Tác động kinh tế - xã hội của các chính sách ưu đãi thuế NC&PT sẽ phụ thuộc vào
một bối cảnh hình thành rộng lớn hơn. Ở đây có ít nhất hai yếu tố rộng cần cân nhắc,
đó là: hệ thống thuế tổng thể và tầm quan trọng của các công cụ chính sách khoa học
và công nghệ khác, đặc biệt là hỗ trợ tài chính trực tiếp cho NC&PT doanh nghiệp.
Một hệ thống thuế rộng hơn không quá phức tạp và được đặc trưng bằng mức
thuế suất thu nhập doanh nghiệp tương đối cao là một môi trường thuận lợi cho
việc áp dụng các khuyến khích thuế NC&PT doanh nghiệp.
Bối cảnh hệ thống đổi mới quốc gia rộng hơn (các chính sách tài chính khác,
quyền SHTT, các quy định, cơ sở hạ tầng KHCN, nghiên cứu công, các chương
trình giáo dục và đào tạo) cần được đem ra cân nhắc khi thực hiện khuyến khích
thuế NC&PT doanh nghiệp.
Khuyến khích thuế có các ưu và nhược điểm tiềm năng so với hỗ trợ tài chính
trực tiếp cho NC&PT doanh nghiệp. Trong bất cứ trường hợp nào cũng cần
thiết phải có sự phối hợp của hai công cụ chính sách này. Những lợi thế quan
trọng nhất của các khuyến khích thuế là: Tính trung lập cao (chúng có tiềm
năng tác động đến tất cả các công ty); Chi phí quản lý hành chính có tiềm năng
thấp nếu như chế độ thuế không phức tạp; Cơ hội tiếp cận và tính xác thực lớn
hơn; Tính có thể dự đoán trước cao hơn từ góc độ ngân sách doanh nghiệp.
Điều rõ ràng là các khuyến khích bằng thuế có thể đạt hiệu quả cao trong việc thúc
đẩy NC&PT doanh nghiệp. Thiết kế cụ thể một chế độ khuyến khích thuế dường như
là yếu tố then chốt quyết định tính hiệu quả của nó.
Để thúc đẩy đầu tư NC&PT doanh nghiệp, ở đây cần thiết phải có một sự kết hợp
chính sách tối ưu. Khuyến khích thuế được sử dụng khi chính phủ muốn đạt được một
phạm vi rộng các công ty tham gia vào các hoạt động NC&PT. Tài trợ trực tiếp của
chính phủ cho NC&PT doanh nghiệp cần nhằm mục tiêu vào các lĩnh vực nghiên cứu,
nơi tồn tại khoảng cách lớn giữa suất lợi nhuận tư nhân và xã hội. Các nhà hoạch định
chính sách cần đảm bảo rằng các biện pháp khuyến khích bằng thuế và tài trợ trực tiếp
của chính phủ cho NC&PT doanh nghiệp cần bổ sung cho nhau. Điều này chỉ có thể
đạt được thông qua một cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các tổ chức chính phủ, các bộ
và cơ quan hữu quan trong việc thúc đẩy NC&PT doanh nghiệp
48 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy nghiên cứu và phát triển doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2009).
Tính ổn định của khuyến khích thuế NC&PT cùng với thời gian có thể đóng một vai
trò: các kỳ vọng rằng khuyến khích NC&PT là ổn định lâu dài, được ủy nhiệm bằng
tính ổn định của chúng với thời gian, dường như có thể đẩy mạnh được tác động của
chính sách đến đầu tư NC&PT.
Các khuyến khích thuế NC&PT có thể còn có tác động đến mức đầu tư tổng thể cho
NC&PT của một nước bằng cách khích lệ NC&PT đối với các công ty trước đó chưa
đầu tư vào NC&PT. Như đã nêu ở trên, các chế độ khuyến khích thuế NC&PT có thể
cung cấp các điều khoản đặc biệt cho những người mới được thụ hưởng (như ở Pháp)
hay các công ty mới khởi sự (Pháp, Hà Lan và Hàn Quốc). Mặc dù vẫn còn ít, nhưng
các bằng chứng thực nghiệm cho thấy, sự hiện diện của khuyến khích thuế NC&PT có
liên quan đến khả năng các công ty trở thành những nhà đầu tư cao hơn cho NC&PT
(Corchuelo, 2009).
