Thông qua việc phân tích tổng quan của đổi mới sáng tạo xanh, tổng luận đã làm rõ vai44
trò, cơ sở pháp lý và các mục tiêu chính sách cho đổi mới sáng tạo xanh. Bên cạnh đó,
những chiến lược quốc gia, các công cụ chính sách và một số ưu tiên phát triển đổi mới
sáng tạo xanh cũng như công nghệ sử dụng và đặc biệt là rào cản trong việc thu hút công
nghệ đổi mới xanh đã được giới thiệu một cách cụ thể, sâu sắc. Cùng với việc giới thiệu
chính sách đổi mới sáng tạo của các nước đang phát triển và các nước phát triển, tổng luận
còn đánh giá tình hình thực hiện đổi mới sáng tạo xanh nhằm hướng tới phát triển kinh tế
xanh ở Việt Nam.
Theo Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định 403 ngày 20/3/2014, một trong những mục tiêu Chiến lược tăng
trưởng xanh hướng đến là nghiên cứu ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ tiên tiến,
nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính,
góp phần ứng phó hiệu quả với BĐKH. Để phát triển đất nước bền vững, công nghệ xanh
sẽ là nhân tố quyết định cho việc tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy phát triển bền vững; giảm
sử dụng năng lượng hóa thạch.
Đổi mới công nghệ hướng tới phát triển kinh tế xanh là hướng đi đúng và phù hợp với xu
thế phát triển mới của doanh nghiệp hiện nay, không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp
mà còn mang lại hiệu quả của nền kinh tế xét trong dài hạn để chuyển đổi sang nền kinh tế
xanh. Trong bối cảnh Hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, nhất là tới đây Việt Nam
tham gia Hiệp định tự do thương mại với châu Âu và Hiệp định xuyên Thái Bình Dương -
TPP, nếu doanh nghiệp sớm đổi mới công nghệ phù hợp với các tiêu chuẩn cao của thế giới,
doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tham gia vào thị trường khu vực và toàn cầu.
44 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh của một số quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên lãng
Các nước có khả năng công nghệ yếu kém và không có lợi thế cạnh trạnh trong tạo ra
các công nghệ mới thì không nên cống hiến nguồn lực công quan trọng cho mục tiêu này.
28
Tuy nhiên, do tính toàn cầu của các lợi ích từ sáng kiến xanh, việc sử dụng năng lực nhà
nước ổn định và lâu dài vào NC&PT cần được tăng và chuyển vào các chương trình tạo
điều kiện cho sự phát triển và áp dụng công nghệ trong bối cảnh đất nước đang phát triển.
Quỹ giải thưởng là một trong những cơ chế sức kéo nhu cầu, để thúc đẩy công nghệ ở
mức toàn cầu cho các nhu cầu của các quốc gia có khả năng công nghệ thấp hơn, và cho cán
cân thanh toán (BoP) và các nhu cầu bị bỏ quên. Thông thường, một giải thưởng được công
bố trước sẽ được trao cho bất cứ ai có sáng tạo đáp ứng các mục tiêu đã định, Quỹ giải
thưởng thích hợp nhất khi các đối tượng đã được xác định rõ nhưng các công nghệ vẫn
chưa được biết. Các nhà nghiên cứu chỉ có được sự đảm bảo trở lại, trên nguyên tắc là nếu
nghiên cứu thành công trước các đối thủ thì có nhiều khả năng hơn để thu xếp thời gian và
trang trải các chi phí cho các nguồn lực khác,. Các giải thưởng có thể được thiết kế để thanh
toán chỉ khi kết quả cụ thể được đưa ra. Độ lớn và số lượng giải thưởng có thể điều chỉnh
bởi tính mới lạ và mức độ đóng góp của sáng kiến. Giống như các bằng sáng chế cũng là
một hình thức của giải thưởng, đây là các giải thưởng chung hơn được phân cấp và tự lựa
chọn. Tuy nhiên, một khi các giải thưởng đã được trao, các kiến thức đã được phát triển sẽ
được sử dụng miễn phí, phổ biến rộng rãi và sử dụng bởi mọi đối tượng. Một giải thưởng có
tỷ lệ làm các phần thưởng tỉ lệ thuận với các tác động đo được của bất kỳ sáng tạo thành
công nào, cung cấp các ưu đãi cho các lĩnh vực công cộng và tư nhân để gạo ra các bằng
chứng về kết quả của sáng kiến đó, đo được bằng mức độ ứng dụng và cải thiện sản phẩm -
mặc dù chi phí kiểm toán và thẩm tra có thể tương đối cao. Lý tưởng nhất là quá trình trao
giải nên yêu cầu tiết lộ thông tin về sáng kiến, để sau đó nó có thể được phổ biến rộng rãi.
Những quỹ giải thưởng như vậy rất thích hợp cho việc khuyến khích các đổi mới sáng tạo
xanh triệt để hơn có khả năng được bồi dưỡng không phải thông qua tiếp cận NC&PT theo
cách truyền thống mà thông qua những cách tư duy sáng tạo mới bao gồm đồng sáng tạo và
hợp tác thiết kế bởi các nhà khoa học, kỹ sư, doanh nhân, các nhà sản xuất và người sử
dụng từ các quy tắc khác.
Cam kết trước thị trường (AMC) là một cơ chế cầu kéo khác bổ sung cho các giải
thưởng. Các AMC thích hợp nhất khi các đặc điểm chính của công nghệ mong muốn được
biết đến và có thể quy định rõ trong hợp đồng. Bằng AMC hoặc bảo lãnh mua hàng, các tổ
chức quốc tế tài trợ, chính phủ và/hoặc cơ sở tư nhân thực hiện một cam kết trong hợp đồng
ràng buộc pháp lý ở một mức giá định trước để mua một số lượng nhất định sản phẩm đủ
điều kiện khi sản phẩm đó xuất hiện trên thị trường, mà không phải người thắng có quyền
yêu cầu tất cả. Theo đề xuất của Barder, Kremer và Williams (2006), AMC có thể được
phân chia: ví dụ, một quốc gia có thu nhập thấp có thể cam kết một phần của giá mua và các
nhà tài trợ có thể tạo nên sự khác biệt. Các hợp đồng cũng có thể bao gồm các quy định yêu
cầu các nhà sản xuất để cấp giấy phép công nghệ của họ sau khi số lượng thỏa thuận ở trên
đã được mua, hoặc để bán các đơn vị khác nữa với giá thấp.
Trong thí điểm thế giới thực đầu tiên của cơ chế này, một nhóm các Chính phủ và tổ
chức tư nhân trong năm 2007 cam kết dành 1,5 tỷ USD cho vắc xin Phế cầu AMC. Loại
29
vắc xin phế cầu này được chọn vì nó có ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, là loại vắc xin đã phát
triển phù hợp cho các nước đang phát triển và AMC có thể đẩy nhanh tốc độ đưa sản phẩm
ra thị trường. Mặc dù từ trước đến nay các AMC được áp dụng để cung cấp giá cả phải
chăng cho dịch vụ y tế ở các nước có thu nhập thấp, cách tiếp cận này có thể được áp dụng
theo cách tương tự để kích thích sự sáng tạo và tiếp cận rộng rãi tới các giải pháp xanh có
giá cả phù hợp, ví dụ như một loại cây lương thực chủ lực bổ sung dinh dưỡng hoặc công
nghệ lưu trữ được cải thiện trong bối cảnh khan hiếm đất và nước, biến đổi khí hậu và giảm
sản lượng mùa màng.
1.3. Những kết nối quốc tế cho sáng tạo xanh
Các khía cạnh quốc tế của sáng tạo xanh
Tăng trưởng xanh và sáng tạo xanh có tính toàn cầu cũng như quốc gia. Thực tế là, đổi
mới diễn ra trong nền kinh tế toàn cầu hóa (dọc theo chuỗi giá trị toàn cầu), mặt khác,
những ảnh hưởng từ bên ngoài của các yếu tố tiêu cực toàn cầu do biến đổi khí hậu và suy
thoái môi trường nên việc sáng tạo và phổ biến các sáng tạo xanh không phải là vấn đề của
riêng một quốc gia hoặc khu vực duy nhất .
