Tài liệu Các cơ hội chính sách cho đổi mới sáng tạo số

Hỗ trợ đổi mới dịch vụ để được hưởng lợi hoàn toàn từ tiềm năng của các công nghệ số. Sửa đổi các sáng kiến hỗ trợ hiện có theo hướng loại bỏ nội dung đổi mới dịch vụ khỏi các hoạt động mục tiêu và thiết kế các chương trình mới để đáp ứng các nhu cầu mới xuất hiện. Khuyến khích hợp tác ĐMST. Tăng cường vai trò của trung gian cung cấp tri thức trong việc thúc đẩy tương tác và hợp tác giữa các chủ thể. Các mô hình hợp tác ĐMST có thể được nghiên cứu như các sáng kiến chia sẻ dữ liệu, nguồn lực cộng đồng và nền tảng cho hợp tác và đồng sáng tạo. Đẩy mạnh số hóa nghiên cứu công. Các ưu tiên bao gồm tăng cường kỹ năng số cho các nhà nghiên cứu, đảm bảo đầu tư phù hợp cho các công cụ số và hạ tầng nghiên cứu, cũng như khuyến khích nghiên cứu liên ngành. Xây dựng các kỹ năng số như trong lĩnh vực phân tích dữ liệu. Các cơ quan ĐMST nên hợp tác với các cơ quan giáo dục và nghiên cứu để xác định những kỹ năng mới cần thiết trong thời đại chuyển đổi số. Chính sách truy cập dữ liệu, chính sách thúc đẩy áp dụng và phổ biến công nghệ số, cùng với các chính sách hỗ trợ phát triển ứng dụng công nghệ số (trong đó các điều kiện thị trường đã kìm hãm sự phát triển của các giải pháp được định hướng bởi khu vực tư nhân) đều đòi hỏi khả năng tiếp cận theo ngành khi thiết kế các sáng kiến mới, vì những thách thức và nhu cầu mà các ngành trong các lĩnh vực này đang phải đối mặt, có sự khác biệt đáng kể.

pdf45 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Các cơ hội chính sách cho đổi mới sáng tạo số, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mới, có thể là công nghệ hoặc thương mại. Hệ thống hiện tại đã được thiết kế cho các phát minh hữu hình, được thể hiện trong các sản phẩm và quy trình vật lý. Do số hóa, hệ thống phải đối mặt với những vấn đề mới cần có phản ứng chính sách, đặc biệt bao gồm: Khuyến khích tạo ra dữ liệu. Truy cập dữ liệu thường tốt cho xã hội và việc hướng đến các hệ thống dữ liệu mở trở nên rõ nét. Tuy nhiên, các khuyến khích tạo ra dữ liệu sẽ cần có một số điều kiện loại trừ. Hệ thống SHTT nên thích ứng ra sao? Các phát minh được cấp sáng chế do AI tạo ra. Vấn đề đặt ra là ai là chủ sở hữu phát minh - lập trình viên ban đầu, người sử dụng phần mềm tạo ra sáng chế hay chủ sở hữu dữ liệu AI được áp dụng? Nếu hệ thống AI được coi là một người có hiểu biết, điều này có thể đặt ra tiêu chuẩn cao hơn nhiều về khả năng được cấp sáng chế trong một số lĩnh vực nhất định (như hóa học tổ hợp) trong đó AI hiện là công cụ nghiên cứu chính. Giảm nguy cơ sản xuất hàng giả. Việc dễ dàng phát tán các thành phần của sản phẩm vô hình có thể làm tăng nguy cơ sản xuất hàng giả. Một số phát triển công nghệ như in 3D, cho phép triển khai các phương thức chế tạo mới, làm suy yếu hệ thống bảo vệ SHTT. Các công nghệ số như blockchain thúc đẩy thực thi bảo vệ SHTT thông qua cho phép theo dõi việc sử dụng các tệp dữ liệu cụ thể nên hạn chế sản xuất hàng giả trực tuyến. Quyền SHTT được tăng cường bởi blockchain, bao trùm nhiều tài sản vô hình (như ảnh, nhạc, phim) là con đường để quyền SHTT dễ dàng được thực thi và thương mại trong nền kinh tế vô hình. Thay đổi về sử dụng SHTT. Quyền SHTT và đặc biệt là sáng chế có thể ít liên quan hơn và làm suy yếu các khuyến khích được tạo ra trong môi trường mới này. Nhờ ĐMST số, việc kiểm soát các tiêu chuẩn và dữ liệu trở nên quan trọng hơn nhiều. Tuy nhiên, thương hiệu có vai trò quan trọng mới, hỗ trợ tìm kiếm trực tuyến. Hỗ trợ phát triển các công nghệ số chung Chính sách cần hỗ trợ phát triển các công nghệ số chung (hoặc đa mục đích) nhằm thúc đẩy ĐMST và giải quyết thách thức xã hội. Các doanh nghiệp hiện đang đầu tư nhiều cho các công nghệ số đa mục đích, nhưng trong giai đoạn phát triển ban đầu, doanh nghiệp thường được chính phủ tài trợ. Đây là trường hợp của AI, được phát triển gần như độc quyền dựa vào nghiên cứu công trong hơn 5 thập kỷ, trước khi các doanh nghiệp khai thác 29 AI vào cuối những năm 2000. Do đó, chính phủ cần tiếp tục đầu tư cho các công nghệ đa mục đích để chuẩn bị cho làn sóng ĐMST trong tương lai. Chính phủ các nước cũng cần đảm bảo rằng sự phát triển của các công nghệ số đa mục đích không chỉ đáp ứng mục đích thương mại mà cả mục đích xã hội và môi trường. Ví dụ, Diễn đàn Trí tuệ nhân tạo ở New Zealand và Nền tảng hệ thống học tập ở Đức thu hút các chuyên gia ĐMST và đại diện từ ngành công nghiệp, học viện, chính phủ và xã hội tham gia thảo luận các thách thức công nghệ, kinh tế xã hội của AI (bao gồm lo ngại về vấn đề đạo đức) và cùng nhau xây dựng những lộ trình định hình các tác động của AI đến nền kinh tế và xã hội trong tương lai. 2.3. Chính sách nghiên cứu, giáo dục và đào tạo công Công nghệ số không chỉ hứa hẹn làm tăng hiệu quả của hoạt động ĐMST, mà cả hiệu quả nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau. Tiềm năng đáng chú ý nhất là khai thác dữ liệu và kỹ thuật học máy để hỗ trợ quá trình nghiên cứu trong tất cả các ngành kể cả ngành khoa học nhân văn. Các con đường khác bao gồm sự tham gia vào quá trình nghiên cứu của những người không chuyên (“khoa học công dân”), bao gồm cả “game hóa (gamification) các thử thách nghiên cứu thu hút số đông những người không chuyên triển khai thử nghiệm (ví dụ, trò chơi nổi tiếng của Fold Foldit dự đoán cấu trúc của protein). Các nhà khoa học tại các viện nghiên cứu đang áp dụng ngày càng nhiều phương pháp mới này với sự hỗ trợ của Internet và các công nghệ thông tin khác. Các phương thức chuẩn bị nghiên cứu công để đáp ứng những thách thức của thời đại số bao gồm bốn lĩnh vực sau (ngoài khoa học mở): Hỗ trợ liên ngành (đặc biệt là kết hợp khoa học máy tính với các ngành truyền thống cụ thể). Chẳng hạn, nhiều trường đại học hiện đang đào tạo bằng đại học liên ngành có nội dung số (như bằng khoa học máy tính và sinh học, bằng khoa học máy tính, kinh tế và khoa học dữ liệu của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT)). Cung cấp loại hình đào tạo cụ thể và các hoạt động xây dựng năng lực để các nhà khoa học làm chủ được các công cụ số (quản lý dữ liệu, mô phỏng, học sâu). Ngay cả các nhà khoa học không áp dụng các công cụ số thì vẫn nên có hiểu biết đủ để hợp tác với các nhà khoa học khác để sử dụng chúng. Tăng cường kỹ năng số cho các nhà nghiên cứu là một trong những mục tiêu chính của Chiến lược số hóa khu vực giáo dục đại học ở Na Uy (2017-2021). Phát triển và đầu