Thứ tư, hoàn thiện các chính sách thực hiện mô hình phát
triển bao trùm nhằm tăng cường tác động của tái cơ cấu ngành
kinh tế:
Theo yêu cầu của mô hình tăng trưởng bao trùm, các chính
sách cần được hoàn thiện theo 2 hướng: (i) Làm cho tất cả mọi
tầng lớp dân cư (giàu và nghèo, vùng động lực hay chậm phát
triển) đều được thỏa sức tham gia vào công cuộc tăng trưởng kinh
tế để hưởng lợi trực tiếp từ thành quả tăng trưởng; (ii) Thực hiện
kịp thời việc phân phối lại thành quả tăng trưởng giữa các tầng
lớp dân cư, giữa các địa phương để tạo ra một động thái tích cực
và công bằng về tiến bộ xã hội cho con người. Theo định hướng
này, cần chú ý đến: Một số chính sách nhằm tạo bình đẳng về cơ
hội tham gia vào quá trình tăng trưởng kinh tế cho mọi người: (i)
Phát triển mạnh hệ thống kết cấu hạ tầng kết nối, nhất là hệ thống
giao thông và hệ thống thông tin các vùng động lực thu hút đầu
tư với các vùng sâu vùng xa - nơi cung cấp nguồn lao động, xoá
bỏ “thế cô lập“ cho các vùng chậm phát triển; (ii) Giảm bớt tính
chất bất hợp lý đang hạn chế di cư (chính sách quản lý hộ khẩu,
công nhận quyền sử dụng đất và quyền tiếp cận các dịch vụ xã
hội của lao động di cư ); (iii) Tăng cường cung cấp các dịch vụ
giáo dục, sức khỏe và xã hội tại các vùng sâu, vùng xa để họ có
đủ điều kiện về kiến thức hay tay nghề cụ thể để tham gia trực
tiếp trong việc tạo thu nhập. Một số chính sách đảm bảo sự công
bằng trong thụ hưởng các thành quả do tăng trưởng mang lại:
trong giai đoạn này cần đổi mới các chính sách lao động - xã hội,
đặc biệt là chính sách dành cho người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số, các đối tượng dễ bị tổn thương (người già, người tàn tật,
phụ nữ, trẻ em ); phát triển mạng lưới an sinh xã hội (bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp thất nghiệp ) nhằm đảm bảo hỗ
trợ đúng đối tượng một cách công bằng; ưu tiên đầu tư công cho
khu vực nông thôn, đặc biệt là vùng đói nghèo để tạo điều kiện
bổ sung, hỗ trợ cho nguồn vốn tư nhân do lao động di cư chuyển
về phát triển tạo việc làm.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tái cơ cấu ngành kinh tế theo quan điểm phát triển bền vững: Định hướng và các giải pháp đến 2020 và những năm tiếp theo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8761(11) 11.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Những căn cứ đề xuất định hướng
Lý luận về tái cơ cấu ngành kinh tế gắn với phát triển bền
vững
Về nguyên lý, theo quan điểm của kinh tế học phát triển, cơ
cấu ngành kinh tế phản ánh bản chất của phát triển. Một nền kinh
tế phát triển bền vững, bên cạnh việc đạt được tốc độ tăng trưởng
nhanh và hiệu quả, thì cơ cấu ngành kinh tế phải chuyển dịch theo
xu hướng bền vững. Tính bền vững của cơ cấu ngành kinh tế thể
hiện ở xu hướng chuyển dịch và trạng thái của cơ cấu phải bảo đảm
những yêu cầu sau:
Thứ nhất, chuyển dịch đúng (phù hợp) với xu thế phát triển và
với tốc độ nhanh. Điều đó thể hiện ở: (i) Tỷ trọng GDP ngành nông
nghiệp giảm đi, ngành phi nông nghiệp tăng lên; (ii) Tỷ trọng các
ngành dịch vụ tăng lên và ngành sản xuất giảm đi. Thứ hai, các
ngành có giá trị gia tăng cao phải ngày càng chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu GDP. Các ngành có giá trị gia tăng cao bao gồm: (i)
Các ngành sản phẩm có tỷ trọng giá trị gia tăng so với tổng giá trị
sản xuất cao, thường là những ngành sản phẩm trải qua giai đoạn
chế biến sâu, sử dụng công nghệ cao; (ii) Các ngành sản phẩm đã
được sản xuất trên quy mô lớn, đóng góp ngày càng cao vào tổng
giá trị gia tăng của nền kinh tế và đang có khả năng tiếp tục được
mở rộng. Thứ ba, tỷ trọng các ngành kinh tế thân thiện môi trường
và ứng phó được với biến đổi khí hậu ngày càng chiếm tỷ trọng
cao trong cơ cấu ngành kinh tế. Yêu cầu này đòi hỏi phát triển
mạnh các ngành sản xuất sản phẩm với quy trình công nghệ sạch,
sử dụng thiết bị tiêu hao ít năng lượng, ít gây ô nhiễm môi trường
và thích ứng với biến đổi khí hậu có thể gặp phải. Thứ tư, tốc độ
chuyển dịch ngành cơ cấu GDP phải đồng bộ và phù hợp với cơ
cấu lao động. Nguyên tắc này đòi hỏi tốc độ chuyển dịch cơ cấu
lao động, cơ cấu vốn đầu tư không được nhanh hơn tốc độ chuyển
dịch cơ cấu theo GDP.
Về phương pháp luận, việc đánh giá kết quả tái cơ cấu ngành
có đảm bảo được các yêu cầu nêu trên được xem xét theo 2 góc độ
là xu hướng và tốc độ chuyển dịch.
Xem xét xu hướng tái cơ cấu, bao gồm: (i) Sự thay đổi tỷ trọng
các ngành phân chia theo nhóm ngành kinh tế nói chung có phù
hợp với xu hướng phát triển hay không; (ii) Sự thay đổi tỷ trọng
các ngành giá trị gia tăng cao, trong công nghệ hiện đại trong cơ
cấu GDP như thế nào; (iii) Sự thay đổi tỷ trọng các ngành thân
thiện môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu.
Xem xét tốc độ tái cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với xu hướng
phát triển diễn ra nhanh hay chậm. Nội dung này được thực hiện
theo phương pháp vector - hệ số cosθ. Phương pháp này lượng
hóa mức độ chuyển dịch giữa 2 thời điểm t
0
và t
1
bằng công thức:
conditions to implement the restructuring of economic sector in the near future by 2020 and
for the following years.