Sự phát triển và phổ biến các sáng kiến xanh ở cấp thế giới đòi hỏi sự hợp tác quốc tế
trong một loạt các lĩnh vực chính sách, đặc biệt là các quy định về môi trường. Trong khi
nhiều cuộc thảo luận vẫn tập trung vào các vấn đề như giảm phát thải toàn cầu, các biện
pháp chính sách và thị trường để đạt được điều này, thì cần nhắc lại rằng đối với nhiều nước
đang hội nhập và phát triển, chính sách tập trung ở các vấn đề phát triển kinh tế, ví dụ như
nghèo đói, năng lượng, an ninh lương thực và tiếp cận nguồn nước. Trong nhiều trường
hợp, điều này làm cho các nước đó bị phụ thuộc vào việc xuất khẩu các nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Công nghệ xanh có thể giúp những nước này đạt được mục tiêu phát triển trong
khi vẫn giữ được trữ lượng và mức độ xuất khẩu các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Gần gũi hơn với thị trường cho công nghệ xanh, hợp tác quốc tế là cần thiết cho việc
thiết lập các tiêu chuẩn toàn cầu về công nghệ môi trường và năng lượng, các quy định về
môi trường trong sản xuất công nghiệp, chính sách thương mại và các nhiệm vụ triển khai
công nghệ. Ngày nay, ví dụ như, các nhà sản xuất bóng đèn tiết kiệm năng lượng phải đối
mặt với những tiêu chuẩn khác nhau ở các thị trường khác nhau. Kết quả là tác động đến giá
thành và sự tiếp nhận và phổ biến những sản phẩm tiết kiệm năng lượng như vậy. Về mặt
cung ứng, các chiến lược hợp tác bao gồm: tích hợp và đồng hợp tác NC&PT trong mạng
lưới quốc tế và cam kết tài trợ; phối hợp và hài hòa các ưu tiên và chương trình nghiên cứu;
các sáng kiến chuyển giao công nghệ; giao lưu quốc tế về công nghệ thông tin và khoa học
kỹ thuật trong đó có tính linh hoạt của các nhà nghiên cứu. Trong số nhiều lợi ích nhận thức
được là: hiệu quả - chi phí thông qua việc chia sẻ chi phí và các nỗ lực giảm trùng lặp; phát
triển khả năng tiếp nhận; và tích lũy kiến thức bổ sung bằng cách kết hợp những thế mạnh
so sánh của các quốc gia khác nhau.
Tuy nhiên, khó khăn cũng có thể xảy ra đối với hợp tác quốc tế: thiếu tính liên tục của
nguồn vốn tại thời điểm ngân sách bị hạn chế; các lợi ích và gánh nặng không cân xứng với
30
nhau; thiếu sự tham gia do không có đủ ưu đãi cho từng quốc gia, chẳng hạn như cơ chế
chuyển giao công nghệ không rõ ràng; thiếu tổng thể về hợp tác và tầm nhìn chiến lược;
chồng chéo giữa các thỏa thuận và chương trình.
Do sự phức tạp của các thách thức, các chiến lược được bổ sung liên quan nhiều hơn đến
lĩnh vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức từ thiện, và các bên liên quan khác
trong việc ưu tiên và chuyển giao khoa học và các sáng kiến và việc sử dụng các cơ chế tài
chính mới (ví dụ như chứng khoán hóa, chia sẻ rủi ro) để cung cấp ưu đãi cho các sáng kiến
toàn cầu và địa phương.
Chuyển giao công nghệ xanh ở cấp quốc tế
Đảm bảo phổ biến rộng rãi các công nghệ xanh cũng quan trọng như việc phát minh ra
chúng, đặc biệt là trong việc giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu. Tốc độ triển khai,
chẳng hạn như của các công nghệ phát thải cácbon thấp hiện có, sẽ phần nào xác định chi
phí toàn cầu cho giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Các chuyển giao quốc tế của công nghệ xanh vẫn diễn ra chủ yếu giữa các nước đã phát
triển. Tuy nhiên, những số liệu mới đây đã chỉ ra rằng các chuyển giao công nghệ từ các nước
thuộc OECD sang các nước không thuộc OECD vẫn đang tăng dần trong các năm qua. Riêng
Trung Quốc chiếm tới ba phần tư các chuyển giao giảm nhẹ biến đổi khí hậu từ nước thuộc
OECD sang nước không nằm trong OECD. Ngoài ra còn có tiềm năng đáng kể cho những
trao đổi lớn hơn giữa các nền kinh tế không nằm trong OECD, đặc biệt là từ khi công nghệ từ
các nền kinh tế mới nổi có thể thích hợp hơn cho các nhu cầu của các nước đang phát triển.
Việc áp dụng và chính sách môi trường hợp lý đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy phổ biến các công nghệ quốc tế, vì nó góp phần vào việc rạo ra các thị trường cho các
sáng kiến sinh thái và cung cấp cho các doanh nghiệp những biện pháp khuyến khích để
tiếp thu công nghệ mới. Thật vậy, các nước công nghiệp phát triển có các quy định về môi
trường tiên tiến hơn đã thu hút nhiều chuyển giao công nghệ hơn.
Tuy nhiên, việc thiếu các chính sách môi trường nghiêm ngặt tại các nước đang phát triển
không phải là cách giải thích duy nhất cho tỉ lệ thấp hơn của các chuyển giao công nghệ tới
các nước này, mà do mức độ phổ biến thấp của tất cả các công nghệ. Các yếu tố tổng quát
hơn chẳng hạn như sự cởi mở cho thương mại và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, chất lượng
của hệ thống SHTT, và khả năng tiếp thu của địa phương (ví dụ như khả năng của con người)
cũng góp phần giải thích tại sao phổ biến công nghệ chỉ tập trung ở các nước đã phát triển.
Phát triển, áp dụng và chuyển giao công nghệ là cốt lõi của các thảo luận hiện tại xung
quanh các thỏa thuận sau giai đoạn Nghị định thư Kyoto. Thật vậy,theo Lộ trình Bali năm
2007, phát triển và phổ biến công nghệ là mục tiêu chiến lược, từ đó đã mở đầu một cuộc
tranh luận về các chính sách phù hợp và vai trò của các cơ chế kèm theo, chẳng hạn như Cơ
chế Phát triển Sạch (CDM). Các công việc đang tiến hành (Hascic và Johnstone, 2009) cho
thấy sự tham gia của các nước chủ nhà trong các dự án CDM đã khuyến khích chuyển giao
các công nghệ giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Thế nhưng không hề ngạc nhiên khi vai trò của
CDM trong việc thúc đẩy những chuyển giao như vậy là tương đối nhỏ so với các yếu tố
31
khác. Đặc biệt là, khả năng tiếp nhận trong nước dường như đóng một vai trò quan trọng nổi
bật - những nước có năng lực công nghệ quốc nội cao có nhiều khả năng để nhập khẩu công
nghệ từ nước ngoài hơn.
Kể từ khi chuyển giao công nghệ diễn ra thông qua các kênh thị trường như thương mại,
FDI hay giấy phép ủy quyền, chúng xảy ra thường xuyên hơn giữa các nền kinh tế mở. Vẫn
còn nhiều rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với thương mại trong công nghệ xanh, tuy
nhiên, nó cũng kiềm chế dòng chảy tự do thương mại. Ở một số nền kinh tế đang phát triển và
mới nổi, thực hiện đánh thuế nhập khẩu cao đối với các loại hàng hóa tiêu thụ năng lượng, ví
dụ như điều hòa không khí và tủ lạnh, kết hợp với trợ cấp giá điện để khuyến khích người tiêu
dùng ủng hộ các thiết bị có giá rẻ, nhưng điều đó tương đối không có hiệu quả.