tư cho các công cụ và hạ tầng số thiết yếu phục vụ nghiên cứu (như các nền tảng chia sẻ dữ liệu, cơ sở siêu máy tính cho AI). Ví dụ, chương trình Hạ tầng điện toán hiệu năng cao (HPCI) tại Nhật Bản, liên quan đến khoản đầu tư hơn 120 triệu USD mỗi năm cho xây dựng hạ tầng điện toán hiệu năng cao để các trường đại học và trung tâm nghiên cứu công có thể truy cập phục vụ mục đích NC&PT trong nhiều lĩnh vực. 30 Cộng tác và tạo ra “không gian” đồng sáng tạo cùng với ngành công nghiệp khai thác tiến bộ của các công nghệ số tiên tiến trong ngành để ứng dụng trong nghiên cứu và khai thác năng lực số trong ngành công nghiệp và khoa học, tiến tới chuyển giao tri thức từ khoa học sang ngành công nghiệp hoặc ngược lại. Chuẩn bị cho các cá nhân thực hiện chuyển đổi số là cần thiết để đảm bảo sự tham gia của cá nhân vào hầu hết các hoạt động kinh tế năng động, yếu tố quan trọng cho sự thịnh vượng trong tương lai. Ngoài ra, việc làm này cũng cần để đáp ứng nhu cầu lao động lành nghề có khả năng đảm nhiệm các công việc và nhiệm vụ mới trong nền kinh tế số. Chính sách giáo dục rất quan trọng với ĐMST nhưng trên phạm vi rộng hơn, liên quan đến nhiều khía cạnh chính sách khác. Các cơ quan chính sách ĐMST đóng vai trò quan trọng trong hai lĩnh vực chính. Thứ nhất, các cơ quan chính sách ĐMST nên hợp tác với các cơ quan phụ trách chính sách giáo dục và thị trường lao động để đảm bảo rằng các kỹ năng phù hợp cần cho ĐMST số đang được phát triển trong các hệ thống giáo dục chính quy, đào tạo nghề và đào tạo suốt đời. Nên tính đến việc kết hợp các kỹ năng mới theo yêu cầu của ngành trong bối cảnh mới. Chẳng hạn, ĐMST trong ngành công nghiệp ô tô đòi hỏi khả năng tốt về công nghệ phần mềm và AI, bên cạnh những năng lực cốt lõi truyền thống về kỹ thuật cơ khí và điện tử. Ví dụ về cách tiếp cận phối hợp là Sáng kiến quốc gia về năng lực số 2030 ở Bồ Đào Nha (INCoDe.2030) nhằm khái quát hóa tri thức số để đảm bảo sự hòa nhập xã hội, khuyến khích tạo việc làm và chuyên môn hóa trong các công nghệ số và tăng cường tạo ra tri thức mới trong lĩnh vực số. Thứ hai, các cơ quan chính sách ĐMST nên hỗ trợ giáo dục và đào tạo về năng lực và kỹ năng số cho các nhà quản lý cũng như công chức. Rõ ràng, kỹ năng quản lý rất quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh có sự thay đổi công nghệ đột phá. Để các dịch vụ công và quá trình hoạch định chính sách được hưởng lợi từ công nghệ số và để các chính sách giải quyết hợp lý những thách thức đặc trưng cho thời đại số, cần đào tạo cho công chức và các nhà hoạch định chính sách kỹ năng số cũng như động lực về phạm vi trực tiếp và gián tiếp của tác động chính sách. 2.4. Chính sách phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cạnh tranh, hợp tác và bao trùm ĐMST số đang làm thay đổi động lực của thị trường. Như đã đề cập ở trên, tính lỏng của dữ liệu và sự xuất hiện của các nền tảng một mặt thúc đẩy sự gia nhập và cạnh tranh thị trường, mặt khác dẫn đến sự tập trung thị trường. Điều này có thể đặt ra vấn đề về các nguyên tắc cơ bản của chính sách cạnh tranh. Chẳng hạn, rất khó xác định chính xác yếu tố nào tạo nên “vị trí thống trị”, vì các vị trí thị trường liên tục bị đe dọa bởi những người mới tham gia. ĐMST số đòi hỏi các doanh nghiệp phải có quy mô lớn để đạt được tính kinh tế theo quy mô (là lợi thế về chi phí mà các doanh nghiệp có được khi quy trình sản xuất trở 31 nên hiệu quả); do đó, các doanh nghiệp thống trị (như thông qua hành động chống động quyền mạnh mẽ) có thể làm suy giảm ĐMST. Mặt khác, một số doanh nghiệp nhỏ cho rằng các doanh nghiệp lớn thực hiện hành vi (như liên kết quảng bá hay bán sản phẩm hoặc kiểm soát phòng ngừa) có thể cản trở cạnh tranh và ĐMST vì ngăn chặn doanh nghiệp nhỏ tiếp cận thị trường. Các chính sách hỗ trợ cạnh tranh cùng với chính sách thúc đẩy hợp tác và ĐMST toàn diện, sẽ hỗ trợ nhiều doanh nghiệp tụt hậu về ĐMST (đặc biệt là DNNVV) và các khu vực (bao gồm cả khu vực nông thôn có năng lực ĐMST hạn chế). Chính sách ĐMST đóng vai trò quan trọng: 1) tác động đến các cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xem xét có nên điều chỉnh các chính sách cạnh tranh; 2) hỗ trợ hợp tác ĐMST; 3) hỗ trợ doanh nghiệp phổ biến và áp dụng công nghệ số; và 4) thực hiện các chính sách ĐMST thúc đẩy sự hòa nhập xã hội và lãnh thổ. Thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cạnh tranh Các cơ quan quản lý cạnh tranh và các nhà hoạch định chính sách ĐMST cần đối thoại giải quyết nhiều vấn đề, đáng chú ý là sử dụng dữ liệu làm nguồn lực của thị trường, cũng như khả năng cạnh tranh của thị trường về ĐMST số. Các thị trường này phải chịu tác động của ĐMST nhanh chóng (một nguồn cạnh tranh) và nhiều dạng khác nhau của nền kinh tế quy mô (một nguồn tập trung liên tục). Các chính sách mới cần xác định tầm quan trọng và sự phổ biến của nền kinh tế quy mô, đồng thời đảm bảo quyền tiếp cận bình đẳng với thị trường và nguồn lực. Cạnh tranh trên thị trường kỹ thuật số diễn ra trên quy mô toàn cầu, cần có sự hợp tác chặt chẽ. Ngoài ra cũng cần xem xét tác động không cân xứng của các công cụ và quy định về chính sách ĐMST (như hỗ trợ NC&PT, quyền SHTT) đến những chủ thể trên thị trường. Dù về nguyên tắc tất cả những chủ thể đều được tiếp cận với các công cụ này, nhưng trên thực tế lại không như vậy, ví dụ năng lực bảo vệ quyền SHTT của các doanh nghiệp tại tòa án, để hợp tác hiệu quả với các phòng thí nghiệm công hoặc tiếp cận mua sắm công. Do đó, việc cân nhắc cách các chính sách hỗ trợ tốt nhất cho tinh thần khởi nghiệp và gia nhập thị trường sẽ rất quan trọng. Hỗ trợ hợp tác đổi mới sáng tạo Hợp tác ĐMST giữa các doanh nghiệp và trường đại học, các tổ chức nghiên cứu và trong một số trường hợp là các nhà phát minh, không đặc trưng cho ĐMST số, nhưng chắc chắn có tầm quan trọng lớn hơn trong bối cảnh số. Vì thế, chính sách sẽ phải tiếp tục hỗ trợ các hệ sinh thái hợp tác ĐMST và xem xét các hình thức hợp tác theo hướng ĐMST như chia sẻ dữ liệu, nguồn lực cộng đồng và nền tảng đồng sáng tạo. Các cách tiếp cận chính sách đã được triển khai để thúc đẩy hợp tác ĐMST, bao gồm tạo các nền tảng và diễn đàn cho các chủ thể hợp tác thiết kế lộ trình và tham gia hoạch định chiến lược (như Nền công nghiệp 4.0 ở Áo); hỗ trợ các đơn vị trung gian cung cấp tri 32 thức (như Viện Fraunhofer ở Đức hoặc Trung tâm Catapult ở Vương quốc Anh); và thiết lập các trung tâm hợp tác nghiên cứu và ĐMST (như Data61 ở Úc