Keywords: deviation, restructuring, speed, sustainable development, trend.
Classification number: 5.2
những căn cứ đề xuất định hướng
Lý luận về tái cấu cấu ngành kinh tế gắn với phát triển bền vững
Về nguyên lý, theo quan điểm của kinh tế học phát triển, cơ cấu ngành kinh tế phản ánh
bản chất của phát triển. Một nền kinh tế phát triển bền vững, bên cạnh việc đạt được tốc độ tăng
trưởng nhanh và hiệu quả, thì cơ cấu ngành kinh tế phải chuyển dịch theo xu hướng bền vững.
Tính bền vững của cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở xu hướng chuyển dịch và trạng thái của cơ
cấu phải bảo đảm những yêu cầu sau:
Thứ nhất, chuyển dịch đúng (phù hợp) với xu thế phát triển và với tốc độ nhanh. Điều đó
thể hiện ở: (i) Tỷ trọng GDP ngành nông nghiệp giảm đi, ngành phi nông nghiệp tăng lên; (ii) Tỷ
trọng các ngành dịch vụ tăng lên và ngành sản xuất giảm đi. Thứ hai, các ngành có giá trị gia
tăng cao phải ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP. Các ngành có giá trị gia tăng cao
bao gồm: (i) Các ngành sản phẩm có tỷ trọng giá trị gia tăng so với tổng giá trị sản xuất cao,
thường là những ngành sản phẩm trải qua giai đoạn chế biến sâu, sử dụng công nghệ cao; (ii)
Các ngành sản phẩm đã được sản xuất trên quy mô lớn, đóng góp ngày càng cao vào tổng giá trị
gia tăng của nền kinh tế và đang có khả năng tiếp tục được mở rộng. Thứ ba, tỷ trọng các ngành
kinh tế thân thiện môi trường và ứng phó được với biến đổi khí hậu ngày càng chiếm tỷ trọng
cao trong cơ cấu ngành kinh tế. Yêu cầu này đòi hỏi phát triển mạnh các ngành sản xuất sản
phẩm với quy trình công nghệ sạch, sử dụng thiết bị tiêu hao ít năng lượng, ít có ô nhiễm môi
trường và thích ứng với biến đổi khí hậu có thể gặp phải. Thứ tư, tốc độ chuyển dịch ngành cơ
cấu GDP phải đồng bộ và phù hợp với cơ cấu lao động. Nguyên tắc này đòi hỏi tốc độ chuyển
dịch cơ cấu lao động, cơ cấu vốn đầu tư không được nhanh hơn tốc độ chuyển dịch cơ cấu theo
GDP.
Về phương pháp luận, việc đánh giá kết quả tái cơ cấu ngành có đảm bảo được các yêu
cầu nêu trên được xem xét theo 2 góc độ là xu hướng và tốc độ chuyển dịch.
Xem xét xu hướng tái cơ cấu, bao gồm: (i) Sự thay đổi tỷ trọng các ngành phân chia theo
nhóm ngành kinh tế nói chung có phù hợp với xu hướng phát triển hay không; (ii) Sự thay đổi tỷ
trọng các ngành giá trị gia tăng cao, trong công nghệ hiện đại trong cơ cấu GDP như thế nào; (iii)
Sự thay đổi tỷ trọng các ngành thân thiện môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu.
Xem xét tốc độ tái cơ cấu ngành kinh tế phù họp với xu hướng phát triển diễn ra nhanh
hay chậm. Nội dung này được thực hiện theo phương pháp vector - hệ số cos . Phương pháp
này lượng hóa mức độ chuyển dịch giữa 2 thời điểm t0 và t1 bằng công thức:
cos= ∑ ( ) ( )
√∑
( ) ∑
( )
, trong đó Si(t0), Si(t1) là tỷ trọng của ngành i tại kỳ gốc
và kỳ nghiên cứu, được coi là góc hợp bởi 2 vector cơ cấu S(t0) và S(t1), cos càng lớn thì các
cơ cấu càng gần nhau và ngược lại.
, trong đó S
i
(t
0
), S
i
(t
1
) là tỷ
trọng của ngành i tại kỳ gốc và kỳ nghiên cứu, θ được coi là góc
hợp bởi 2 vector cơ cấu S(t
0
) và S(t
1
), cosθ càng lớn thì các cơ cấu
càng gần nhau và ngược lại.
Xem xét sự tương quan về tốc độ chuyển dịch của cơ cấu GDP
với cơ cấu lao động và vốn có phù hợp hay không: so sánh tốc độ
chuyển dịch theo phương pháp vector - hệ số cosϕ theo GDP và
Tái cơ cấu ngành kinh tế theo quan điểm
phát triển bền vững: Định hướng
và các giải pháp đến 2020 và những năm tiếp theo
Ngô Thắng Lợi1*, Nguyễn Thị Mai Anh2
1Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
2Kiểm toán Nhà nước
Ngày nhận bài 25/4/2019; ngày chuyển phản biện 29/4/2019; ngày nhận phản biện 28/5/2019; ngày chấp nhận đăng 30/6/2019
Tóm tắt:
Năm 2016, Quốc hội khoá 14 đã đưa ra Nghị quyết về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 (NQ
24/2016/QH14) nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế, trong đó có mục tiêu tái cơ cấu ngành
kinh tế. Hướng theo chủ đề này, dựa trên những căn cứ lý luận (lý thuyết về tái cơ cấu ngành kinh tế theo quan điểm
phát triển bền vững) được đề xuất và thực tiễn (mục tiêu nhiệm vụ tái cơ cấu ngành kinh tế và thực trạng cơ cấu
ngành kinh tế Việt Nam), bài viết đề xuất định hướng tái cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam gắn với thực hiện mục tiêu
phát triển bền vững và các điều kiện cần thiết để thực hiện trong thời gian trước mắt đến 2020 và cho những năm
tiếp theo.
Từ khóa: độ lệch, phát triển bền vững, tái cơ cấu, tốc độ, xu hướng.