Hạ thấp rào cản đối với thương mại dịch vụ cũng rất quan trọng. Triển khai các công
nghệ giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu thường phụ thuộc vào sự sẵn có của các
dịch vụ chuyên ngành, bao gồm cả các dịch vụ nhập khẩu từ các nước khác, nhất là các dịch
vụ kinh doanh, xây dựng, môi trường và năng lượng. Đầu tư từ nước ngoài cũng rất quan
trọng và là sự hưởng ứng với một môi trường kinh doanh lành mạnh bao gồm các định chế
kinh tế và quản trị thích hợp.
Căng thẳng có thể nảy sinh giữa các phổ biến công nghệ và duy trì những ưu đãi phù hợp
để đầu tư đổi mới và trầm trọng hơn do những mong muốn chuyển giao công nghệ sạch tới
các nước mới nổi trước khi họ tiến hành đầu tư ồ ạt vào các công nghệ có thể là công nghệ
bẩn. Quyền sở hữu trí tuệ cung cấp một động lực quan trọng để đầu tư vào đổi mới bằng
cách cho phép các doanh nghiệp thu hồi chi phí đầu tư của họ.
Bằng chứng thực nghiệm cho thấy việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả là một
phương tiện để thúc đẩy truyển giao công nghệ tới các nước đang phát triển, khi các nhà
cung cấp công nghệ ở nước ngoài phải đối mặt với mối đe dọa bị các đối thủ cạnh tranh ở
địa phương bắt chước theo. Cũng theo đó, bảo vệ quyền SHTT mạnh hơn sẽ khuyến khích
FDI và cấp giấy phép ủy quyền, việc này bên cạnh việc chỉ đơn giản xuất khẩu thiết bị hoặc
hàng hóa còn có thể tạo ra chuyển giao công nghệ ngoài mong đợi.
Nhìn chung, có những bằng chứng mạnh mẽ rằng các quốc gia cần năng lực tiếp nhận để áp
dụng thành công các công nghệ nước ngoài. Khả năng nhân lực trong nước càng cao thì mức
độ chuyển giao công nghệ từ nước ngoài sẽ càng lớn, cũng như các địa phương sẽ nhận được từ
thương mại và FDI càng nhiều. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách giáo dục
và xây dựng năng lực dài hạn trong việc thúc đẩy chuyển giao công nghệ.
Để phổ biến công nghệ xanh cho các nước đang phát triển, cần cân nhắc đến các hành
động đa phương để giảm thiểu chi phí của các công nghệ xanh ở những nước này, ví dụ
bằng cách thu hồi chi phí nhượng quyền, hay thậm chí mua lại bằng sáng chế đối với các
công nghệ chủ chốt. Kinh nghiệm thu được trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như y tế,
cho thấy điều này sẽ có tác dụng nếu được thiết kế tốt và có cả sự tham gia của khu vực tư
nhân từ khi mới bắt đầu. Việc khuyến khích tất cả các quốc gia và doanh nghiệp xây dựng
kiến thức thu được từ các nghiên cứu cơ bản thành một hệ thống bởi các viện nghiên cứu
32
nhà nước cũng sẽ có tác dụng. [1]
2. Đổi mới sáng tạo xanh ở một số nước phát triển
2.1. Hàn Quốc
2.1.1. Những đổi mới xanh mang tính hệ thống ở Hàn Quốc từ năm 2008 đến nay
Một mặt, những thay đổi này phát triển nhanh chóng bằng cách tận dụng đặc trưng và
sức mạnh của quốc gia như: lập kế hoạch và thực hiện chính sách theo định hướng nhà
nước. Mặt khác, các chính sách được thúc đẩy bởi sự bắt kịp với những thay cùng lúc trên
toàn cầu hướng đến thân thiện với trái đất và thân thiện với môi trường của đất nước và dẫn
đến những chiến lược phát triển xanh.
Từ quan điểm của đổi mới hệ thống, những thay đổi hệ thống được điều tra trong trường
hợp nghiên cứu này được tóm tắt trong ba lĩnh vực thể hiện trong Bảng 1. Ở cấp độ trung, các
hệ thống chức năng được vật chất hóa với các hệ thống năng lượng xanh carbon thấp. Trong
quan điểm cung cấp, những thử nghiệm trên hệ thống mới được thực hiện, trong khi như cho
nhu cầu các chương trình công và tư dẫn đến những thay đổi trong tiêu dùng và công nghiệp.
Đổi mới công nghệ căn bản ủng hộ những thay đổi này bao gồm các yếu tố như hỗ trợ
chính sách NC&PT của chính phủ và giới thiệu những công nghệ, sản phẩm xanh và các hệ
thống chứng nhận DNNVV. Ở cấp vĩ mô, chính phủ Hàn Quốc thúc đẩy chính sách tăng
trưởng xanh bằng cách hỗ trợ quản trị rộng rãi của chính phủ và các chương trình quốc gia.
Bảng 1. Quan điểm đa cấp về phân tích đổi mới hệ thống xanh ở Hàn Quốc [5]
Cấp trung gian của hệ
thống chức năng
Đổi mới công nghệ căn
bản
Vĩ mô và ngoại tác
Hệ thống năng lượng
xanh cacbon thấp
Các công nghệ xanh
(năng lượng mới và
năng lượng tái tạo)
Chiến lược quốc gia cho
phát triển xanh
Đẩy mạnh cung
Những thử nghiệm băng
thử
Các chương trình
NC&PT công nghệ xanh
Chiến dịch xanh
Giáo dục xanh
Thúc đẩy cầu
Ủng hộ nhu cầu cá nhân
về nhà và toàn nhà xanh
Các kế hoạch năng
lượng mới
Support of private
Các chứng nhận xanh
(công nghệ, sản phẩm,
DNNVVs)
(techs, products,
DNNVVs)
Ưu đãi thuế
RPS(Tiêu chuẩn năng
lượng tái tạo)
Phương pháp
tiếp cận phối
hợp
- Giới thiệu năng lượng
tái tạo
- Chương trình thành
phố xanh cacsbon thấp
- Băng thử lưới điện
thông minh
- Thị trường hàng đầu
(định hướng xuất khẩu)
- Vận hành hệ thống đổi
mới khu vực
- Hợp tác đa thể chế
- Chương trình phát triển
xanh
- Toàn bộ Ban điều phối
tiếp cận chính phủ (Ủy
ban thủ tướng về phát
triển xanh)
33
Các tiếp cận đa diện đã hỗ trợ Hàn Quốc, đã từng đứng ngoài các cuộc thảo luận về biến
đổi khí hậu, trở thành nước dẫn đầu trong các quá trình chuyển đổi có hệ thống dựa trên công
nghệ xanh. Những nỗ lực về chuyển đổi xanh đã được phổ biến trong toàn xã hội, bao gồm cả
cá nhân, doanh nghiệp, các ngành công nghiệp, xã hội dân sự và các khu vực.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều yếu tố cản trở quá trình chuyển đổi xanh của quốc gia. Trong số
những yếu tố khác, giá năng lượng thấp và phân phối khí đá phiến sét như một trở ngại đối
với việc mở rộng các nhà máy điện năng lượng tái tạo, và các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp
nhiều khó khăn trong việc tạo ra thị trường và cạnh tranh được dựa trên đổi mới công nghệ
xanh dẫn đến cung. Bảo đảm sự trưởng thành của các tổ chức phi chính phủ liên quan đến
quá trình chuyển đổi xanh và thúc đẩy các chương trình quốc gia do chính phủ dẫn đầu trong
hợp tác và quan hệ đối tác với các xã hội dân sự mà vẫn còn những thách thức chính sách
quan trọng.
2.1.2. Định hình đổi mới hệ thống xanh
"Bức tranh lớn" về đổi mới hệ thống xanh được đưa ra trong chiến lược được phát triển bởi
Ủy ban Tổng thống về tăng trưởng xanh (PCGG) trong năm 2009, đặt mục tiêu giải quyết
vấn đề biến đổi khí hậu và triển khai đổi mới xanh và phát triển công nghiệp như các công cụ
phát triển mới. Chiến lược này đã được phát triển như kế hoạch quốc gia mở rộng của chính
phủ từ việc bắt đầu và cung cấp các mục tiêu chuyển đổi khả thi rõ ràng và các phương pháp
cho mỗi lĩnh vực của hệ thống xanh.