và chương trình chế tạo của Hoa Kỳ). Một số quốc gia cũng đang sử dụng các chính sách cụm (như Sáng kiến Siêu cụm ĐMST ở Canada) và tài trợ có điều kiện cho các dự án hợp tác NC&PT và ĐMST (như dự án MADE Digital ở Đan Mạch). Hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng công nghệ số, đặc biệt là DNNVV Các doanh nghiệp (đặc biệt là DNNVV) phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc thích ứng với chuyển đổi số. Việc thích ứng không chỉ là mua máy tính và phần mềm mới: đó là thay đổi quy trình kinh doanh và thường là mô hình kinh doanh. Điều này thường đòi hỏi những khả năng chiến lược, kỹ năng mới, đầu tư vào các công nghệ mới và tái cấu trúc lớn, tất cả đều có thể gặp rủi ro. Sự biến mất của nhiều DNNVV không thể số hóa có nghĩa là mất nhiều bí quyết đặc thù cho ngành và thị trường tạo nên nguồn vốn vô hình độc đáo. Chính phủ có thể triển khai các công cụ khác nhau để hỗ trợ áp dụng công nghệ số. Các dịch vụ hỗ trợ nên được điều chỉnh theo nhu cầu cụ thể của ngành và/hoặc loại chủ thể, bao gồm các chương trình nâng cao nhận thức, đào tạo và giáo dục, trình diễn các công nghệ số mới và thành lập các tổ chức trung gian để kết nối các nhà cung cấp với người dùng công nghệ mới tiềm năng. Hỗ trợ hòa nhập xã hội và lãnh thổ Chính sách ĐMST đóng vai trò tăng cường sự tham gia của các cá nhân yếu thế vào hoạt động ĐMST. Trước đây, một số nhóm (như phụ nữ, dân tộc thiểu số, người dân tại các khu vực khó khăn) ít được thực hiện hoạt động nghiên cứu và ĐMST - xu hướng này có thể trầm trọng hơn trong bối cảnh chuyển đổi số. Với các kỹ năng và hồ sơ đa dạng cần cho ĐMST, việc phát huy tiềm năng của các nhóm người này trở nên quan trọng hơn. Các công cụ chính sách để giải quyết thách thức hòa nhập xã hội bao gồm các công cụ xây dựng năng lực (như giáo dục khởi nghiệp); giải quyết vấn đề phân biệt đối xử và khuôn mẫu (như các hoạt động nâng cao nhận thức, mô hình vai trò và các chương trình cố vấn); và dỡ bỏ các rào cản đối với tinh thần khởi nghiệp (như tạo điều kiện cho các nhóm thiệt thòi tiếp cận tài chính thông qua tín dụng vi mô hoặc tài trợ bằng vốn cổ phần, hỗ trợ phát triển kinh doanh phù hợp và thúc đẩy việc lồng ghép vào mạng lưới nghiên cứu và kinh doanh). Một số quốc gia đã áp dụng “chính sách ĐMST bao trùm”. Ví dụ tài trợ mục tiêu cho các dự án nghiên cứu do nhóm nghiên cứu yếu thể Nam Phi thực hiện; chương trình cải thiện môi trường nghiên cứu cho phụ nữ ở Nhật Bản; và sáng kiến hỗ trợ tinh thần khởi nghiệp của các cộng đồng thiểu số ở Israel... Hành động pháp lý cũng cần thiết để đảm bảo rằng ĐMST số không tạo ra hoặc làm trầm trọng thêm các thách thức hòa nhập. Ví dụ, các công cụ ra quyết định dựa vào AI sao chép các hình thức loại trừ xã hội hiện có (như các khuynh hướng chủng tộc được phát 33 hiện trong các thuật toán dự báo dùng để thông tin về các quyết định của thẩm phán) và các kỹ thuật cấu hình dữ liệu phân biệt đối xử với một số nhóm về một số dịch vụ (ví dụ, ngân hàng sử dụng truyền thông mạng xã hội và dữ liệu cá nhân khác để đưa ra đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng). ĐMST số cũng có thể mang lại lợi ích cho một số người nhiều hơn những người khác (như giao diện tương tác giữa người và máy không thể được sử dụng bởi những người mù). Tăng cường tập trung hoạt động ĐMST cho các điểm nóng ĐMST (thường là các khu đô thị) cũng đòi hỏi thực hiện các chính sách có lợi cho sự hòa nhập lãnh thổ. Các “chính sách dựa trên nền tảng xuất sắc” gián tiếp góp phần nới rộng khoảng cách giữa các khu vực dẫn đầu và khu vực tụt hậu. Do đó, các chính sách dựa vào nền tảng xuất sắc nên được bổ sung bằng các chính sách có lợi cho tính bao trùm và đa dạng về địa lý. Cần tập trung đẩy mạnh ĐMST ở cấp địa phương/khu vực, dựa vào những thế mạnh cụ thể của khu vực và các tài sản so sánh (như phương pháp Chuyên môn hóa thông minh trong EU). 2.5. Các nguyên tắc cho chính sách đổi mới sáng tạo trong thời đại số Các nguyên tắc sau rất quan trọng đối với chính sách ĐMST để hỗ trợ tốt nhất cho hoạt động ĐMST: 1) xây dựng các chính sách quốc gia trong bối cảnh thị trường toàn cầu; 2) thu hút sự tham gia của người dân để giải quyết các mối quan tâm chung về công nghệ; và 3) lấy quan điểm của ngành khi thiết kế các chính sách ĐMST khi cần thiết. Đặt chính sách quốc gia trong bối cảnh thị trường toàn cầu Số hóa tạo điều kiện lưu thông tri thức kể cả qua biên giới quốc gia, làm giảm khả năng của chính phủ trong việc giới hạn lợi ích của các chính sách với riêng quốc gia. Vì thế, thách thức đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách quốc gia là làm thế nào để đảm bảo cho người dân (và người nộp thuế) được hưởng lợi từ các chính sách quốc gia và hầu hết các lợi ích (như tạo thu nhập, lợi ích tăng năng suất hoặc tạo việc làm) không bị phân tán ra nước ngoài? Vấn đề này trước đây đã được đặt ra trong bối cảnh tài trợ nghiên cứu cơ bản và các biện pháp hỗ trợ NC&PT cho doanh nghiệp. Trường hợp các công ty khởi nghiệp thành công được hưởng lợi từ sự hỗ trợ của chính phủ, nhưng sau đó được các công ty đa quốc gia nước ngoài mua lại, đã đặt ra vấn đề về vị trí của các lợi ích phát sinh từ các công ty khởi nghiệp này. Ngoài ra còn có nguy cơ xuất hiện hệ sinh thái khép kín nếu các chính sách mang tính dân tộc cao. Đồng thời, nhiều vấn đề bắt nguồn từ việc chia sẻ lợi ích khi khai thác dữ liệu quốc gia (như từ hệ thống y tế công cộng) với các công ty đa quốc gia nước ngoài. Sự thể hiện của giá trị trong tài sản vô hình (tài sản trí tuệ), đặc điểm vô hình của các sản phẩm kỹ thuật số được giao dịch qua biên giới và sự phổ biến của thanh toán điện tử đều tạo điều kiện thuận lợi cho sự lưu thông nguồn thu, dẫn đến tạo nên các thiên đường thuế (thuế rất thấp hoặc miễn thuế). Cách chính phủ giải quyết vấn đề lãnh thổ, không chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả mà cả tính hợp pháp của các chính sách. Giải pháp hợp tác là cần thiết cho phép 34 chia sẻ giữa các quốc gia về lợi ích phát sinh từ các luồng dữ liệu và tri thức quốc tế liên quan đến chính sách quốc gia. Thu hút người dân tham gia giải quyết lo ngại liên quan đến công nghệ Việc người dân chấp nhận các công nghệ mới là một khía cạnh quan trọng khác của chính sách đổi ĐMST. Chuyển đổi số đã thu hút nhiều sự chú ý của báo chí và cộng đồng, đôi khi có quan điểm tiêu cực như liên quan đến sự rò rỉ dữ liệu cá nhân và mối đe dọa của robot tiếp quản công việc. Điều