Việc đánh giá những tác động của các biện pháp khuyến khích thuế NC&PT đến chi
4 Dựa trên các ước tính của nhiều nghiên cứu trong giai đoạn 1990-2006 tại các nước Hoa Kỳ, Canada và các
nước OECD khác, Parsons và Phillips (2007) đã phát hiện độ co giãn trung bình ước tính về dài hạn là -1,09, có
nghĩa là suy giảm 10% về giá NC&PT sẽ dẫn đến một sự gia tăng 10,9% về dài hạn.
29
tiêu NC&PT vẫn còn gặp nhiều khó khăn5.
b) Bằng chứng về tác động của các khuyến khích thuế NC&PT đến các kết quả đầu
ra đổi mới
Các khuyến khích thuế NC&PT được hy vọng sẽ dẫn đến không chỉ chi tiêu
NC&PT cao hơn mà cả các kết quả đổi mới cũng cao hơn, do có nhiều đổi mới sản
phẩm và quy trình hơn, doanh thu cao hơn từ các sản phẩm đổi mới hay do có thêm
nhiều phát minh sáng chế, và năng suất cao hơn về dài hạn. Tuy nhiên, một sự gia tăng
đo được về chi tiêu NC&PT có thể không nhất thiết được chuyển hóa thành một sự gia
tăng ở đầu ra đổi mới và vì thế có thể không dẫn đễn một sự gia tăng dài hạn về tăng
trưởng năng suất. Các yếu tố làm giảm nhẹ bao gồm:
Các công ty có thể "ghi nhãn lại" các chi tiêu của mình: sau khi áp dụng một
biện pháp khuyến khích thuế, các công ty có thể chuyển một số các hoạt động
phi NC&PT của mình thành đầu tư NC&PT. Điều này sẽ dẫn đến một sự gia
tăng không xác thực ở NC&PT đo được. Bằng chứng sẵn có chỉ ra rằng, phạm
vi tác động của yếu tố này là tương đối nhỏ, đặc biệt là về dài hạn.
Việc áp dụng một chế độ khuyến khích thuế NC&PT sẽ có khả năng gây ra một
sự gia tăng ở tiền lương của các nhà khoa học và kỹ sư, do việc chậm thích nghi
ở nguồn cung số nhân lực này, ít nhất là trong ngắn hạn. Ví thế, một phần lợi
ích tiềm năng của các khuyến khích thuế NC&PT có thể bị "xói mòn" bởi sự
gia tăng ở chi phí NC&PT, chứ không phải chỉ dẫn đến một sự gia tăng về khối
lượng NC&PT được tiến hành.
Cuối cùng, các dự án được cung cấp tài chính thông qua các khuyến khích thuế
NC&PT có thể lại là những dự án có hiệu suất biên thấp nhất. Nếu ở đây có một
sự suy giảm về lợi nhuận biên từ NC&PT, thì phần NC&PT tăng thêm do
khuyến khích thuế NC&PT có thể ít sinh lợi hơn.
Như vậy, cho đến nay bằng chứng về tác động của khuyến khích thuế NC&PT đến
đầu ra đổi mới vẫn còn tản mạn. Đánh giá về các tác động này là khó khăn do các phép
đo đầu ra đổi mới vẫn chưa hoàn thiện, ví dụ như các phép đo về đổi mới sản phẩm và
quy trình, sáng chế, và độ trễ thời gian khác nhau giữa các đầu tư NC&PT vào các loại
hình NC&PT khác nhau (như nghiên cứu so với phát triển, các dự án, các lĩnh vực
công nghệ, ...) và cả các kết quả đổi mới cũng khác nhau.