Từ quan điểm thiết lập chế độ xanh, chiến lược phát triển xanh hỗ trợ việc tạo đà cho quá
trình đổi mới hệ thống bằng cách trình bày những định hướng cho quá trình chuyển đổi xanh
trong các lĩnh vực chức năng. Các lĩnh vực trongcơ chế xanh có thể được chia thành: 1) chính
trị và chính sách; 2) kinh doanh và công nghiệp; 3) xã hội và văn hóa; 4) Khoa học và công
nghệ; và 5) Thị trường và tiêu dùng.
Mặc dù các điểm khởi đầu và mức độ thay đổi khác nhau tùy theo lĩnh vực, các lĩnh vực
này đã tiến hành xây dựngcơ chế xanh trong bảy năm qua.
Bảng 2. Các lĩnh vực bao gồm cơ chế xanh và những thay đổi chính trong từng lĩnh vực [5]
Lĩnh vực cơ chế xanh Những thay đổi chính
1. Chính trị và chính
sách
Hướng dẫn chính trị mạnh mẽ về tăng trưởng xanh; tiếp tục thể hiện sự
ủng hộ chính trị; Chiến lược tăng trưởng xanh; Xây dựng các tổ chức
công và tổ chức quốc tế về tăng trưởng xanh.
2. Kinh doanh và công
nghiệp
Xanh hóa trong sản xuất; mở rộng đổi mới xanh; xây dựng thương hiệu
xanh
3. Xã hội và văn hóa
Tiết kiệm năng lượng, giáo dục xanh và những thay đổi khác trong đời
sống hàng ngày; tăng quá trình chuyển đổi xanh ở các tổ chức phi chính
phủ (NGO); các chiến dịch về chuyển đổi xanh được khuyến khích ở
cấp cộng đồng địa phương; nâng cao nhận thức của cộng đồng về biến
đổi khí hậu và môi trường.
4. Khoa học và công
nghệ
Mở rộng NC&PT công nghệ xanh; Khuyến khích phát triển CNTT&TT
từ các khía cạnh của đổi mới xanh.
34
Chiến lược phát triển xanh đã có một cách tiếp cận toàn diện, được kết nối giữa các lĩnh
vực thuộc cơ chế xanh nhằm giúp mỗi giải pháp chính sách hoạt động trong những lĩnh vực
này. Theo kế hoạch đánh giá tăng trưởng xanh năm 2010, 26 trong số 36 bộ và cơ quan
thuộc chính phủ trung ương đã thực hiện các chương trình chính sách tăng trưởng xanh
(PMO & PCGG, 2010). Được đưa ra rằng, trước năm 2008,chính sách môi trường và chính
sách năng lượng tái tạo đã được bao gồm một phần bởi chỉ vài cơ quan chính phủ như Bộ
môi trường và công nghiệp, phương pháp tiếp cận mở rộng của chính phủ sau năm 2009 có
sự thay đổi quan trọng trong việc quản trị.
Thiết lập cơ chế xanh có nghĩa là những người chơi khác nhau được tham gia vào các
quá trình đổi mới có hệ thống xanh, do đó tạo ra một sự thay đổi lớn. Trong giai đoạn đầu
thúc đẩy các chương trình quốc gia về tăng trưởng xanh, chính phủ, lĩnh vực công, các viện
NC&PT và các doanh nghiệp đã là những người chơi chủ chốt trong liên minh xanh. Trong
quá trình xây dựngcơ chế xanh, xã hội dân sự ngày càng quan tâm đến phát triển xanh và
các cộng đồng địa phương và các tổ chức tình nguyện đã bắt đầu chuyển đổi sang cơ chế
xanh. Sau những thay đổi này, các vấn đề xanh được thảo luận chỉ trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường, được phát triển thành chương trình nghị sự quốc gia về tăng trưởng xanh và các
vấn đề về tương lai bền vững trong xã hội dân sự.
Mặc dù những vấn đề này, công chúng đã có công nhận rất tích cực về phát triển xanh và
các xã hội dân sự ngày càng tham gia nhiều hơn. Mặc dù chính phủ, các doanh nghiệp và xã
hội dân sự đã có sự công nhận khác nhau về quá trình chuyển đổi có hệ thống xanh (Yun và
Won, 2012), hơn 80% số người được hỏi trong một cuộc khảo sát, 1000 người đã trả lời
rằng chiến lược phát triển xanh đã góp phần giải quyết vấn đề về biến đổi khí hậu và khắc
phục khủng hoảng năng lượng, và hơn 90% cho rằng chiến lược phát triển xanh nên tiếp tục
(PCGG, 2013).
2.1.3. Những tác nhân điều chỉnh sự thay đổi có hệ thống và những rào cản
Các tác nhân điều chỉnhđổi mới hệ thống xanh được chia thành 2: yếu tố bên ngoài và
yếu tố bên trong. Các yếu tố bên ngoài là những xu hướng lớn mà làm thay đổi hệ thống và
gây ra những cú sốc cực mạnh ví dụ như cạnh tranh ngày càng khốc liệt ởcác thị trường
trong nước và quốc tế. Những yếu tố bên trong là hành vi của con người trong đổi mới hệ
thống nhằm tạo ra những kết nối giữa các khu vực.
Các yếu tố trực tiếp bên ngoài, mà góp phần vào việc xây dựng chiến lược phát triển
xanh ở Hàn Quốc, là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu ở Mỹ trong năm 2007 và
lan rộng đến châu Âu, và sau đó là Hàn Quốc vào năm 2008. Cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu đã dẫn đến sự sụt giảm GNI bình quân trên đầu người của quốc gia từ 21.695 đô la
Mỹ năm 2007 xuống 19.296 năm 2008 và 17.193 năm 2009. Ngoài ra, sau khi Hàn Quốc
gia nhập thành viên các nước tiên tiến, đã phải đáp ứng yêu cầu tham gia vào các hoạt động
hợp tác quốc tế để đối phó với biến đổi khí hậu. Những nhân tố điều khiển vĩ mô đãhối thúc
việc cải thiện cơ bản và cơ chế phát triển mới cho nền kinh tế Hàn Quốc. Để đối phó với
một cuộc khủng hoảng, chiến lược phát triển xanh đã được lên kế hoạch trong năm 2009
35
như là một khung quốc gia về thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế.
Bên trong, các nhân tố điều khiển vi mô cho chuyển đổi xanh thân thiện với sinh thái đã
hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, truyền thông, kinh tế, xã hội và cơ sở hạ tầng. Các
chính trị gia đã thông qua "thỏa thuận xanh mới" như là con đường duy nhất để phục hồi
kinh tế và chính sách quan trọng của các chính quyền trung ương và địa phương là đặtphát
triển xanh trên tiền tuyến. Phương tiện truyền thông đã truyền bá các chiến dịch “xanh -
sinh thái”, kết quả người dân ngày càng quan tâm đếncác sản phẩm được chứng nhận xanh
hoặc các sản phẩm được dán nhãn. Như hỗ trợ tài chính cho tiêu dùng xanh và các doanh
nghiệp xanh, ưu đãi về thuế, trợ cấp, mua sắm công, các dịch vụ công được mở rộng. Các
cộng đồng địa phương đã coi việc chuyển đổisang phát triển xanh, cacbon thấp như là vấn
đề địa phương của họ, và các dự án kỹ thuật và cơ sở hạ tầng để hỗ trợ quá trình chuyển đổi
được thúc đẩy.