đó làm tăng đáng kể tình trạng nghi ngờ và phản đối các công nghệ số mới. Để giải quyết lo ngại của người dân, chính phủ các nước và cộng đồng khoa học phải nâng cao nhận thức của người dân dựa vào bằng chứng về các cơ hội, rủi ro và tác động của công nghệ số. Đây là những nội dung được xem xét theo cách phù hợp trong việc hoạch định chính sách. Trong bối cảnh này, tư vấn của các tổ chức nghiên cứu và khoa học được xem là đáng tin cậy và không thiên vị và chính sách công tạo phản ứng đối với những lo ngại mới của người dân (như bằng cách tăng cường bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu, hỗ trợ phát triển các ứng dụng vì lợi ích công). Tham vấn người dân trong quá trình phát triển chiến lược chuyển đổi số và các chính sách liên quan khác có thể giúp tăng niềm tin. Không có sự tham gia của người dân có thể dẫn đến nguy cơ người dân phản ứng dữ dội vào một thời điểm nào đó trong tương lai, gây tác động tiêu cực đến việc phát triển và áp dụng các công nghệ số và lợi ích của chúng. Áp dụng cách tiếp cận theo ngành để hoạch định chính sách khi cần thiết Một số lĩnh vực chính sách yêu cầu thực hiện cách tiếp cận theo ngành khi thiết kế các sáng kiến mới, vì những thách thức và nhu cầu mà các ngành trong một số lĩnh vực nhất định phải đối mặt, có sự thay đổi đáng kể. Cách tiếp cận này đặc biệt phù hợp trong ba lĩnh vực chính sách. Thứ nhất, chính sách truy cập dữ liệu nên xem xét tính đa dạng của các loại dữ liệu được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau; tính đa dạng đó báo hiệu sự khác biệt đáng kể về các thách thức liên quan đến việc tạo ra, truy cập và khai thác dữ liệu. Thứ hai, các chính sách phổ biến và áp dụng công nghệ số phải được điều chỉnh theo khả năng của ngành và/hoặc loại chủ thể và giải quyết các thách thức đặc thù của ngành (như đảm bảo quyền truy cập vào hạ tầng cơ bản như băng thông rộng trong trường hợp nông nghiệp). Thứ ba, hỗ trợ phát triển các ứng dụng theo ngành của các công nghệ số đa mục đích rất quan trọng để lan toả lợi ích trên toàn nền kinh tế. Bước đầu, cần có sự hỗ trợ phù hợp cho các lĩnh vực hoạt động trong bối cảnh số thông qua xây dựng các cơ chế tăng cường sự “thông minh của chính sách”. Các cơ chế này bao gồm xây dựng lộ trình hoặc kế hoạch cho các lĩnh vực chiến lược quan trọng trong nước, cùng phối hợp với các bên liên quan của ngành công nghiệp và các đối tác xã hội. Các kế hoạch sẽ xây dựng tầm nhìn dài hạn, xác định những thách thức và cơ hội hiện tại 35 và từ đó đưa ra hành động cần thiết. Tại Úc, các kế hoạch cạnh tranh theo ngành, được phát triển bởi sáu Trung tâm tăng trưởng công nghiệp đặc thù cho ngành có sự tham khảo ý kiến của các bên liên quan nhằm cung cấp thông tin cho việc hoạch định chính sách và cộng đồng nghiên cứu khoa học về nhu cầu tri thức của ngành và khoảng cách công nghệ và đề xuất một loạt cải cách pháp lý. Các kế hoạch này được điều chỉnh hàng năm cho phù hợp với sự phát triển mới của ngành. Kế hoạch hợp tác giữa chính phủ và ngành công nghiệp có tên Sector Deal tại Vương quốc Anh đi theo cách tiếp cận tương tự. Các ví dụ trong lĩnh vực ô tô bao gồm Lộ trình nghiên cứu, phát triển và ĐMST của Áo cho xe tự động và lộ trình ô tô HTSM Hà Lan 2018-25. Các quốc gia cũng đang thực hiện các dự báo để phát hiện những thách thức chính sách dài hạn liên quan đến chuyển đổi số. Những hoạt động này bao gồm sự phối hợp của chính phủ với các bên liên quan, viện nghiên cứu để xây dựng nhiều kịch bản khác nhau và được sử dụng để thúc đẩy đối thoại và cùng xác định những thách thức chính sách dài hạn cũng như rào cản pháp lý và yếu tố hỗ trợ phổ biến công nghệ số. Ví dụ, tại Úc, Data61 - hợp tác với Bộ Công nghiệp, Đổi mới và Khoa học (DIIS) - đã xây dựng các kịch bản dự báo để khám phá cách ĐMST số làm thay đổi các doanh nghiệp và nền kinh tế của quốc gia trong thập kỷ tới. III. CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHỔ BIẾN VÀ HỢP TÁC ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SỐ 3.1. Hỗ trợ áp dụng và phổ biến công nghệ số Công nghệ số mới đang phát triển nhanh, nhưng không lan tỏa đều trong toàn bộ nền kinh tế. Những thách thức (như thiếu thông tin, kỹ năng, chuyên môn, nguồn lực hoặc niềm tin vào công nghệ mới) không chỉ ảnh hưởng đến việc áp dụng công nghệ trước đây mà cả hiện nay, góp phần nới rộng khoảng cách năng suất giữa các doanh nghiệp đi đầu và doanh nghiệp tụt hậu trong kỷ nguyên số, gây tác động xấu đến sự thịnh vượng và tăng trưởng. Do đó, các sáng kiến hỗ trợ phổ biến và áp dụng công nghệ số trong nền kinh tế trở thành trụ cột của hỗn hợp chính sách ĐMST nhằm thúc đẩy tăng trưởng theo định hướng ĐMST bao trùm (trong đó, tất cả các chủ thể có thể tham gia và hưởng lợi từ ĐMST số). Chính phủ các nước đang thử nghiệm các cách tiếp cận chính sách mới để tiếp tục áp dụng và phổ biến công nghệ số. Các sáng kiến này nhằm đẩy mạnh: 1) nâng cao nhận thức và xây dựng năng lực; 2) đầu tư công nghệ số; 3) trình diễn và thử nghiệm các công nghệ mới; và 4) tiếp cận các công nghệ tiên tiến nhất như AI. Hai mục tiêu đầu gần như hướng vào DNNVV, trong khi hai mục tiêu sau chủ yếu nhằm vào các doanh nhân và công ty khởi nghiệp ĐMST mục tiêu. Ngoài ra, một số sáng kiến áp dụng kết hợp các công cụ này. Ví dụ, Trung tâm Năng lực DNNVV 4.0 của Đức hỗ trợ nâng cao nhận thức và đào tạo về kỹ thuật số, cơ hội tiếp cận trình diễn công nghệ mới và cơ hội kết nối mạng. 36 (1) Nâng cao nhận thức và xây dựng năng lực Kế hoạch nâng cao nhận thức được triển khai tại nhiều quốc gia để thông tin cho các doanh nghiệp và doanh nhân về những cơ hội mà công nghệ số mang lại. Cách tiếp cận ĐMST dựa vào chính các công nghệ số, sử dụng các bản đồ ảo do Pháp, Đức và Nhật Bản lập ra, cho thấy sự tham gia của DNNVV thuộc các lĩnh vực khác nhau vào chuyển đổi công nghiệp 4.0. Các bản đồ này cho phép chia sẻ kinh nghiệm trực tiếp những lợi ích và thách thức mà các doanh nghiệp phải đối mặt và cách giải quyết. Mục tiêu là để truyền cảm hứng cho các doanh nghiệp tham gia chuyển đổi số thông qua phổ biến các bài học kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp và lĩnh vực. Các chương trình này thường đi kèm với sự hỗ trợ phù hợp đặc thù cho từng ngành để nâng cao năng lực của các doanh nghiệp nhằm áp dụng thành công các công nghệ số. Tại Chi-lê, Trung tâm Mở rộng Kỹ thuật số hỗ trợ kỹ thuật cho DNNVV trong lĩnh vực nông sản nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh bằng cách số hóa các quy trình sản xuất. Hình thức hỗ trợ bao gồm đánh giá năng lực của doanh nghiệp, xác định các giải pháp công nghệ số hiệu quả nhất cho từng trường hợp và triển khai các giải pháp và đảm bảo sử dụng tốt nhất. Chương trình DNNVV kỹ thuật số tại Áo cung cấp hoạt động giáo dục và đào tạo phù hợp để củng cố kỹ năng số cho DNNVV. Chương trình CAP’TRONIC tại Pháp triển khai tổ chức các hội thảo kỹ thuật, đào tạo, dịch vụ tư vấn và hỗ trợ chuyên gia giúp DNNVV sử dụng các giải pháp số và ứng dụng phần mềm vào trong các sản phẩm của họ. Nhiều công cụ chính sách truyền thống được sử dụng theo cách sáng tạo, bao gồm phiếu ĐMST - các khoản tài trợ nhỏ không hoàn lại cấp cho DNNVV để mua dịch vụ từ các nhà cung cấp tri thức công, sẽ giúp giới thiệu hoạt động ĐMST trên quy mô nhỏ. Ví dụ, chương trình phiếu giao dịch trực tuyến ở Ai-len hỗ trợ DNNVV phát triển khả năng thương mại điện tử thông qua cung cấp tài trợ 2.500 EUR. Phiếu thiết kế dịch vụ cho DNNVV thuộc ngành chế tạo ở Hà Lan là kế hoạch thử nghiệm giúp DNNVV phát triển các dịch vụ liên quan đến sản phẩm của họ để duy trì khả năng cạnh tranh trong bối cảnh gia tăng “dịch vụ hóa ngành chế tạo”. Tại Wallonia (Bỉ), phiếu chuyển đổi số bao gồm khoảng 50% - 75% chi phí dịch vụ tư vấn nhằm kiểm soát mức độ sẵn sàng số hóa và nhu cầu của DNNVV, sau đó, xây dựng kế hoạch hành động phù hợp. (2) Hỗ trợ tài chính cho đầu tư công nghệ số Chính phủ các nước đã xây dựng cơ chế hỗ trợ tài chính giúp trang trải thường xuyên các khoản đầu tư hạ tầng quy mô lớn cần cho DNNVV tham gia hoàn toàn vào chuyển đổi số. Tại Hàn Quốc, Chương trình DNNVV chế tạo thông minh giúp DNNVV hiện đại hóa các cơ sở sản xuất thông qua tài trợ 50% chi phí áp dụng công nghệ số. Pháp đã xây dựng kế hoạch Digital Loan để cấp tiền đầu tư cho các doanh nghiệp áp dụng công nghệ số. Các khoản vay dao động từ 200.000 EUR đến 3 triệu EUR và cần phù hợp với khoản đối ứng tương đương để được hoàn trả sau 7 năm. 37 (3) Trình diễn và thử nghiệm các công nghệ số mới Một số quốc gia đã thành lập các cơ sở mới để trình diễn công nghệ số. Đây là phương tiện tăng khả năng ứng dụng công nghệ số. Chẳng hạn, Trung tâm Năng lực DNNVV 4.0 ở Đức tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận với các cuộc trình diễn công nghệ của công nghiệp 4.0 và các ứng dụng dành riêng cho ngành (như in 3D và cảm biến). Các cơ sở trình diễn công nghệ thường được đặt tại các trường đại học, cho phép mô phỏng các quy trình sản xuất và kinh doanh trong môi trường thực. Đặc biệt, các quốc gia đang nghiên cứu những phương pháp mới hỗ trợ thử nghiệm phát triển và ứng dụng công nghệ số mới, tồn tại ở nhiều dạng khác nhau: Các cơ sở thử nghiệm - Nền tảng Công nghiệp 4 FVG, được xây dựng tại vùng Friuli- Venezuelaia ở Ý, cung cấp quyền truy cập vào thiết bị thử nghiệm, công cụ tạo mẫu và phòng thí nghiệm trình diễn. Các nhà máy thí điểm cũng đã được thành lập tại một số trường đại học của Áo (như Đại học Công nghệ Wien, Đại học Công nghệ Graz và Đại học Johannes Kepler Linz), nơi DNNVV có cơ hội thử nghiệm các công nghệ và quy trình sản xuất mới nhưng không gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất tại các cơ sở của họ. Mạng lưới phòng thí nghiệm công nghiệp 4.0 là sáng kiến của khu vực tư nhân cung cấp cho DNNVV ở Đức quyền truy cập vào các trung tâm thử nghiệm để triển khai thử nghiệm các mô hình kinh doanh, ĐMST và công nghệ mới mới, sau đó cân nhắc trước khi tung ra thị trường. Ngoài ra, các trung tâm thử nghiệm cũng tạo điều kiện cho quá trình chuẩn hóa các kết quả được xác thực. Môi trường thử nghiệm - Môi trường thử nghiệm trong đó các phát triển công nghệ mới có thể được thử nghiệm trong điều kiện kiểm soát nhưng gần như trong thế giới thực, rất quan trọng đối với nghiên cứu và ĐMST trong các lĩnh vực như lái xe tự động và cho phép đẩy nhanh áp dụng công nghệ số mới. Tại Phần Lan, một số môi trường thử nghiệm đang được thiết lập để phát triển theo hướng mở các giải pháp giao thông, bao gồm xe tự lái và hạ tầng giao thông thông minh. Nhiều quốc gia khác đã hoặc đang xây dựng các cơ sở thử nghiệm xe tự lái, bao gồm Áo (ALP.Lab, DigiTrans), Đức (A9 Digitale Autobahn) và Thụy Điển (AstraZero). Tại Vương quốc Anh, Chương trình Môi trường thử nghiệm do Cơ quan Dịch vụ Y tế quốc gia (NHS) phối hợp với ngành công nghiệp công bố vào năm 2016. Môi trường này cho phép thử nghiệm ĐMST (như kết hợp các thiết bị số mới như cảm biến, màn hình, thiết bị đeo trên người với phân tích dữ liệu) và các phương pháp mới để cung cấp dịch vụ được hỗ trợ bởi công nghệ số nhằm đánh giá hiệu quả của chúng và xác định hành động cải tiến cần thiết. Sau đó, ĐMST thành công được áp dụng cho NHS và các tổ chức chăm sóc y tế trên cả nước. Hiện có 5 môi trường thử nghiệm chăm sóc y tế và 2 môi trường thử nghiệm IoT. Cơ chế thử nghiệm pháp lý - Đưa ra phương thức hạn chế từ bỏ quyền pháp lý hoặc tạo sự linh hoạt cho các doanh nghiệp thử nghiệm sản phẩm hoặc mô hình kinh doanh mới 38 với các yêu cầu pháp lý được giảm bớt, trong khi vẫn đảm bảo một số biện pháp bảo vệ như bảo vệ người tiêu dùng. Cơ chế thử nghiệm pháp lý giúp xác định và phản ứng tốt hơn với tình trạng vi phạm pháp lý và tăng cường khả năng thích ứng pháp lý. Cơ chế thử nghiệm này đặc biệt phù hợp với các ngành được kiểm soát chặt chẽ như dịch vụ tài chính, vận tải, năng lượng và y tế. Cơ quan Quản lý tài chính tại Vương quốc Anh đã đi tiên phong về cách tiếp cận này với việc công bố cơ chế pháp lý công nghệ tài chính để khuyến khích ĐMST trong lĩnh vực công nghệ tài chính. Cơ chế thử nghiệm cung cấp điều kiện cho doanh nghiệp thử nghiệm các sản phẩm và dịch vụ ĐMST trong môi trường được kiểm soát mà không phải chịu hậu quả pháp lý của các dự án thí điểm. Các thử nghiệm khác về công nghệ tài chính khác được triển khai ở Úc, Canada, Hồng Kông, Malaxia và Singapo. Trong lĩnh vực năng lượng, Cơ quan Thị trường năng lượng và khí đốt của Anh đã tạo ra dịch vụ Liên kết ĐMST, đơn vị một cửa tư vấn nhanh quy định về năng lượng cho các doanh nghiệp muốn ra mắt sản phẩm hoặc mô hình kinh doanh mới. Khi rào cản pháp lý cản trở việc tung ra một sản phẩm hoặc dịch vụ có lợi cho người tiêu dùng, thì cơ chế thử nghiệm pháp lý có thể được cấp phép thử nghiệm. Cơ quan thị trường năng lượng tại Singapo cũng đã đưa ra cơ chế thử nghiệm pháp lý để thúc đẩy ĐMST trong lĩnh vực năng lượng. (4) Tiếp cận hầu hết các công nghệ tiên tiến và chuyên môn Một số sáng kiến thú vị như các dự án do Cơ quan Digital Catapult tại Vương quốc Anh khởi xướng nhằm tạo điều kiện áp dụng sớm các công nghệ số tiên tiến và đảm bảo cho các chuyên gia ĐMST tiếp cận với các cơ sở hiện đại. Các dự án này chủ yếu hướng đến các doanh nghiệp ĐMST nhất (như các công ty khởi nghiệp số quy mô nhỏ), giúp họ nhận ra các cơ hội ĐMST trong các lĩnh vực mới và có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trên toàn cầu. Tại một số quốc gia thành viên EU, các trung tâm tính toán hiệu năng cao (HPC) đã được thành lập có sự kết nối với chương trình Chuyên môn siêu máy tính cho mạng lưới DNNVV để tạo điều kiện cho ngành công nghiệp (đặc biệt là DNNVV) tiếp cận với chuyên môn tính toán hiệu năng cao. Chương trình cũng phổ biến các thực tiễn tốt nhất để sử dụng chuyên môn tính toán hiệu năng cao trong ngành công nghiệp. 