Chỉ số phân loại: 5.2
*Tác giả liên hệ: Email: loint@neu.edu.vn
8861(11) 11.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
theo lao động, theo vốn. Dấu hiệu tích cực chính là tốc độ chuyển
dịch của 3 yếu tố này ít nhất phải bằng nhau, hoặc tốc độ chuyển
dịch cơ cấu theo GDP phải có xu hướng nhanh hơn.
Mục tiêu kế hoạch tái cơ cấu ngành kinh tế đặt ra
Tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng luôn
đi đôi với nhau, mô hình tăng trưởng có được đổi mới hay không
là dựa vào kết quả của việc tái cơ cấu nền kinh tế được thực hiện
như thế nào. Nghị quyết về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai
đoạn 2016-2020 (NQ 24/2016/QH14) đã xác định rõ mục tiêu và
nhiệm vụ thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng
trưởng trong giai đoạn 2016-2020 với nhiều kỳ vọng hơn và có
những điểm mới [1]. Mục tiêu tổng quát của kế hoạch tái cơ cấu
ngành kinh tế đặt ra là, hiện đại hóa công tác quy hoạch, cơ cấu
ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế [2]. Mục tiêu
cụ thể trong cơ cấu lại nền kinh tế đối với từng ngành rất rõ ràng:
Cơ cấu lại mạnh mẽ ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông
thôn mới có hiệu quả, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, phù
hợp với tình hình biến đổi khí hậu, nhất là chuyển đổi cây trồng,
vật nuôi tại một số địa phương chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí
hậu; điều chỉnh diện tích đất phù hợp với mô hình sản xuất nông
nghiệp mới. Tiếp tục đổi mới và nhân rộng các mô hình sản xuất
hiệu quả, phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu
thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ trong
và ngoài nước. Hoàn thiện mô hình, phát triển hợp tác xã kiểu mới
theo Luật Hợp tác xã, có chính sách mạnh thu hút doanh nghiệp
đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; áp dụng khoa học và công
nghệ (KH&CN) vào sản xuất. Đẩy mạnh thực hiện chương trình
xây dựng thương hiệu nông sản, thủy sản Việt Nam.
Cơ cấu lại thực chất ngành công nghiệp, phát triển công nghiệp
chế biến sâu, chế biến tinh nông, lâm, thủy sản, công nghiệp chế
tạo; tăng mạnh năng suất nội bộ ngành, tăng hàm lượng công nghệ
và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm. Tập trung vào một số
ngành công nghiệp nền tảng, có lợi thế cạnh tranh và ý nghĩa chiến
lược đối với tăng trưởng nhanh, bền vững gắn kết với bảo vệ môi
trường. Chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất linh kiện, cụm
linh kiện, thúc đẩy một số mặt hàng tham gia sâu, có hiệu quả vào
mạng sản xuất và chuỗi giá trị, phân phối toàn cầu. Tạo điều kiện
để doanh nghiệp đề xuất dự án đầu tư phục vụ mục tiêu cơ cấu lại
nền kinh tế.
Thực hiện cơ cấu lại các ngành dịch vụ, duy trì tốc độ tăng
trưởng các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Tập
trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri
thức và công nghệ cao. Phối hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của
các bộ, ngành, thực hiện chương trình phát triển du lịch quốc gia,
đến năm 2020 du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn;
nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng dịch vụ du lịch; khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển du lịch, chú trọng phát
triển du lịch rừng, biển, đảo. Nhiệm vụ đặt ra trong NQ24/2016/
QH14 là một trong những “mong muốn” của Nhà nước trong việc
xác định định hướng tiếp tục tái cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam
trong những năm còn lại 2019, 2020 và những năm tiếp theo.
Những phát hiện về bất cập trong thực hiện kế hoạch tái cơ
cấu ngành kinh tế giai đoạn 2011-2018
Trong giai đoạn 2011-2018, bất cập trong thực hiện kế hoạch
tái cơ cấu ngành kinh tế gồm 3 vấn đề sau: xu hướng chuyển dịch
còn nhiều bất hợp lý; tốc độ chuyển dịch có xu hướng chậm dần;
tính chất thiếu đồng bộ trong tương quan giữa tốc độ chuyển dịch
cơ cấu ngành theo GDP và lao động.
Xu hướng chuyển dịch còn nhiều bất hợp lý:
Dựa trên các số liệu thứ cấp, loại bỏ yếu tố thuế và trợ cấp, tính
toán theo các tiêu chí khác nhau và đánh giá theo quan điểm phát
triển bền vững, tác giả rút ra những bất cập về xu hướng tái cơ cấu
ngành kinh tế ở Việt Nam như sau:
Restructuring of economic sector
according to the sustainable
development approach: Orientation
and solutions to 2020 and next years
Thang Loi Ngo1∗, Thi Mai Anh Nguyen2
1National Economics University of Vietnam
2State Audit Office of Vietnam
Received 25 April 2019; accepted 30 June 2019
Abstract:
In 2016, the 14th National Assembly issued a Resolution
on the Economic Restructuring Plan for the period 2016-
2020 (Resolution 24/2016/QH14) in order to implement
the goals of sustainable economic development,
including restructuring the economic sector. Based
on the introduction of theoretical bases (the theory of
economic restructuring according to the viewpoint of
sustainable development) and the practice (the objective
of economic restructuring and current situation of
Vietnam’s economic structure), the paper proposes the
orientation of restructuring Vietnam’s economic sector
in association with the implementation of sustainable
development goals and also proposes the necessary
conditions to implement the restructuring of economic
sector in the near future by 2020 and for the following
years.
Keywords: deviation, restructuring, speed, sustainable
development, trend.
Classification number: 5.2
8961(11) 11.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Thứ nhất, tỷ trọng ngành công nghiệp biến động thất thường và
không đúng xu thế. Bảng 1 là cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam
giai đoạn 2011-2018 [3].
Bảng 1. Cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2011-
2018.
Đơn vị: %
Năm Tổng số
Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
Công nghiệp
và xây dựng
Dịch vụ
2011 100 22,1 36,4 41,5
2012 100 21,3 37,2 41,5
2013 100 20 37 43
2014 100 19,7 36,9 43,4
2015 100 18,9 36,9 44,2
2016 100 18,1 36,3 45,6
2017 100 17,04 37,04 45,92
2018 100 16,1 38,1 48,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê [4].
