shivering. Anesth Pain Med
2014; 4(2):e12055.
3. R Owczuk, et al. Ondansetron given
intravenously attenuates arterial blood
pressure drop due to spinal anesthesia: A
double-blind, placebo-controlled study, Reg
Anesth Pain Med 2008; 33(4):332-329.
4. T Sahoo, et al. Reduction in spinal-
induced hypotension with ondansetron in
parturients undergoing caesarean section: A
double-blind randomised, placebo-controlled
study. Int J Obstet Anesth 2012; 21(1):24-28.
5. Q Wang, et al. Ondansetron preloading
with crystalloid infusion reduces maternal
hypotension during cesarean delivery. Am J
Perinatol 2014; 31(10):913-922.
6. K Raghu, et al. Effect of ondansetron in
the prevention of spinal anesthesia-induced
hypotension. Journal of the Scientific Society
2018; 45(3):125-128.
7. Russell IF. Levels of anaesthesia and
intraoperative pain at caesarean section
under regional block. Int J Obstet Anesth
1995:71-77.
8. Ayman Shabana, et al. Effect of
ondansetron on hypotension and bradycardia
associated with spinal anesthesia during
cesarean section. Menoufia Medical Journal
2018; 31(1):12-17.
9. Warltier DC, Campagna JA, Carter C.
Clinical relevance of the Bezold-Jarisch reflex.
Anesthesiology 2003; 98:1250-1260.
10. Aviado DM, Guevara Aviado D. The
Bezold-Jarisch reflex. A historical perspective
of cardiopulmonary reflexes. Ann N Y Acad
Sci 2001; 940:48-58.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tac_dung_du_phong_tut_huyet_ap_va_nhip_tim_cham_cua_ondanset.pdf