3.2. Thúc đẩy hợp tác đổi mới sáng tạo Cần có chính sách tiếp tục hỗ trợ các hệ sinh thái ĐMST và xem xét các hình thức hợp tác theo hướng ĐMST như chia sẻ dữ liệu, khai thác nguồn lực cộng đồng và đồng sáng tạo. Dưới đây là các cách tiếp cận chính sách và công cụ ĐMST nhằm hỗ trợ các hệ sinh thái hợp tác ĐMST, bao gồm: (1) Nền tảng và diễn đàn hoạch định chiến lược Gần đây, chính phủ của một số quốc gia thường phối hợp với ngành công nghiệp xây dựng các nền tảng hoặc diễn đàn mới nhằm khuyến khích các bên liên quan hợp tác thiết 39 kế lộ trình và tham gia hoạch định chiến lược chuyển đổi số trong các ngành cụ thể hoặc trong toàn bộ nền kinh tế. Các nền tảng này gây tranh cãi xoay quanh tác động kinh tế-xã hội của ĐMST số và nhằm vừa tạo ra một tầm nhìn chung, vừa đưa ra các khuyến nghị hoặc kế hoạch hành động cân bằng chính sách và ngành công nghiệp. Ví dụ, nền tảng công nghiệp 4.0 ở Áo thu hút các chủ thể từ ngành công nghiệp và khoa học, các nhà hoạch định chính sách khu vực và quốc gia, các hiệp hội, công đoàn và tổ chức phi chính phủ để cân bằng lợi ích giữa các chủ thể, đi kèm các quá trình thay đổi do chuyển đổi số tạo ra và cung cấp tri thức và dịch vụ Công nghiệp 4.0 cho các doanh nghiệp, học viện, tổ chức nghiên cứu và người dân. Nền tảng đó xác định các lĩnh vực hành động và tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách ở Áo phát triển các chiến lược chung để được hưởng lợi từ Công nghiệp 4.0. Các ví dụ tương tự bao gồm Nền tảng công nghiệp 4.0 ở Đức, Sáng kiến chuỗi giá trị công nghiệp ở Nhật Bản và Nền tảng chuyển đổi số trong ngành công nghiệp ở Thổ Nhĩ Kỳ Một số diễn đàn tập trung vào các công nghệ hoặc lĩnh vực cụ thể; đây là trường hợp của Diễn đàn Trí tuệ nhân tạo ở New Zealand. Diễn đàn này được thành lập vào năm 2017, tập hợp các chuyên gia ĐMST công nghệ AI, các nhóm nhà đầu tư, doanh nghiệp, doanh nhân, viện nghiên cứu và chính phủ để xác định và hỗ trợ các cơ hội AI ở New Zealand. Diễn đàn thực hiện nghiên cứu cung cấp hiểu biết và thông tin để định hướng tranh cãi về các cơ hội, thách thức và tác động tiềm năng của AI ở trong nước. Báo cáo mới nhất có tiêu đề: “Trí tuệ nhân tạo: Định hình tương lai New Zealand”, bao gồm một loạt các khuyến nghị chính sách. Ví dụ tương tự là Nền tảng của hệ thống học tập ở Đức. (2) Đơn vị hỗ trợ hợp tác Tổ chức trung gian Các tổ chức trung gian kết nối chủ thể trong các hệ sinh thái ĐMST (chuyên gia ĐMST, doanh nghiệp lớn, DNNVV, nhà đầu tư) và thúc đẩy kết nối và hợp tác nghiên cứu và ĐMST. Trung tâm Catapult ở Vương quốc Anh là một mạng lưới gồm 10 trung tâm độc lập, phi lợi nhuận, kết nối các doanh nghiệp với cộng đồng nghiên cứu và học thuật của đất nước. Mỗi trung tâm hướng vào một lĩnh vực công nghệ chiến lược mà Vương quốc Anh có tiềm năng phát triển lớn. Các tổ chức trung gian cung cấp không gian với các phương tiện và chuyên môn cho phép doanh nghiệp và nhà nghiên cứu hợp tác giải quyết các vấn đề cốt yếu và phát triển thương mại sản phẩm và dịch vụ mới. Bênh cạnh đó, các doanh nghiệp cũng được hỗ trợ tiếp cận thị trường nước ngoài, tạo và duy trì việc làm giá trị cao và thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp công nghệ toàn cầu. Các trung tâm tăng trưởng công nghiệp ở Úc cũng đặt mục tiêu xây dựng các hệ thống công nghiệp mạnh mẽ thông qua các quá trình hợp tác, được định hưởng bởi ngành công nghiệp. Sáu trung tâm độc lập, phi lợi nhuận tập trung tăng cường hợp tác và thương mại hóa ĐMST trong các lĩnh vực cụ thể và cải thiện khả năng tiếp cận chuỗi cung ứng toàn cầu và các cơ hội quốc tế. 40 Mạng lưới Một số quốc gia hỗ trợ xây dựng mạng lưới ĐMST thúc đẩy tương tác và phối hợp giữa các chủ thể trong và giữa các ngành. Mạng lưới chuyển giao tri thức do cơ quan Đổi mới sáng tạo của Anh xây dựng, giúp liên kết doanh nghiệp giữa các ngành để giải quyết vấn đề và tìm thị trường cho các ý tưởng mới, đồng thời tạo điều kiện tiếp cận với tri thức kỹ thuật và năng lực ĐMST. Mạng lưới ĐMST cũng tạo điều kiện tiếp cận với những lời kêu gọi tài trợ công của Anh và EU, đòi hỏi hợp tác giữa các bên liên quan. Trong năm 2017, mạng lưới đã tổ chức hơn 400 sự kiện với hơn 20.000 người tham gia. Nền tảng số cũng thúc đẩy xây dựng các mạng lưới tăng cường hợp tác nghiên cứu trong ngành công nghiệp. Trên nền tảng đó, các tổ chức nghiên cứu công và trường đại học có thể quảng bá các phát minh, tri thức và năng lực và doanh nghiệp đăng tải các nhu cầu riêng. Sau đó, hai bên trao đổi và đưa ra thỏa thuận. Đặc biệt, nền tảng này hỗ trợ các doanh nhân nhỏ thông qua mở ra những cơ hội để xác định thị trường ngách phù hợp. Ví dụ, cơ sở dữ liệu Expert Connect do mạng lưới Data61 ở Úc xây dựng, chứa hồ sơ về hơn 45.000 chuyên gia nghiên cứu và kỹ thuật từ các tổ chức nghiên cứu của Úc. Cụm Một số sáng kiến mới áp dụng cách tiếp cận theo lãnh thổ nhằm thúc đẩy hợp tác nghiên cứu và ĐMST giữa các chủ thể của vùng trong ngành chế tạo hoặc lĩnh vực công nghệ cụ thể; tăng khả năng cạnh tranh của các chủ thể ở cấp quốc gia và quốc tế; và đảm bảo chuyển giao tri thức khoa học-công nghiệp. Ví dụ, Cụm chuyển đổi số (Cap Digital) của Pháp tại Paris thu hút các DNNVV, tổ chức nghiên cứu và giáo dục đại học trong các ngành công nghiệp số. Sáng kiến này tạo các mối liên kết và thúc đẩy hợp tác nghiên cứu, cũng như cung cấp hoạt động đào tạo và tài trợ cho các dự án NC&PT cùng với các hoạt động khác cho các thành viên. Cụm Công nghệ thông tin và truyền thông của Estonia thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNTT&TT