Bảng 1 cho thấy, trong giai đoạn 2011-2018, tỷ trọng GDP
ngành nông nghiệp có xu hướng giảm đều và tỷ trọng ngành
thương mại - dịch vụ tăng lên rõ rệt hơn. Tuy nhiên, tỷ trọng GDP
ngành công nghiệp có xu hướng tăng giảm thất thường và biến
động không tích cực. Ngành công nghiệp có tỷ trọng thấp thể hiện
sự bất hợp lý đối với một quốc gia đang trong quá trình xây dựng
và hoàn thiện các tiêu chí để trở thành nước công nghiệp và không
phù hợp đối với quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp.
Thứ hai, các ngành giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ cao
và thân thiện môi trường chiếm tỷ trọng thấp. Đối với ngành nông
nghiệp, nông nghiệp truyền thống (với giá trị gia tăng thấp) vẫn
đang chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành nông nghiệp của Việt
Nam (hình 1).
Hình 1. Cơ cấu ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản giai
đoạn 2005-2018 (%).
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê [4].
Nông nghiệp công nghệ cao (cả trồng trọt và chăn nuôi) đang
phụ thuộc 80% bởi giống nhập khẩu, các yếu tố đầu vào khác trong
sản xuất nông nghiệp cũng đang phải nhập khẩu với tốc độ tăng
trưởng cao như phân bón (11%), thuốc trừ sâu (34,9%), máy móc
thiết bị, xăng dầu phục vụ nông nghiệp (17,3%), trong khi đó việc
sản xuất các sản phẩm này trong nước tăng trưởng rất thấp: sản
xuất thức ăn gia súc (3,6%), thuốc trừ sâu (-2,6%), phân hoá học
(6,7%) (số liệu bình quân giai đoạn 2011-2018).
Trong công nghiệp, mặc dù ngành chế biến chế tạo được xem
là động lực tăng trưởng nhanh (xét đến năm 2018, đạt 12,98%),
đóng góp 7,1 điểm % vào tăng trưởng công nghiệp, nhưng tính
chất hoạt động vẫn mang hình dáng của những “công xưởng gia
công” (hình 2).
Hình 2. Kim ngạch xuất khẩu 5 mặt hàng chủ yếu năm 2017 và
2018 (tỷ USD).
Nguồn: Tổng cục Thống kê [4].
5 sản phẩm chế biến chế tạo xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
đều là các sản phẩm mang tính gia công và nhìn chung đều được
thực hiện ở các doanh nghiệp FDI. Riêng ở ngành dịch vụ, cơ cấu
ngành này được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2. Cơ cấu ngành dịch vụ giai đoạn 2010-2018.
Đơn vị tính: %
Năm 2010 2017 2018
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy
và xe có động cơ khác
21,7 25,2 26,5
Vận tải, kho bãi 7,8 7,4 6,5
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 9,8 9,5 9,2
Thông tin và truyền thông 2,5 2,5 1,7
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 14,6 14,1 12,9
Hoạt động kinh doanh bất động sản 16,5 12,4 11,1
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 3,5 3,5 3,0
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 1,0 0,9 0,9
Hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội, quốc
phòng, an ninh
6,9 7,0 6,6
Giáo dục và đào tạo 6,3 6,0 8,9
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 2,9 2,9 6,6
Nghệ thuật, vui chơi, giải trí 1,8 1,5 1,4
Hoạt động dịch vụ khác 4,3 4,2 4,1
Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia
đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu
dùng của hộ gia đình
0,4 2,9 0,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê [4].
Hình 1. Cơ cấu ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản giai đoạn 2005-2018 (%).
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê [4].
Nông nghiệp công nghệ cao (cả trồng trọt và chăn nuôi) đang phụ thuộc 80% bởi giống
nhập khẩu, các yếu tố đầu vào khác trong sản xuất nông nghiệp cũng đang phải nhập khẩu với
tốc độ tăng trưởng cao như phân bón (11%), thuốc trừ sâu (34,9%), máy móc thiết bị, xăng dầu
phục vụ nông nghiệp (17,3%), trong khi đó việc sản xuất các sản phẩm này trong nước tăng
trưởng rất thấp: sản xuất thức ăn gia súc (3,6%), thuố trừ sâu (-2,6%), phân hoá ọc (6,7%) (số
liệu bình quân giai đoạn 2011-2018).
Trong công nghiệp, mặc dù ngành chế biến chế tạo được xem là động lực tăng trưởng
nhanh (xét đến năm 2018, đạt 12,98%), đóng góp 7,1 điểm % vào tăng trưởng công nghiệp,
nhưng tính chất hoạt động vẫn mang hình dáng của những “công xưởng gia công” (hình 2).
Hình 2. Kim ngạch xuất khẩu 5 mặt hàng chủ yếu năm 2017 và 2018 (tỷ USD).
Nguồn: Tổng cục Thống kê [4].
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Nông nghiệp Lâm nghiệp Thuỷ sản
43,19
24,83 24,9
12,33 13,94
47,75
28,95 28,1
15,77 15,41
0
10
20
30
40
50
60
Điện thoại Dệt may Máy tính và sản
phẩm điện tử
Máy móc thiết bị,
dụng cụ phụ tùng
Giày dép
2017 2018
Hình 1. Cơ cấu ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản giai đoạn 2005-2018 (%).
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê [4].
Nông nghiệp công nghệ cao (cả trồng trọt và chăn nuôi) đang phụ thuộc 80% bởi giống
nhập khẩu, các yếu tố đầu vào khác trong sản xuất nông nghiệp cũng đang phải nhập khẩu với
tốc độ tăng trưởng cao như phân bón (11%), thuốc trừ sâu (34,9%), máy móc thiết bị, xăng dầu
phục vụ nông nghiệp (17,3%), tro g khi đó việc sản xuất các sản phẩm này trong nước tăng
trưởng rất thấp: sản xuất thức ăn gia súc (3,6%), thuốc trừ sâu (-2,6%), phân hoá học (6,7%) (số
liệu bình quân giai đoạn 2011-2018).
Trong công nghiệp, mặc dù ngành chế biến chế tạo được xem là động lực tăng trưởng
nhanh (xét đến năm 2018, đạt 12,98%), đóng góp 7,1 điểm % vào tăng trưởng công nghiệp,
nhưng tính chất hoạt động vẫn mang hình dáng của những “công xưởng gia công” (hình 2).