Trong số các nhân tố điều khiển dẫn đến chuyển đổi hệ thống thì thay đổi việc thiết lập
vai trò và các hoạt động đổi mới trong hệ thống đổi mới sáng tạo là quan trọng nhất. Về mặt
địa lý, giáo dục đại học, NC&PT quốc gia, và các hoạt động công nghiệp của Hàn Quốc
chủ yếu được tiến hành ở cấp khu vực tương ứng ở thành phố Seoul, Daejeon và tỉnh
Gyeongsang. Các hoạt động đổi mới phân tán về mặt địa lý như vậy dẫn đến các chương
trình khác nhau như các chương trình NC&PT quốc gia, các chương trình cụm đổi mới khu
vực, công nghệ mới và cơ sở hạ tầng thử nghiệm và các chương trình chạy thí điểm... Sau
khi chiến lược phát triển xanh nổi lên, những người thực hiện các hoạt động đổi mới đã đặt
đổi mới xanh như nhiệm vụ quan trọng của họ trong các tổ chức công và các doanh nghiệp
tư nhân, và các thử nghiệm mới được tiến hành tại các khu vực khác nhau thông qua các
chương trình hợp tác công-tư.
Như một ví dụ điển hình về cách mà hệ thống đổi mới này hoạt động, ngành điện gió đã
phát triển chủ yếu ở các khu vực Busan và Gyeongnam, và sau đó các tua-bin gió đã nở rộ
trên khắp toàn quốc.
Nằm ở phía Đông Nam của Hàn Quốc, Busan và Gyeongnam là nơi tập trung các doanh
nghiệp lớn chuyên về đóng tàu và máy móc thiết bị, cung cấp phụ tùng và nguyên vật liệu
cho các doanh nghiệp lớn. Được thúc đẩy bởi các chiến lược tăng trưởng xanh, công ty
đóng tàu truyền thống như Hyundai Heavy Industries, Samsung Heavy Industries, Daewoo
Shipbuilding and Marine Engineering, Doosan Heavy Industries & Construction,
HYOSUNG Power and Industrial Systems Performance Group đã theo đuổi để phát triển
các tuabin gió. Họ nhanh chóng tăng cường khả năng kỹ thuật của họ bằng cách phát triển
các công nghệ ban đầu, mua các công ty điện gió của nước ngoài, và tạo ra quan hệ hợp tác
kỹ thuật công nghiệp - hàn lâm và tạo ra thị trường tiên phong trong và ngoài nước. Công ty
Tua bin gió như Unison cũng phát triển. Hình 1 thể hiện doanh thu bán hàng của ngành điện
gió Hàn Quốc đã tăng từ 75 triệu USD trong năm 2007 lên 936 triệu USD trong năm 2009,
và tổng công suất các tuabin gió đạt 448MW vào năm 2012.
Một số rào cản trong quá trình chuyển đổi hệ thống. Đổi mới hệ thống xanh đòi hỏi phải
36
có những chiến lược liên tụcdài hạn, tuy nhiên chương trình nghị sự về chính trị và những
lợi ích xã hội thay đổi trong thời gian ngắn. Ở cấp quốc gia, tăng trưởng xanh vẫn duy trì
động thực mà được hỗ trợ bởi tổ chức thuộc ủy ban chính phủ lớn thứ hai vào năm 2013 và
sự phát triển của khí đá phiến sét đã gây ra rào cản khác cho quá trình chuyển đổi xanh. Chi
phí sản xuất năng lượng tái tạo vẫn còn cao hơn so với các nguồn năng lượng truyền thống,
và khí đá phiến như một động lực gắn với hệ thống sản xuất năng lượng dựa trên carbon
hiện có. Ngoài ra, Hệ thống phân phối và sản xuất điện tập trung gây khó khăn cho việc đưa
ra hệ thống lưới điện mới. Nản chí bởi triển vọng bình đẳng lưới điện sau năm 2020, các
công ty xanh miễn cưỡng thực hiện các bước hướng đến thị trường nhỏ, xanh xa vời.
2.1.4. Những công nghệ cho phép chính
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã đề xuấtmột số công nghệ chính giúp giảm
cácbonđiôxit bao gồm tích cực sử dụng công nghệ thu hồi và tích trữ cácbon (CCS), năng
lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân, và các công nghệ nâng cao hiệu quả sản xuất năng
lượng sẽ làm giảm lượng khí thải CO2.
Chiến lược tăng trưởng xanh của Hàn Quốc bao gồm một loạt các chiến lược đầu tư vào
công nghệ giảm khí CO2 được quốc tế công nhận ví dụ như trong IEA Blue Map (Bản đồ
xanh của IEA). Như trong Bảng 3, chính phủ Hàn Quốc đã lựa chọn 27 công nghệ xanh cốt
lõi, ví dụ biến đổi khí hậu, nguồn năng lượng, hiệu quả năng lượng, công nghệ “cuối đường
ống”, và công nghệ thực ảo, và đã tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực này. Không giống
như IEA Blue Map, danh sách công nghệ xanh của Hàn Quốc bao gồm nhiều mặt hàng liên
quan đến IT. Điều này gợi ý rằng công nghệ thông tin đã được coi như công nghệ xanh
trong đó nó có thể làm giảm sự di chuyển vật lý của con người và giảm tiêu thụ tài nguyên.
Ở Hàn Quốc, có một xu hướng hy vọng rằng nhiều công nghệ thông minh dựa trên IT sẽ
góp phần tiết kiệm tài nguyên và năng lượng.
Bảng 3. Những công nghệ xanh cốt lõi [5]
Lĩnh vực 27 công nghệ xanh cốt lõi
Biến đổi khí hậu
1. Quan trắc và xây dựng mô hình đối với biến đổi khí hậu
2. Đánh giá và thích ứng biến đổi khí hậu
Công nghệ nguồn năng
lượng
3. Các tế bào năng lượng mặt trời Silicon
4. Các tế bào mặt trời không phải silicon
5. Năng lượng sinh học
6. Lò phản ứng nước nhẹ
7. Lò phản ứng nhanh thế hệ tiếp theo
8. Năng lượng nhiệt hạch hạt nhân
9. NC&PT năng lượng hydro
10. Các tế bào nhiên liệu hiệu quả cao
Các công nghệ nâng cao
hiệu xuất năng lượng
11. Công nghệ thúc đẩy sự phát triển của nhà máy
12. Chu trình kết hợp khí hóa tích hợp
37
13. Ô tô xanh
14. Cơ sở hạ tầng thông minh cho giao thông vận tải và hậu cần
15. Thành phố xanh và phục hồi đô thị
16. Các tòa nhà xanh
17. Công nghệ xử lý xanh
18. Đèn LET hiệu quả ánh sáng cao/IT xanh
19. Các máy móc điện kết hợp IT
20. Pin thứ cấp
Công nghệ cuối đường
ống
(End-of-pipe technology)
21. Bẫy, tích trữ và xử lý CO2
22. Xử lý không có CO2
23. Đánh giá chất lượng nước và quản lý nước
24. Nguồn tài nguyên nước thay thế
25. Tái chế chất thải
26. NC&PT trong quan trắc và xử lý đối với các chất độc hại
NC&PT thực tế ảo
(virtual reality)
27. Thực tế ảo
Sau khi lựa chọn các công nghệ xanh, chính phủ đã tăng cường đầu tư vào NC&PT
xanh. Trong 5 năm kể từ 2008 đầu tư cho NC&PT của chính phủ đã tăng 9,7% hàng năm,
đầu tư vào NC&PT công nghệ xanh tăng 16,8% mỗi năm, và mức tăng trung bình hàng
năm vào đầu tư cho NC&PT công nghệ xanh mục tiêu là 18,3%. Điều này cho thấy chính
phủ Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ công nghệ xanh.
Thử nghiệm các công nghệ phát triển có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện cho NC&PT.
Hàn Quốc áp dụng các công nghệ CCS vào hậu xử lý trongquá trình sản xuất điện. Các
công nghệ nhà máy ướt đã được giới thiệu vào năm 2010, và nhà máy khô được xây dựng
vào năm 2014. Dự án thí điểm trên hệ thống lưới điện hiệu quả năng lượng đang trong tiến
trình triển khai. Quan hệ đối tác công-tư trong việc xây dựng Khu liên hợp cơ sở hạ tầng thử
nghiệm lưới điện thông minh Jeju được thiết lập vào năm 2009, và Lộ trình lưới điện thông
minh được phát triển để mở rộng các lưới thông minh. Năm 2011, Nhà máy thủy triều
Shihwa được xây dựng như là một nhà máy điện mới, và kế hoạch xây dựng nhà máy điện
thủy triều cho các khu vực ven biển khác được xây dựng với mục tiêu thúc đẩy sản xuất
điện thủy triều.