và các lĩnh vực khác để phát triển sản phẩm và giải pháp mới. Cụm này hỗ trợ doanh nghiệp trong ba phạm vi: quốc tế hóa (như tổ chức các chuyến thăm quan doanh nghiệp và các hoạt động liên quan đến xuất khẩu, tham gia các dự án ĐMST quốc tế); phát triển lực lượng lao động (như thông qua đào tạo, dự báo nhu cầu kỹ năng của lực lượng lao động); và hợp tác (như hỗ trợ hoạt động nghiên cứu giữa các đối tác của cụm và tìm kiếm các đối tác bên ngoài). Các ví dụ khác bao gồm Sáng kiến siêu máy tính ĐMST ở Canada, Sáng kiến trung tâm kỹ thuật số ở Đức, Cụm nhà máy thông minh ở Bologna (Ý) và Trung tâm kỹ thuật số ở Dublin, (Ai-len). (3) Trung tâm hợp tác nghiên cứu và đổi mới sáng tạo Một số quốc gia đã xây dựng mạng lưới trung tâm nghiên cứu để các nhóm đa ngành gồm các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp nhà nước cùng phối hợp giải quyết những thách thức công nghệ cụ thể. Các trung tâm này không chỉ cung cấp không gian hợp tác và đồng 41 sáng tạo mới, mà còn nổi bật về cấu trúc tổ chức ĐMST, thường phù hợp với các hoạt động kinh doanh ĐMST áp dụng các phương thức nhanh nhậy và tạo ra môi trường giống như khởi nghiệp. Data61 (CSIRO) là trung tâm NC&PT kỹ thuật số lớn nhất ở Úc. Nhiệm vụ của trung tâm là đưa nước này đi đầu về ĐMST dựa vào dữ liệu, bằng cách thực hiện nghiên cứu cơ bản và ứng dụng mới trên thế giới và hợp tác với các chủ thể khác trong hệ sinh thái ĐMST quốc gia. Data61 có 4 trục hợp tác: hợp tác với các đơn vị kinh doanh khác của CSIRO để cung cấp NC&PT đa ngành và chuyên môn khoa học dữ liệu trên các lĩnh vực hợp tác với các trường đại học thông qua quan hệ đối tác nghiên cứu; thỏa thuận chiến lược và phối hợp cùng với chính phủ đồng tài trợ cho nghiên cứu sinh tiến sỹ trong lĩnh vực chuyển đổi dịch vụ số và phân tích chính sách, đặc biệt trong lĩnh vực dữ liệu mở; đóng vai trò là cố vấn đáng tin cậy và đẩy mạnh phát triển công nghệ; hỗ trợ NC&PT theo hợp đồng và hợp tác định hướng chiến lược với ngành công nghiệp để chuyển đổi ý tưởng vào trong các doanh nghiệp dựa vào dữ liệu, bao gồm các chương trình nhằm vào DNNVV và các công ty khởi nghiệp như trong lĩnh vực cấp phép công nghệ, đối tác NC&PT, tăng tốc ĐMST và tiếp cận chuyên môn. Để tăng độ nhanh nhạy và thu hút tài năng số, Data61 đã áp dụng cách tiếp cận “văn hóa khởi nghiệp” và “thị trường lôi kéo” (market pull): các cơ cấu tổ chức được nâng lên (nghĩa là ít trung gian và tự chủ cao hơn) và những người chỉ đạo nghiên cứu được khuyến khích thử nghiệm ý tưởng mới và chấp nhận rủi ro trong khi duy trì kết nối đầy đủ với các mục tiêu chiến lược của tổ chức. “Mô hình thử thách” cũng được đưa vào để kích thích các nhóm đa ngành giải quyết thách thức xã hội và kinh doanh trên quy mô lớn. Đặc trưng khác của ĐMST là mô hình tài trợ hỗn hợp của Data61 để cân bằng các nguồn tài trợ công nhằm tăng năng lực thực hiện nghiên cứu cơ bản và chiến lược tự định hướng. Không gian thử nghiệm Smart Industry Fieldlabs ở Hà Lan là kết quả của mối quan hệ hợp tác công-tư tạo không gian thực hay không gian số cho các doanh nghiệp thành viên và tổ chức nghiên cứu cùng phát triển, thử nghiệm và thực hiện các giải pháp công nghệ của ngành công nghiệp thông minh (như trong lĩnh vực tự động hóa, chế tạo không khiếm khuyết, sản xuất linh hoạt, tạo ra giá trị dựa vào dữ liệu lớn, in 3D và robot). 32 không gian thử nghiệm Fieldlabs thường bao gồm những người sử dụng các giải pháp này, các nhà cung cấp tiềm năng và viện nghiên cứu tri thức, tích cực hợp tác nghiên cứu, xác thực khái niệm, tạo mẫu, thử nghiệm và xác nhận. Fieldlabs đảm bảo cách tiếp cận liên ngành và liên kết nghiên cứu với các lĩnh vực mà Hà Lan có thế mạnh. Fieldlabs không có cấu trúc phân cấp và đi theo cách tiếp cận dựa vào dự án. Chương trình Chế tạo của Hoa Kỳ đã thành lập các viện nghiên cứu Đổi mới chế tạo trên khắp đất nước Hoa Kỳ. Trong mỗi viện nghiên cứu, các nhà sản xuất ở mọi quy mô hợp tác với học viện và chính phủ để chia sẻ và giải quyết những thách thức về công nghệ sản xuất tiên tiến và lực lượng lao động liên quan đến ngành công nghiệp và để xây dựng hạ tầng NC&PT quốc gia bền vững và mạnh mẽ cho chế tạo để tăng năng lực cạnh tranh 42 công nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Mỗi viện nghiên cứu có mức độ tập trung công nghệ duy nhất và được thành lập để trở thành tổ chức thành viên công-tư đưa ra tầm nhìn, định hướng và nguồn lực cho các tổ chức thành viên. Các đối tác công nghiệp, học viện và chính phủ đang được hưởng lợi từ các nguồn lực hiện có, hợp tác và cùng đầu tư để nuôi dưỡng đổi mới chế tạo và tăng tốc thương mại hóa. Các ví dụ khác bao gồm Flanders Make ở Bỉ, Chương trình Trung tâm công nghệ ở Ai-len và Trung tâm Năng lực công nghệ ở Estonia. (4) Nguồn lực cộng đồng, thách thức mở và phòng thí nghiệm sống; Cùng với xu hướng kinh doanh hướng đến các phương thức ĐMST mở, chính phủ các nước cũng đang khai thác các cơ chế như nguồn lực cộng đồng, thách thức mở và phòng thí nghiệm sống để tìm kiếm các giải pháp ĐMST cho những thách thức cấp bách và phát triển khả năng đồng sáng tạo. Citizenscience.gov là sáng kiến do Chính phủ Hoa Kỳ đưa ra nhằm thúc đẩy sử dụng nguồn lực cộng đồng để thu hút người dân tham gia giải quyết các nhu cầu xã hội và thúc đẩy ĐMST. Trang web này cũng cung cấp công cụ khai thác nguồn lực cộng đồng và khoa học cộng đồng đưa ra cách lập kế hoạch, thiết kế và thực hiện dự án và một số nghiên cứu điển hình. Những thách thức mở được sử dụng ngày càng nhiều để khuyến khích ĐMST. Ví dụ, Nền tảng đổi mới thách thức xã hội (ra đời nhờ tài trợ của chương trình EU Horizon 2020) khuyến khích các chuyên gia đổi mới xã hội và doanh nhân đề xuất các giải pháp sáng tạo để các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp tư nhân hoặc tổ chức phi chính phủ giải quyết những thách thức xã hội và môi trường và đăng tải trên nền tảng này. Các sự kiện Pit Stop do Digital Catapult (Vương quốc Anh) tổ chức, khuyến khích đổi mới mở bằng cách tập hợp các doanh nghiệp lớn, DNNVV, công ty khởi nghiệp và viện nghiên cứu để giải quyết các thách thức công nghệ cụ thể. Khả năng của các công ty khởi nghiệp công nghệ đột phá và các chủ thể khác trong việc giải quyết những thách thức đó được xác định thông qua các cuộc gọi mở trực tuyến. Phòng thí nghiệm sống được định nghĩa là hệ sinh thái “đổi mới mở, tập trung vào người dùng, tích hợp các quá trình nghiên cứu và ĐMST trong cộng đồng