Hình 2. Kim ngạch xuất khẩu 5 mặt hàng chủ yếu năm 2017 và 2018 (tỷ USD).
Nguồn: Tổng cục Thống kê [4].
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Nông nghiệp Lâm nghiệp Thuỷ sản
43,19
24,83 24,9
12,33 13,94
47,75
28,95 28,1
15,77 15,41
0
10
20
30
40
50
60
Điện thoại Dệt may Máy tính và sản
phẩm điện tử
Máy móc thiết bị,
dụng cụ phụ tùng
Giày dép
2017 2018
9061(11) 11.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Qua bảng 2 cho thấy, tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ truyền thống
như thương mại, vận tải, dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm khoảng
42-43% tỷ trọng khu vực dịch vụ trong giai đoạn 2010-2018.
Trong khi đó, tỷ trọng các ngành dịch vụ mang tính động lực, có
hàm lượng tri thức cao, tỷ trọng vẫn rất thấp, thậm chí còn giảm đi.
Tốc độ chuyển dịch có xu hướng chậm dần:
Sử dụng phương pháp tính toán hệ số chuyển dịch cơ cấu
ngành dựa trên số liệu thống kê GDP giai đoạn 2001-2018, kết quả
tính toán hệ số chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam giai
đoạn này, so sánh với các giai đoạn trước được thể hiện ở bảng 3.
Bảng 3. Hệ số chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai
đoạn 2001-2018.
Giai đoạn cosθ θ Tỷ lệ chuyển dịch
2001-2005 0,998827 2,775345 3,08
2006-2010 0,999649 1,518063 1,69
2011-2018 0,999749 1,284199 1,41
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê.
Tính bình quân năm giai đoạn 2011-2018, tỷ trọng GDP ngành
nông nghiệp chỉ giảm 0,5 điểm phần trăm. Nếu với tốc độ giảm
như vậy, dự báo khoảng 18-20 năm nữa thì tỷ trọng nông nghiệp
mới xuống dưới 10% và Việt Nam mới thực hiện được tiêu chí
nước công nghiệp ở tiêu chí tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu
ngành kinh tế.
Tính chất thiếu đồng bộ trong tương quan giữa tốc độ chuyển
dịch cơ cấu ngành theo GDP và lao động:
Sự thiếu đồng bộ trong tương quan giữa tốc độ chuyển dịch cơ
cấu ngành theo GDP và lao động thể hiện qua bảng 4 và bảng 5.
Bảng 4. Hệ số chuyển dịch theo lao động.
Giai đoạn cosθ θ Tỷ lệ chuyển dịch (%)
2001-2018 0,913241 24,04 26,71
2001-2010 0,972046 13,58 15,09
2011-2018 0,986977 9,26 10,29
Bảng 5. Hệ số chuyển dịch theo cơ cấu ngành.
Giai đoạn cosθ θ
Tỷ lệ chuyển dịch
(%)
2001-2018 0,988002 8,884531 9,87
2001-2010 0,997264 4,239088 4,71
2011-2018 0,994271 6,135996 6,82
Nguồn: tính toán của tác giả từ Niên giám thống kê.
Các số liệu tính toán bảng 4 và 5 cho thấy, tốc độ chuyển dịch
cơ cấu GDP (xác định theo tỷ lệ chuyển dịch) chậm hơn khá nhiều
so với hệ số chuyển dịch cơ cấu lao động. Điều này phản ánh hai
vấn đề: (i) Sự “quá tải” của khu vực phi nông nghiệp (bao gồm
cả công nghiệp và dịch vụ). Khi số lao động khu vực nông nghiệp
chuyển sang quá nhanh, quy mô kinh tế phi nông nghiệp không
đủ sức chứa đã làm cho tình trạng thất nghiệp trá hình ở khu vực
này tăng lên, năng suất lao động tăng chậm lại, dẫn đến mức tăng
trưởng GDP phi nông nghiệp chậm hơn mức tăng trưởng lao động
ở khu vực này; (ii) Lao động nông nghiệp chuyển sang phi nông
nghiệp chỉ được tiếp nhận ở khu vực sản xuất năng suất lao động
thấp. Do trình độ của lao động nông nghiệp thấp nên khi chuyển
sang khu vực phi nông nghiệp, phần lớn chỉ có khả năng kiếm việc
làm ở khu vực thị trường thành thị không chính thức, các đơn vị
kinh tế quy mô nhỏ, vừa, một số lao động được làm việc trong các
doanh nghiệp FDI chủ yếu đảm nhận các khâu lao động giản đơn,
lắp ráp, gia công, vì thế năng suất lao động rất thấp.
Những nhân tố gây tác động không tích cực đến kết quả tái
cấu trúc nền kinh tế theo ngành
- Trình độ công nghệ sản xuất và vốn nhân lực thấp. Điều này
thể hiện ở đóng góp của TFP vào tăng trưởng ở mức thấp (bảng 6).
Bảng 6. Tỷ lệ đóng góp của các nhân tố sản xuất tới tăng trưởng
GDP.
Năm
Đóng góp
của tăng K
Đóng góp
của tăng L
Đóng góp
của tăng TFP
Giai đoạn 2011-2018 54,29 19,86 25,83
Giai đoạn 2006-2010 83,45 34,62 -18,07
Giai đoạn 2001-2005 66,73 21,38 11,89
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê.
Hiện nay, nhân tố TFP mới đóng góp khoảng 1/4 vào tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam, có tăng lên so với những giai đoạn
trước nhưng còn rất thấp so với các nước phát triển trong khu
vực (chiếm từ 40-60%). Đây là một rào cản khá lớn tác động
không tích cực đến chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng bền
vững [5, 6]. Sản phẩm xuất khẩu phần lớn là gia công và được
thực hiện ở các doanh nghiệp FDI.
Mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu có sự gia tăng đáng kể,
nhưng: (i) Cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn không có sự thay đổi đáng
kể trong giai đoạn 2011-2018 (nhóm hàng công nghiệp nặng và
khoáng sản chiếm khoảng 44-45% tổng kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
chiếm 40-41%; nhóm hàng nông lâm nghiệp chiếm 10-11%;
hàng thủy sản chiếm 4%); (ii) Tính chất sản phẩm xuất khẩu
vẫn chủ yếu là các mặt hàng thô, công nghiệp gia công lắp ráp
chịu tác động nhiều của biến động giá trên thị trường quốc tế
và có giá trị gia tăng thấp; (iii) Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
cao trong thời gian qua là nhờ sự đóng góp chính bởi xuất khẩu
ở các doanh nghiệp FDI với tỷ trọng xuất khẩu chiếm trên 70%
và tăng trưởng khoảng 25% (không kể dầu thô).