2.1.5. Quản trị đối với đổi mới hệ thống xanh
Chính phủ và lĩnh vực công chưa từng quan tâm đến các vấn đề môi trường trước khi có
chiến lược tăng trưởng xanh. Trong những ngày đó, Bộ môi trường chủ yếu chịu trách
nhiệm về chính sách môi trường, và các bộ khác chỉ khuyến khích vài chương trình chính
sách.
Sự thay đổi đầu tiên theo xu hướng tăng trưởng xanh diễn ra trong quản trị chính sách.
Ủy ban Tổng thống về Tăng trưởng Xanh đã được tổ chức dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
38
tổng thống, và Đạo luật cơ bản về tăng trưởng xanh cacbon thấp, được thiết lập nhằm xây
dựng cơ chế thực hiện việc tiếp cận tăng trưởng xanh của chính phủ. Hầu hết các bộ thuộc
chính phủ bao gồm Bộ Chiến lược và Tài chính đã xây dựng kế hoạch hành động tăng
trưởng xanh và thúc đẩy các chương trình chính sách trong các lĩnh vực của họ, trong đó
các kết quả được đánh giá bằng việc đánh giá tăng trưởng xanh của PCGG và phản hồi
được áp dụng cho việc lập kế hoạch hành động năm tiếp theo của các Bộ.
Quá trình chuyển đổi sang tăng trưởng xanh của doanh nghiệp công đức tăng trưởng
xanh đề cập đến. Nhiều công ty đã tham gia vào chiến lược tăng trưởng xanh được khuyến
khích bởi chính phủ, lĩnh vực công, kết hợp với các chương trình nghị sự xanh trong tầm
nhìn và chiến lược của họ. Ví dụ, công ty thép nổi tiếng thế giới POSCO đã tuyên bố cống
hiến cho sự nghiệp phát triển xanh cacbon thấp thông qua tuyên bố nhiệm vụ của công ty
trong năm 2010 và sau đó mở rộng kinh doanh sang các tòa nhà xanh và các lĩnh vực vật
liệu xây dựng xanh.
2.1.6. Vai trò của các chính sách đổi mới
Chính sách đổi mới nhằm tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi hệ thống xanh được
thúc đẩy gồm: một mặt là cung, và mặt khác là cầu.
Những giải pháp chính sách quan trọng được sử dụng cho bên cung gồm:
1) Tăng kinh phí cho NC&PT của chính phủ cho công nghệ xanh, tăng hai lần trong 5
năm (2008-2012).
2) Lựa chọn 5 lĩnh vực mục tiêu và 27 công nghệ chiến lược trong lĩnh vực công nghệ
xanh nhằm nâng cao hiệu quả và tập trung vào phát triển kỹ thuật.
3) chứng nhận của Chính phủ đối với các công nghệ xanh, sản phẩm xanh, và DNNVVs
xanh. Từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 4 năm 2014, khoảng 1.590 công nghệ đã được chứng
nhận là công nghệ xanh (400 công nghệ được chứng nhận mỗi năm).
4) Đối với các công ty có chứng nhận công nghệ xanh sẽ có lợi thế vay vốn chung cho
phát triển xanh, cho vay chính sách dựa trên tín dụng xanh và bảo lãnh của Chính phủ dành
cho các công ty công nghệ cao xanh.
5) Khuyến khích các hệ thống đổi mới khu vực toàn quốc và các cụm đổi mới đặt ra tầm
nhìn về đổi mới xanh.
Những giải pháp chính sách chính được sử dụng cho bên cầu gồm:
1) Loại bỏ các quy định về FIT (thuế Feed in, ~ 2011) và giới thiệu các RPS (tiêu chuẩn
năng lượng tái tạo, 2012 ~).
2) Dán nhãn xanh cho các sản phẩm xanh và các sản phẩm hiệu quả năng lượng cao.
3) Xây dựng các cơ sở hạ tầng thử nghiệm về quang điện, điện gió, bế bào nhiên liệu và
lưới điện thông minh để chuyển giao kỹ thuật và ứng dụng.
4) Hỗ trợ nhu cầu cá nhân: ưu đãi về thuế và hạ tầng để ủng hộ xe xanh, trợ cấp trực tiếp
cho nhà xanh và hiệu quả năng lượng (tiết kiệm năng lượng), dán nhãn cho các thiết bị điện
tử xanh.
5) Các dự án xây dựng xanh thông qua PPP: Thị trấn xanh, nhà xanh, tòa nhà xanh. [5]
39
2.2. CHLB Đức
Đức là nước tiên phong về các chính sách phát triển xanh. Đây là một trong những quốc
gia đầu tiên cắt giảm phát thải khí nhà kính: Năm 2009, nó làm giảm phát thải khí CO2
xuống 23% so với mức phát thải năm 1990; tiêu thụ năng lượng từ các nguồn tái tạo tăng
lên gấp 5 lần kể từ 1990-2010; và cả nước hiện có công suất năng lượng mặt trời lớn nhất
thế giới. Đức định hình cho cuộc tranh luận về sự phát triển bền vững ở châu Âu và sẽ là
trung tâm của nỗ lực đa phương nhằm giải quyết các vấn đề môi trường: phản ứng của đất
nước đối với thảm họa hạt nhân Fukushima, Nhật Bản là bắt đầu loại bỏ dần điện hạt nhân
ở Đức.
Đức cùng với Đan Mạch và Thụy Điển hình thành tranh luận về phát triển bền vững ở
châu Âu. Phát triển xanh được chứng minh là mang lại lợi ích cho nền kinh tế cũng như
việc làm xanh. Ví dụ, lĩnh vực năng lượng tái tạo tăng lên 129% trong năm 2010 so với năm
2004, với 367.400 việc làm.
2.2.1. Những thành tựu
Năm 2009, Đức đã giảm lượng khí thải CO2 bình quân đầu trên đầu người khoảng 23%
so với mức năm 1990. Đồng thời, tăng tổng mức tiêu thụ năng lượng cuối cùng từ các
nguồn tái tạo lên gấp 5 lần chỉ trong hai mươi năm (từ 1,9% trong năm 1990 lên 10,9%
trong năm 2010). Hiện nay, nguồn năng lượng tái tạo chiếm 1/10 tổng mức tiêu thụ điện
cuối cùng, chủ yếu là sinh khối (7,7%), gió (1,5%, và thủy điện (0,8%). Công suất quang
điện mặt trời (PV) hiện nay của Đức chiếm 44% của thế giới và công suất điện gió lớn thứ
ba thế giới, sau Trung Quốc và Mỹ (hình 1).
Hình 1. Năng lực của năng lượng quang điện mặi trời và năng lượng gió trên thế giới năm
2010 (chia theo tỷ lệ phần trăm) [4]
40
2.2.2. Chính sách và phân tích lợi ích chi phí
Chương trình nghị sự xanh của Đức đã giúp nội bộ hóa chi phí ô nhiễm và thúc đẩy
ngành công nghiệp năng lượng tái tạo. Thảm họa từ nhà máy hạt nhân Fukushima của Nhật
Bản làm cho Đức tăng tốc loại bỏ dần điện hạt nhân.
Ngoài ra, chính phủ Đức trợ cấp đáng kể cho lĩnh vực năng lượng tái tạo. Trợ cấp cho
mô-đun PV của Đức với tổng chi phí là 73,2 tỷ đô la được lắp đặt từ năm 2000 đến năm
2010. Một phần kết quả là nhờ sự chia sẻ năng lượng tái tạo trong tổng sản lượng năng
lượng sơ cấp tăng lên đáng kể trong thập kỷ qua, mặc dù vai trò của nó vẫn còn hạn chế.