và môi trường sống thực tế”. Đây là các khu vực thử nghiệm trong môi trường đô thị, trong đó các bên liên quan hợp tác phát triển các giải pháp hỗ trợ công nghệ mới. Smart Kalasatama ở Helsinki là ví dụ về phòng thí nghiệm sống đã thu hút người dân cùng tham gia sáng tạo các dịch vụ đô thị mới được sự hỗ trợ của các công nghệ số và dữ liệu. Tại Antwerp (Bỉ), “Thành phố vạn vật” đang được phát triển thông qua xây dựng một mạng lưới dày đặc các cảm biến thông minh và cổng không dây trong các tòa nhà, đường phố và đồ vật. Dữ liệu thu thập có thể được các doanh nghiệp sử dụng để tạo ra các ứng dụng ĐMST thông minh. (5) Hỗ trợ tài chính cho hợp tác NC&PT Các công cụ khác được sử dụng để khuyến khích hợp tác bao gồm tài trợ cho các dự án hợp tác NC&PT và ĐMST như sáng kiến MADE Digital ở Đan Mạch. Khuyến khích hợp tác nghiên cứu cũng là một trong những mục tiêu chính của chương trình Nghiên cứu- 43 Sáng tạo-Đổi mới ở Hy Lạp, cung cấp tài trợ cho nghiên cứu và ĐMST trong các lĩnh vực quan trọng, trong đó CNTT&TT là yếu tố then chốt để tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia. Quỹ Thách thức chiến lược công nghiệp tại Vương quốc Anh hỗ trợ hợp tác khoa học - công nghiệp để cùng nhau tìm giải pháp cho các thách thức xã hội, môi trường và công nghiệp lớn được chính phủ xác định cùng với ngành công nghiệp và viện nghiên cứu. KẾT LUẬN Tác động của chuyển đổi số đến ĐMST dẫn đến sự thích ứng của các chính sách ĐMST trong kỷ nguyên số để ứng phó với những thách thức mới. Bốn thách thức mới đối với việc hoạch định chính sách cần được ưu tiên giải quyết, bao gồm: 1. Xây dựng chính sách truy cập dữ liệu. Đây là nội dung cần được tất cả các quốc gia coi là ưu tiên chính. Chính sách truy cập dữ liệu rất quan trọng, vì dữ liệu là đầu vào cốt lõi cho ĐMST và truy cập dữ liệu ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực chính sách như chính sách hỗ trợ ĐMST, chính sách nghiên cứu công và chính sách cạnh tranh. Không có cách tiếp cận duy nhất cho chính sách truy cập dữ liệu, vì các cơ hội và thách thức giữa các loại dữ liệu khác nhau. Nguyên tắc chung là các chính sách truy cập dữ liệu phải đảm bảo khả năng truy cập dữ liệu và tri thức rộng nhất có thể để hỗ trợ cạnh tranh và ĐMST, đồng thời tôn trọng các hạn chế về quyền riêng tư dữ liệu, cân nhắc về đạo đức, chi phí và lợi ích kinh tế và SHTT. Các chính sách nên xem xét tính đa dạng của các loại dữ liệu, cũng như sự đa dạng về lợi ích và mục tiêu thông qua cung cấp nhiều hình thức truy cập và quyền dữ liệu khác nhau cho chủ sở hữu dữ liệu. 2. Tăng khả năng phản ứng và tính linh hoạt của các chính sách trong bối cảnh đang thay đổi nhanh chóng, mang lại nhiều cơ hội để mở rộng hoặc từ bỏ các thử nghiệm chính sách quy mô nhỏ tùy theo các tác động được đánh giá. Sử dụng các công cụ số để thiết kế và giám sát các mục tiêu chính sách cũng có thể đẩy nhanh quá trình ra quyết định hiệu quả hơn. Các chương trình được định hướng bởi nhiệm vụ đề ra mục tiêu mà không phải là các phương tiện để đạt được mục tiêu, cũng có thể làm tăng tính linh hoạt. 3. Hỗ trợ phát triển công nghệ ứng phó với những thách thức xã hội và thu hút sự tham gia của người dân để tăng niềm tin và giải quyết mối lo ngại của người dân về các công nghệ số mới bằng cách đưa ra quy định (mang tính dự báo) cần để đảm bảo rằng các công nghệ và ứng dụng mới không gây thiệt hại cho lợi ích công. 4. Xem xét bản chất toàn cầu của một số thách thức cấp bách ảnh hưởng đến ĐMST (như truy cập dữ liệu) khi thiết kế và cải cách các chính sách quốc gia. Điều đó sẽ liên quan đến khuyến khích hành động chung và hơp tác xuyên quốc gia. Một số lĩnh vực chính sách ĐMST khác cũng cần được xem xét lại để ứng phó hiệu quả hơn với những thách thức mới như: Tạo điều kiện cho sự khuếch tán công nghệ số để đẩy mạnh việc áp dụng trong thời đại số. Các cơ sở trình diễn, môi trường thử nghiệm và cơ chế thử nghiệm pháp lý (nghĩa 44 là các cơ chế thử nghiệm sản phẩm hoặc mô hình kinh doanh mới với các yêu cầu pháp lý giảm tải) là các công cụ ĐMST khuyến khích thử nghiệm và áp dụng công nghệ số. Hỗ trợ đổi mới dịch vụ để được hưởng lợi hoàn toàn từ tiềm năng của các công nghệ số. Sửa đổi các sáng kiến hỗ trợ hiện có theo hướng loại bỏ nội dung đổi mới dịch vụ khỏi các hoạt động mục tiêu và thiết kế các chương trình mới để đáp ứng các nhu cầu mới xuất hiện. Khuyến khích hợp tác ĐMST. Tăng cường vai trò của trung gian cung cấp tri thức trong việc thúc đẩy tương tác và hợp tác giữa các chủ thể. Các mô hình hợp tác ĐMST có thể được nghiên cứu như các sáng kiến chia sẻ dữ liệu, nguồn lực cộng đồng và nền tảng cho hợp tác và đồng sáng tạo. Đẩy mạnh số hóa nghiên cứu công. Các ưu tiên bao gồm tăng cường kỹ năng số cho các nhà nghiên cứu, đảm bảo đầu tư phù hợp cho các công cụ số và hạ tầng nghiên cứu, cũng như khuyến khích nghiên cứu liên ngành. Xây dựng các kỹ năng số như trong lĩnh vực phân tích dữ liệu. Các cơ quan ĐMST nên hợp tác với các cơ quan giáo dục và nghiên cứu để xác định những kỹ năng mới cần thiết trong thời đại chuyển đổi số. Chính sách truy cập dữ liệu, chính sách thúc đẩy áp dụng và phổ biến công nghệ số, cùng với các chính sách hỗ trợ phát triển ứng dụng công nghệ số (trong đó các điều kiện thị trường đã kìm hãm sự phát triển của các giải pháp được định hướng bởi khu vực tư nhân) đều đòi hỏi khả năng tiếp cận theo ngành khi thiết kế các sáng kiến mới, vì những thách thức và nhu cầu mà các ngành trong các lĩnh vực này đang phải đối mặt, có sự khác biệt đáng kể. Trung tâm Thống kê và Phân tích Thông tin Tài liệu tham khảo 1. OECD (2019), Digital Innovation: Seizing Policy Opportunities, OECD Publishing, Paris. https://doi.org/10.1787/a298dc87-en 2. Guellec, D. and C. Paunov (2018), “Innovation policies in the digital age”, OECD Science, Technology and Industry Policy Papers, No. 59, OECD Publishing, Paris. https://doi.org/10.1787/eadd1094-en. 3. Paunov, C. and S. Planes-Satorra (2019), “The impacts of digital transformation on innovation across sectors” (working title), OECD Science, Technology and Industry Policy Papers, OECD Publishing, Paris. 4. Planes-Satorra, S. and C. Paunov (2019), “The digital innovation policy landscape in 2019” (working title), OECD Science, Technology and Industry Policy Papers, OECD Publishing, Paris.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftai_lieu_cac_co_hoi_chinh_sach_cho_doi_moi_sang_tao_so.pdf
Tài liệu liên quan