9161(11) 11.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
- Việc lựa chọn không hợp lý các động lực tăng trưởng cho
nền kinh tế. Sự không hợp lý này thể hiện cả trong việc lựa
chọn các sản phẩm động lực, các ngành kinh tế động lực, các
vùng trọng điểm Việc lựa chọn không hợp lý các động lực
tăng trưởng đã làm cho việc đầu tư hướng vào các động lực đó
trở nên không hiệu quả. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư đã nhanh
hơn nhiều so với chuyển dịch cơ cấu ngành theo GDP.
- Chưa thực hiện tốt các mối liên kết ngành và vùng trong
quá trình phát triển kinh tế gây hiệu ứng không tích cực cho
tái cơ cấu ngành. Bài viết sử dụng chỉ số Moran (1950), theo
đó nếu dùng z-score để kiểm định ý nghĩa thống kê của chỉ số
Moran, nếu z-core nhận giá trị 1,96 thì chỉ số
Moran có ý nghĩa thống kê, tức là các ngành trong vùng có sự
liên kết với nhau đáng kể. Sử dụng số liệu VA các ngành tại
các tỉnh sử dụng 3 phương án khoảng cánh là 45 km, 90 km,
135 km, 180 km tính toán được giá trị của chỉ số Moran theo
số liệu ở bảng 7.
Bảng 7. Chỉ số Moran (I) tính theo GRDP/người.
Năm 0-45 km 0-90 km 0-135 km 0-180 km
2010
Moran (I) 0,122 0,127 0,051 0,029
Z-score 0,833 1,95 1,29 1,066
2015
Moran (I) 0,271 0,188 0,077 0,039
z-score 1,73 1,78 1,8 1,29
Nguồn: tác giả tính toán.
Các số liệu tính toán năm 2010 và 2015 cho thấy, tất cả các
giá trị z-score đều nằm trong khoảng {-1,96÷1,96}, vì vậy chưa
đủ cơ sở bác bỏ giả thuyết H
0
(Moran (I) = 0). Hầu như chưa
có dấu hiệu có liên kết kinh tế giữa các địa phương trong cả
nước. Điều này cho thấy, tính liên kết giữa các doanh nghiệp
trong ngành, giữa các khu vực kinh tế (nhà nước, tư nhân và FDI)
đều thực hiện không hiệu quả, các liên kết kinh tế yếu đã làm cho
việc tái cơ cấu theo ngành kinh tế giữa các vùng, địa phương thực
hiện khó khăn.
Định hướng và khuyến nghị chính sách tái cơ cấu ngành kinh tế
theo yêu cầu phát triển bền vững
Định hướng tái cơ cấu ngành kinh tế
Để có một cơ cấu ngành kinh tế đạt các yêu cầu mang tính
nguyên tắc của phát triển bền vững, căn cứ vào những hạn chế
phát hiện ở trên, chúng tôi đưa ra các định hướng sau:
Thứ nhất, xác định rõ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải
nhằm vào mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế. Chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế tạo được sự lan toả tích cực đến tăng trưởng
kinh tế nhanh và hiệu quả, nâng cao năng suất lao động xã hội,
và cuối cùng phải dẫn đến tăng nhanh thu nhập bình quân đầu
người, bảo đảm môi trường tốt, ứng phó được biến đổi khí hậu.
Với định hướng này, việc tái cơ cấu kinh tế theo ngành hướng tới:
gia tăng tỷ trọng công nghiệp lên 40-41% và giảm tỷ trọng nông
nghiệp xuống còn khoảng 13% vào năm 2020; gia tăng tỷ trọng
ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ cao và
thân thiện môi trường.
Thứ hai, lựa chọn đúng các sản phẩm động lực tăng trưởng
kinh tế. Xác định đúng danh mục các động lực tăng trưởng chính
là tạo dựng tốt trụ cột cho phát triển bền vững và là chìa khoá để
thực hiện hiệu quả tái cơ cấu ngành. Các ngành sản phẩm động
lực, theo quan điểm của chúng tôi bao gồm: những sản phẩm có
các dấu hiệu lợi thế so sánh và có khả năng chuyển mạnh thành
lợi thế cạnh tranh, gồm: (i) Nông nghiệp là các sản phẩm nông,
lâm, thủy sản có quy mô lớn, giá trị kinh tế và chất lượng cao; (ii)
Công nghiệp là các sản phẩm công nghiệp thuộc thế hệ thứ hai
(có dung lượng vốn và lao động ngang nhau) như công nghiệp
chế biến sâu sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp cơ khí chế tạo
(sản xuất ô tô, xe máy, điện tử), dệt may, giày da (sản xuất chứ
không phải gia công, lắp ráp); (iii) Kinh tế biển bao gồm cả đánh
bắt, nuôi trồng hải sản, đóng tàu, dịch vụ vận tải biển, kho bãi;
(iv) Dịch vụ du lịch gồm du lịch lịch sử, văn hóa, du lịch chiến
tranh, du lịch sinh thái, du lịch rừng, biển, du lịch mạo hiểm. Một
số ngành, sản phẩm thượng nguồn cần được ưu tiên phát triển để
xây dựng, bổ sung lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế: (i) Ngành
khai thác và chế biến dầu khí (cung cấp nguyên liệu cho ngành
công nghiệp hóa chất); (ii) Ngành sản xuất gang thép (cung cấp
nguyên liệu cho ngành cơ khí chế tạo và điện tử); (iii) Ngành sản
xuất sợi tơ, vải tơ, sợi cao cấp (cung cấp nguyên liệu cho ngành
dệt, may); (iv) Một số ngành sản phẩm phụ trợ cho ngành công
nghiệp mũi nhọn nhóm 1 như dệt, may, da giày, cơ khí sản xuất ô
tô, xe máy...; (v) Một số ngành dịch vụ chất lượng cao.