Chia sẻ năng lượng từ các nguồn năng lượng tái tạo lớn hơn cũng làm dấy lên những câu
hỏi về quản lý lưới điện.
Thông qua đầu tư và hỗ trợ của chính phủ, Đức đã có thể đa dạng hóa năng lượng và
giảm phát thải khí nhà kính (GHS) xuống 23% so với mức năm 1990. Đồng thời, Đức coi
công nghệ tăng trưởng xanh là sản phẩm xuất khẩu chủ lực trong tương lai và đặt ra những
mục tiêu đầy tham vọng cho tương lai. Đức cũng lập kế hoạch cắt giảm phát thải khí nhà
kính xuống 80% vào năm 2050, so với mức của những năm 1990. Các nguồn năng lượng
tái tạo được thiết lập để cung cấp 60% tổng mức tiêu thụ năng lượng. Đức chỉ ra rằng, các
nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người tiêu dùng có thể xem xét các chính
sách môi trường như một cách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế [4].
2.3. Nhật Bản
Năm 2016, Nhật Bản công bố “Chiến lược dài hạn cho đổi mới công nghệ xanh”.
Văn phòng Nội các Nhật Bản đã công bố một dự thảo "Chiến lược Đổi mới Năng
lượng/Môi trường" tại cuộc họp lần thứ tư của Nhóm nghiên cứu Xây dựng Chiến lược đổi
mới Năng lượng/Môi trường ngày 24 tháng 3 năm 2016.
Liên quan đến sản xuất năng lượng thế hệ tiếp theo, chiến lược đặt mục tiêu tăng gấp đôi
hiệu suất chuyển đổi và giảm chi phí sản xuất điện xuống 7 yên/kWh hoặc thấp hơn.
Chiến lược này nhằm tạo ra những đổi mới về việc giảm đáng kể lượng khí thải nhà kính
với triển vọng dài hạn (đến năm 2050) sau khi mục tiêu dài hạn về việc duy trìmức tăng
nhiệt độ trung bình trên toàn cầu ở mức dưới 2°C đã được đề cập tại Hội nghị Biến đổi Khí
hậu Liên hợp quốc 2015 (COP 21), diễn ra vào cuối năm 2015.
“Kế hoạch Đổi mới Công nghệ Năng lượng Môi trường" (được sửa đổi tháng 9 năm
2015), đã được Hội đồng Khoa học, Công nghệ và Đổi mới đưa ra, đặt mục tiêu vào các
công nghệ được dự kiến sẽ được ứng dụng thực tế trong ngắn hạn (đến năm 2030) và trung
hạn (trong và sau năm 2030). Mặt khác, trong Chiến lược đổi mới Năng lượng/Môi trường,
các công nghệ đổi mới mà có sự gián đoạn cao với các công nghệ hiện có và có tác động
lớn đã được đề cập.
Đối với chiến lược, các công nghệ được phân thành bảy loại: (1) quy trình sản xuất tiên
tiến, (2) vật liệu siêu nhẹ, vật liệu chịu nhiệt, (3) pin tích trữ thế hệ tiếp theo, (4) sản xuất,
tích trữ và sử dụng hydro, v.v..., (5) sản xuất điện mặt trời thế hệ tiếp theo, (6) sản xuất điện
địa nhiệt thế hệ tiếp theo (7) cố định / sử dụng hiệu quả CO2.
41
Các công nghệ pin tích trữ và sản xuất hydro đóng vai trò quan trọng trong việc hấp
thunhững biến động về sản lượng điện gió và điện mặt trời. Do đó, bốn trong số bảy loại có
liên quan đến năng lượng tái tạo.
Các tác động công nghệ trong danh mục sản xuất điện mặt trời thế hệ tiếp theo, nhóm
nghiên cứu đãcho rằng “hiệu suất chuyển đổi cao gấp đôi so với sản xuất điện mặt trời đang
được sử dụng rộng rãi hiện nay” và chi phí sản xuất điện là 7 yên/kWh, tương đương với
chi phí của nguồn điện cơ bản, do giảm chi phí sản xuất/lắp đặt và cải thiện đáng kể hiệu
suất sản xuất điện. Những tác động dự đoán này là phù hợp với “thách thức PVNEDO”, mà
Tổ chức Phát triển Năng lượng mới và Công nghệ Công nghiệp (NEDO) đã công bố vào
tháng 9 năm 2014 [2].
3. Đổi mới sáng tạo xanh ở Việt Nam
3.1. Phát triển kinh tế xanh thông qua Đổi mới sáng tạo xanh ở Việt Nam
Trong 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển
kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng
trưởng còn thấp, tăng trưởng kinh tế vẫn còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều
rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Cùng với đó, tài nguyên chưa được coi là
nguồn lực đặc biệt quan trọng, vai trò, giá trị của tài nguyên còn chưa được nhận thức đầy
đủ, đánh giá đúng tầm. Điều đó dẫn đến hiệu quả sử dụng tài nguyên bị lãng phí, thất thoát
nghiêm trọng bên cạnh các vấn nạn ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên bức xúc trong
bối cảnh tác động biến đổi khí hậu tăng nhanh và diễn biến hết sức phức tạp.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 của Đảng đã nêu rõ:
“Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Phát triển kinh tế xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện chất lượng môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu”. Như vậy, phát triển Kinh tế Xanh
phù hợp với Chiến lược dài hạn của Việt Nam và định hướng phát triển bền vững
nói chung, cũng phù hợp với những lợi thế so sánh của Việt Nam cần phát huy
trong hội nhập quốc tế.
Đầu tư nghiên cứu phát triển công nghệ xanh cần được huy động chủ yếu từ ngân sách
nhà nước. Còn đầu tư trang bị công nghệ xanh được huy động từ nhiều nguồn khác nhau
như từ các doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng ngân hàng, nguồn vốn thuê mua, phát hành
trái phiếu doanh nghiệp và từ nguồn Quỹ Môi trường, Quỹ tăng trưởng xanh
3.2. Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh của Việt Nam
Ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định phê duyệt Chiến lược quốc
gia về tăng trưởng xanh số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 và kế hoạch hành động quốc gia
về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 theo quyết định số 403/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 20/3/2014. Hiện nay các Bộ ngành và địa phương đang trong quá trình bắt
đầu triển khai và thực hiện. Trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, quan điểm tăng trưởng xanh thể hiện trong chiến lược cho
42
rằng:
- Tăng trưởng xanh là một nội dung của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế
theo hướng nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời góp phần quan trọng thực hiện Chiến
lược Quốc gia về biến đổi khí hậu.
- Tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, góp phần tạo việc làm, xóa đói
giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
- Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu
quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện nâng cao chất lượng môi
trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại, phù hợp với
điều kiện Việt Nam, nguồn nhân lực chất lượng cao, kết hợp giữa nội lực với mở rộng hợp
tác quốc tế.
- Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và
địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi
người dân.
Như vậy, dựa theo cách nhìn nhận từ chiến lược tăng trưởng xanh đã được ban hành ở
Việt Nam để đạt mục tiêu tăng trưởng xanh, nhiều việc cùng một lúc phải thực hiện, từ sử
dụng hiệu quả tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, xóa đói giảm nghèo, đầu tư cho bảo
tồn và phát triển, giảm thiểu phát thải khí nhà kính đến sự nỗ lực của toàn xã hội, không chỉ
các tổ chức chính quyền mà còn cả người dân và doanh nghiệp cùng phải nhận thức đầy đủ
và thực hiện theo mục tiêu chiến lược đã đề ra.
3.3. Những khó khăn và thách thức của Việt Nam trong việc thực hiện Chiến lược tăng
trưởng xanh quốc gia
Trước hết, về nhận thức, hiểu thế nào là một nền “kinh tế xanh”, “tăng trưởng xanh” hiện
nay ở Việt Nam vẫn còn mới bắt đầu, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ biến rộng rãi
kiến thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người
dân. Nếu không nhận thức đầy đủ, tính đồng thuận trong xã hội sẽ không đạt được, do vậy sẽ
khó thực hiện chiến lược đã ban hành.