Thứ ba, có chiến lược đầu tư phát triển vào các động lực
tăng trưởng. Cần triển khai xây dựng các chiến lược phát triển
các động lực tăng trưởng, lập các quy hoạch vùng cho phát triển
các động lực, hoàn thiện các chính sách khai thác, huy động và
sử dụng nguồn vốn đầu tư, nguồn nhân lực, công nghệ cao nhằm
mục tiêu tạo dựng lợi thế cạnh tranh đối với ngành và vùng động
lực. Đây sẽ là động lực để thực hiện các kết quả tích cực của
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Thứ tư, tạo sự lan tỏa tích cực của phát triển nhóm ngành,
vùng động lực đến phát triển các ngành khác, nhất là lan tỏa đến
các ngành kinh tế hỗ trợ nhằm phát huy lợi thế của mô hình phát
triển hài hoà để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững trên cơ sở
một cơ cấu ngành kinh tế có hiệu quả được tổ chức trên nền tảng
trục xoay là các ngành động lực.
9261(11) 11.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Thứ năm, định hướng mở trong quá trình thực hiện mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến việc
tạo dựng các chính sách thu hút các nguồn vốn đầu tư, nguồn
nhân lực chất lượng cao từ bên ngoài, nhất là các nguồn từ FDI.
Trong chiến lược thu hút FDI, nhấn mạnh đến việc thu hút vào
những nhóm ngành động lực của quốc gia nhằm mục tiêu tạo lợi
thế cạnh tranh đối với những nhóm ngành này.
Khuyến nghị một số giải pháp
Gắn với những nguyên nhân gây ra các bất cập trong việc tái
cơ cấu ngành kinh tế, tác giả khuyến nghị những giải pháp cấp
thiết sau:
Thứ nhất, nâng cao trình độ công nghệ, trước hết đối với các
nhóm ngành kinh tế động lực nhằm tạo dựng lợi thế cạnh tranh
đối với các ngành động lực:
Thực hiện giải pháp này, kiến nghị các tỉnh cần kết hợp đồng
bộ 2 nhóm chính sách là: thực hiện chuyển giao công nghệ bằng
con đường thu hút FDI và tăng cường R&D trong nội bộ tỉnh.
Về đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của chuyển giao công nghệ qua
các dự án FDI, kinh nghiệm của các nước NIC trong thời kỳ thực
hiện chuyển giao công nghệ từ FDI là chuyển giao công nghệ nên
được khuyến khích theo một trong hai cách (chuyển giao theo
chiều ngang hoặc chuyển giao theo chiều dọc). Những cơ chế cho
việc chuyển giao công nghệ theo chiều ngang bao gồm: (i) Học
tập dựa vào quan sát và bắt chước; (ii) Chuyển dịch lao động giữa
các tập đoàn đa quốc gia với các công ty nội địa; (iii) Thông qua
áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước. Những
hiệu ứng của chuyển giao công nghệ theo chiều dọc xuất phát từ
những mối liên kết giữa các tập đoàn đa quốc gia và những nhà
cung cấp nội địa hoặc những cơ sở sản xuất. Ở trường hợp này,
các tập đoàn đa quốc gia có thể thực sự cung cấp cho các doanh
nghiệp nội địa những công nghệ mới trong nỗ lực nâng cao năng
suất trong chuỗi sản xuất. Các mối liên kết theo chiều dọc khác
có thể kể đến như hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo hoặc những ưu đãi cho
các doanh nghiệp nội địa. Về đẩy mạnh R&D trong nước theo
hướng tăng cường khởi nghiệp trên cơ sở lấy doanh nghiệp làm
trung tâm để định hướng hoạt động KH&CN: tổ chức tốt hoạt
động R&D với mục đích lựa chọn nghiên cứu ứng dụng, trợ giúp
cho nhận biết, cải biến và hấp thụ công nghệ nước ngoài, sử dụng
nó với mức độ thực hành theo hướng tiếp cận các tiêu chuẩn quốc
tế cũng như tạo ra những công nghệ bản địa mới dưới dạng sáng
chế. Để thực hiện được điều này, tăng cường khởi nghiệp theo
quan điểm lấy doanh nghiệp làm trung tâm để định hướng các
hoạt động KH&CN trong các đơn vị nghiên cứu, các cơ quan,
trường đại học. Cần hình thành mô hình trung tâm cạnh tranh,
trong đó trọng tâm là liên kết giữa các trường đại học trên địa bàn
tỉnh với các doanh nghiệp và Sở KH&CN sẽ làm trọng tài trung
gian. Trung tâm bao gồm các doanh nghiệp, các trường đại học,
các nhà đầu tư và các tổ chức kinh tế - xã hội tự nguyện liên kết,
phối hợp với nhau nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động
nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất,
kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của từng thành
viên tham gia [7].
Thứ hai, bảo đảm đồng bộ giữa chuyển dịch cơ cấu GDP với
cơ cấu lao động và cơ cấu vốn đầu tư:
Đối với chính sách bảo đảm vốn đầu tư, cần tăng tỷ lệ đầu tư
trực tiếp cho sản xuất trong tổng đầu tư phát triển. Cụ thể: Chính
sách tăng cường thu hút FDI: tăng tỷ lệ FDI lên khoảng 30%
tổng vốn đầu tư. Tuy vậy trong quá trình mở cửa thu hút FDI, cần
có quan điểm lựa chọn: (i) Các nhà đầu tư có thế mạnh phù hợp
với những ngành động lực, làm trục xoay cho quá trình chuyển
dịch cơ cấu; (ii) Các nhà đầu tư có năng lực vốn lớn, công nghệ
gốc, hiện đại; (iii) Hạn chế dòng vốn đầu tư từ Trung Quốc quy
mô nhỏ, sử dụng thiết bị lạc hậu, ô nhiễm môi trường cao. Chính
sách linh hoạt trong việc khai thác các nguồn tích lũy trong dân
cư dưới cả hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp: để huy
động được dưới dạng đầu tư trực tiếp cần nhấn mạnh đến các
chính sách có liên quan đến môi trường đầu tư và cơ hội bỏ vốn.