Thứ hai, về cách thức tiến hành, so với nền kinh tế truyền thống, “Nền kinh tế nâu”, việc
chuyển đổi sang mô hình “Nền kinh tế xanh” mà trọng tâm là tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế có sự khác biệt như thế nào và bắt đầu từ đâu trong bối cảnh tăng trưởng và phát triển kinh
tế Việt Nam hiện nay là vấn đề lớn đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách trong việc xây
dựng lộ trình phát triển.
Thứ ba, nền kinh tế xanh gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, xây dựng xã hội cac bon
thấp, tăng trưởng xanh, đầu tư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi
trường... Thực tế công nghệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay so với thế giới phần lớn là công
nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền kinh tế xanh
để thực hiện tăng trưởng xanh là thách thức không nhỏ nếu không có trợ giúp về vốn và công
nghệ của các nước phát triển có công nghệ cao trên thế giới.
Thứ tư, với hơn 70% dân số sống ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp là chính, nhiều vùng
43
nông thôn và khu vực miền núi, sinh kế người dân còn gặp nhiều khó khăn. Phát triển “kinh
tế xanh” phải gắn với xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội, đây là thách thức không nhỏ
trong lựa chọn chính sách thực hiện kế hoạch hành động xanh.
Thứ năm, về huy động nguồn vốn cho thực hiện mục tiêu “xây dựng nền kinh xanh”, mặc
dù Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích luỹ quốc gia so với các nước
đã phát triển còn thấp, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình triển khai hướng tới “Nền
kinh tế xanh” thực hiện “tăng trưởng xanh” theo như tính toán đầu tư trở lại phục hồi tự nhiên
cần 1- 3% GDP.
Thứ sáu, nhiều ngành thâm dụng tài nguyên, sử dụng nhiên liệu hóa thạch lớn, gây ô
nhiễm môi trường đang chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, như ngành khai thác khoáng
sản, sản xuất năng năng lượng, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt nhuộm, sản xuất giấy, công
nghiệp hóa chất, đóng tàu, sửa chữa tàu thủy trong khi đó ít chú ý đến phát triển các ngành
công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, hàm lượng khoa học cao.
Thứ bảy, thiếu vắng các ngành kinh tế hỗ trợ, giải quyết hậu quả về môi trường, ngành
kinh tế thân thiện với môi trường: như công nghệ, dịch vụ bảo vệ môi trường; công nghiệp
tái chế; sản xuất năng lượng từ chất thải, năng lượng sạch; hàng hóa, sản phẩm thân thiện với
môi trường; nông nghiệp hữu cơ. Hoặc đã có một số lĩnh vực sản xuất thân thiện với môi
trường đã được chú ý phát triển nhưng gặp khó khăn về nguồn vốn, đầu ra của sản phẩm
thiếu ổn định, lợi thế cạnh tranh, lợi nhuận thấp nên vẫn chưa hình thành được những ngành
kinh tế đủ mạnh để giải quyết có hiệu quả các vấn đề môi trường hiện nay.
Thứ tám, thiệt hại kinh tế do ô nhiễm, suy thoái môi trường rất lớn: Theo ước tính, nếu
GDP Việt Nam trong 10 năm tới tăng gấp đôi mà không quan tâm đúng mức tới công tác bảo
vệ môi trường thì ô nhiễm môi trường sẽ tăng lên 3 lần so với hiện nay, đến năm 2025 có thể
gấp 4 đến 5 lần; GDP cứ tăng 1% thì thiệt hại do ô nhiễm môi trường sẽ làm mất đi 3% GDP.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tài nguyên đang dần cạn kiệt, đa dạng sinh học bị suy giảm, ô nhiễm môi
trường tiếp tục gia tăng, BĐKH ngày càng rõ nét, nhiều quốc gia lựa chọn Kinh tế xanh là
mô hình phát triển mới để giải quyết đồng thời những vấn nạn đang tiếp diễn phức tạp. Mô
hình kinh tế mới này ghi nhận giá trị và vai trò của đầu tư vào vốn tự nhiên, tạo ra việc làm
xanh, là trụ cột để giảm nghèo. Thay vì sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nền Kinh tế xanh sử
dụng năng lượng tái tạo và công nghệ các bon thấp, khuyến khích sử dụng nguồn lực và
năng lượng hiệu quả hơn.
Hầu hết các nước trên thế giới đã và đang tăng cường năng lực về đổi mới công nghệ và
tính cạnh tranh của công nghệ xanh. Thực tế cho thấy, việc thúc đẩy tăng trưởng xanh hay
quá trình chuyển đổi sang nền Kinh tế xanh tạo ra tiềm năng to lớn để đạt được phát triển
bền vững và giảm đói nghèo với tốc độ chưa từng thấy đối với tất cả các quốc gia. Riêng
đối với các nước đang phát triển, tăng trưởng xanh còn tạo đà cho một bước nhảy vọt để
phát triển kinh tế mà không theo con đường phát triển kinh tế “ô nhiễm trước, xử lý sau”,
hay “kinh tế nâu”.
Thông qua việc phân tích tổng quan của đổi mới sáng tạo xanh, tổng luận đã làm rõ vai
44
trò, cơ sở pháp lý và các mục tiêu chính sách cho đổi mới sáng tạo xanh. Bên cạnh đó,
những chiến lược quốc gia, các công cụ chính sách và một số ưu tiên phát triển đổi mới
sáng tạo xanh cũng như công nghệ sử dụng và đặc biệt là rào cản trong việc thu hút công
nghệ đổi mới xanh đã được giới thiệu một cách cụ thể, sâu sắc. Cùng với việc giới thiệu
chính sách đổi mới sáng tạo của các nước đang phát triển và các nước phát triển, tổng luận
còn đánh giá tình hình thực hiện đổi mới sáng tạo xanh nhằm hướng tới phát triển kinh tế
xanh ở Việt Nam.
Theo Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định 403 ngày 20/3/2014, một trong những mục tiêu Chiến lược tăng
trưởng xanh hướng đến là nghiên cứu ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ tiên tiến,
nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính,
góp phần ứng phó hiệu quả với BĐKH. Để phát triển đất nước bền vững, công nghệ xanh
sẽ là nhân tố quyết định cho việc tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy phát triển bền vững; giảm
sử dụng năng lượng hóa thạch.
Đổi mới công nghệ hướng tới phát triển kinh tế xanh là hướng đi đúng và phù hợp với xu
thế phát triển mới của doanh nghiệp hiện nay, không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp
mà còn mang lại hiệu quả của nền kinh tế xét trong dài hạn để chuyển đổi sang nền kinh tế
xanh. Trong bối cảnh Hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, nhất là tới đây Việt Nam
tham gia Hiệp định tự do thương mại với châu Âu và Hiệp định xuyên Thái Bình Dương -
TPP, nếu doanh nghiệp sớm đổi mới công nghệ phù hợp với các tiêu chuẩn cao của thế giới,
doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tham gia vào thị trường khu vực và toàn cầu.
Biên soạn: Nguyễn Thị Minh Phượng
Trung tâm Phân tích Thông tin
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. The Innovation Policy Flatform (2016). Policy learning for green innovation [Online]
https://www.innovationpolicyplatform.org/content/policy-learning-green-innovation
[2]. Japan Today (2016) Japan announces long-term strategy for green technology innovations,
technology-innovations
[3]. GSDR (2015), Innovation Policy and Sustainable Development, New Delhi
[4]. WB (2010), Green growth policies: Germany,
[5]. OECD (2012) KOREA - Green innovation and systemic changes,
https://www.innovationpolicyplatform.org/system/files/KOREA%20-
%20Green%20innovation%20and%20systemic%20changes-IPP.pdf
[6]. WB (2012) Green Innovation and Industrial Policies,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_chinh_sach_thuc_day_doi_moi_sang_tao_xanh_cua_mot_s.pdf