Còn để huy động dưới dạng đầu tư gián tiếp thì cần có chính sách
linh hoạt nhằm tạo khả năng sinh lời cho các khoản tiền gửi cũng
như đảm bảo tính đa dạng đối với sản phẩm tín dụng, các thủ tục
đơn giản cũng như tính tiện tích trong thanh toán. Chính sách
bảo đảm lao động: quan trọng nhất trong giai đoạn này là tập
trung trước hết vào việc sắp xếp, bảo đảm việc làm cho lao động
di chuyển từ ngành này sang ngành kia trong quá trình tái cơ cấu
lao động nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm tới mức
thấp nhất tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nâng cao tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động ở nông thôn; tiếp đến là nâng cao hiệu suất
làm việc của người lao động, bao gồm: (i) Đào tạo nghề, kỹ năng
phù hợp với điều kiện làm việc nhằm tạo điều kiện cho người lao
động có thể tiếp nhận việc làm trong điều kiện chuyển đổi nghề
nghiệp và yêu cầu lao động cao hơn; (ii) Tăng cường ý thức, kỷ
luật và phong cách người lao động nhằm nâng cao hiệu suất làm
việc; (iii) Xúc tiến và hỗ trợ giải quyết việc làm nhằm tạo cơ hội
có việc làm phù hợp cho người lao động.
Thứ ba, tăng cường tổ chức liên kết sản xuất giữa các ngành
trên cơ sở các nhóm ngành kinh tế động lực:
Vấn đề quan trọng của giải pháp này là cần đa dạng hoá tổ
chức các mô hình liên kết các ngành. Cụ thể: (i) Đối với ngành
cơ khí chế tạo cần tổ chức dưới dạng mô hình cluster dựa trên
nguyên lý cung cấp và trao đổi sản phẩm cho nhau. Cần đầu tư
tổ chức các doanh nghiệp lớn với chức năng là doanh nghiệp đầu
đàn để từ đó phát triển doanh nghiệp vệ tinh chuyên sản xuất sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ cung cấp cho doanh nghiệp đầu đàn;
(ii) Đối với ngành chế biến nông lâm sản: mô hình liên kết là
mô hình chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ theo nguyên tắc gắn
kết đầu vào với đầu ra, với sự tham gia hỗ trợ của chính quyền
9361(11) 11.2019
Khoa học Xã hội và Nhân văn
địa phương trong việc thực hiện chức năng đầu mối giữa các chủ
thể tham gia sản xuất kinh doanh từ giai đoạn giống - sản xuất
- chế biến và tiêu thụ; (iii) Ngành du lịch cần được tổ chức liên
kết dưới dạng du lịch tổng hợp trên cơ sở kết hợp loại hình du
lịch với các điểm du lịch và hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ du
lịch. Đi đối với việc phát triển cụm điểm du lịch cần phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng kết nối giữa các điểm trong cụm du lịch và
kết nối với hệ thống giao thông quốc gia và tỉnh.
Thứ tư, hoàn thiện các chính sách thực hiện mô hình phát
triển bao trùm nhằm tăng cường tác động của tái cơ cấu ngành
kinh tế:
Theo yêu cầu của mô hình tăng trưởng bao trùm, các chính
sách cần được hoàn thiện theo 2 hướng: (i) Làm cho tất cả mọi
tầng lớp dân cư (giàu và nghèo, vùng động lực hay chậm phát
triển) đều được thỏa sức tham gia vào công cuộc tăng trưởng kinh
tế để hưởng lợi trực tiếp từ thành quả tăng trưởng; (ii) Thực hiện
kịp thời việc phân phối lại thành quả tăng trưởng giữa các tầng
lớp dân cư, giữa các địa phương để tạo ra một động thái tích cực
và công bằng về tiến bộ xã hội cho con người. Theo định hướng
này, cần chú ý đến: Một số chính sách nhằm tạo bình đẳng về cơ
hội tham gia vào quá trình tăng trưởng kinh tế cho mọi người: (i)
Phát triển mạnh hệ thống kết cấu hạ tầng kết nối, nhất là hệ thống
giao thông và hệ thống thông tin các vùng động lực thu hút đầu
tư với các vùng sâu vùng xa - nơi cung cấp nguồn lao động, xoá
bỏ “thế cô lập“ cho các vùng chậm phát triển; (ii) Giảm bớt tính
chất bất hợp lý đang hạn chế di cư (chính sách quản lý hộ khẩu,
công nhận quyền sử dụng đất và quyền tiếp cận các dịch vụ xã
hội của lao động di cư); (iii) Tăng cường cung cấp các dịch vụ
giáo dục, sức khỏe và xã hội tại các vùng sâu, vùng xa để họ có
đủ điều kiện về kiến thức hay tay nghề cụ thể để tham gia trực
tiếp trong việc tạo thu nhập. Một số chính sách đảm bảo sự công
bằng trong thụ hưởng các thành quả do tăng trưởng mang lại:
trong giai đoạn này cần đổi mới các chính sách lao động - xã hội,
đặc biệt là chính sách dành cho người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số, các đối tượng dễ bị tổn thương (người già, người tàn tật,
phụ nữ, trẻ em); phát triển mạng lưới an sinh xã hội (bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp thất nghiệp) nhằm đảm bảo hỗ
trợ đúng đối tượng một cách công bằng; ưu tiên đầu tư công cho
khu vực nông thôn, đặc biệt là vùng đói nghèo để tạo điều kiện
bổ sung, hỗ trợ cho nguồn vốn tư nhân do lao động di cư chuyển
về phát triển tạo việc làm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Quốc hội (2016), Nghị quyết số 24/2016/QH14 về kế hoạch cơ cấu
lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
[2] Ngô Doãn Vịnh (2011), Nguồn lực và động lực cho phát triển nhanh
và bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020, NXB Chính trị quốc
gia sự thật.
[3] Chính phủ (2018), Báo cáo đánh giá giữa kỳ thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020.
[4] Tổng cục Thống kê (từ 2011-2018), Báo cáo tình hình kinh tế - xã
hội hàng năm.
[5] Ngô Thắng Lợi, Vũ Thành Hưởng (2015), Phát triển bền vững ở Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu, NXB
Chính trị quốc gia sự thật.
[6] Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (2018), Báo cáo tình hình kinh
tế - tài chính năm 2018 và triển vọng năm 2019, Tài liệu phục vụ phiên họp
Chính phủ tháng 12/2018.
[7] WB (2018), Báo cáo cập nhật khu vực kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_co_cau_nganh_kinh_te_theo_quan_diem_phat_trien_ben_vung.pdf