Bằng chứng có được cho thấy những tác động tích cực của khuyến khích thuế
NC&PT đến doanh thu đổi mới hay số lượng các sản phẩm mới (Hanel và Rosa, 2005;
de Jong và Verhoeven, 2007). Tuy nhiên, các hoạt động đổi mới được tạo ra bởi việc
áp dụng khuyến khích thuế NC&PT có thể không có cùng đặc điểm như các đổi mới
được tài trợ riêng bởi các công ty hay bởi các tài trợ chính phủ.
Ví dụ như chế độ khuyến khích thuế NC&PT của Na-Uy được cho là làm tăng các
5 Bao gồm những khó khăn trong việc đo lường mức độ hiệu quả của thuế đối với NC&PT, sự sẵn có của số liệu
và sự đánh giá các vấn đề (trong đó có sự tương tác nội tại, độ trễ thời gian, cũng như những ảnh hưởng gián
tiếp đến các công ty không được nhận các khuyến khích tài chính).
30
kết quả đổi mới (cả đổi mới sản phẩm và quy trình), có tính mới đối với các công ty
nhưng không phải là mới lạ đối với thị trường hay là những đổi mới có thể đăng ký
sáng chế. Kết quả này cũng có thể liên quan đến các đặc trưng đặc biệt của chế độ thuế
của Na-Uy, ví dụ như các công ty được trợ cấp nhiều nhất là các SME, và chế độ này
quy định một mức hỗ trợ cao nhất có thể. Cả hai đặc điểm này có thể ảnh hưởng đến
tính hiệu quả của chính sách kích thích đổi mới với lợi ích xã hội cao (Cappelen,
Raknerud và Rybalka, 2008).
Việc đánh giá tác động của các khuyến khích thuế NC&PT đối với các kết quả đổi
mới là điều khó khăn. Đặc biệt là những ích lợi của các biện pháp khuyến khích có thể
lan tỏa đến các công ty không trực tiếp nhận được khuyến khích, bao gồm cả các công
ty không có trụ sở nằm ở bên trong ranh giới của một đất nước, đặc biệt là khi các
công ty đó có liên kết với các công ty nhận thông qua các chuỗi giá trị (như các nhà
cung ứng hay các khách hàng), hay là các công ty nằm trong một tập đoàn lớn hơn (đa
quốc gia) hay thậm chí là các công ty cạnh tranh. Do đó lợi ích của các khuyến khích
thuế NC&PT không chỉ giới hạn ở nước chủ nhà nơi thực hiện NC&PT, mà nó còn có
thể lan tỏa đến các nước ngoài, nơi có nguồn vốn tri thức được sử dụng. Khía cạnh
xuyên biên giới này khiến cho khó có thể đánh giá được chính xác các kết quả đổi
mới.
c) Bằng chứng về tác động đến tăng trưởng năng suất và phúc lợi
Các khuyến khích thuế đối với NC&PT cuối cùng sẽ dẫn đến tăng trưởng năng suất
cao hơn và làm tăng phúc lợi.
Bằng chứng về tính hiệu quả của các khuyến khích thế NC&PT tác động đến gia
tăng năng suất lao động vẫn còn ít, nhưng đã chỉ ra một mối tương quan xác thực giữa
khuyến khích thuế NC&PT và năng suất lao động (Brouwer et al., 2005 và Lokshin
and Mohnen, 2007). Các ước tính về tác động của các khuyến khích về thuế đối với
phúc lợi yêu cầu một sự phân tích hiệu ích kinh tế đầy đủ. Điều này cần tính đến các
tác động đầy đủ trực tiếp và gián tiếp của chính sách, các chi phí thực hiện và tuân thủ,
và những tác động của các loại thuế bóp méo (distotionary taxes) cần thiết khác để hỗ
trợ tài chính cho các biện pháp khuyến khích.
Mặc dù một số nghiên cứu đã cố gắng đưa ra những ước tính như vậy, chúng phụ
thuộc mạnh vào các giả thiết được đưa ra. Các phân tích hiệu ích kinh tế đã có và các
mô phỏng chỉ ra một lợi ích phúc lợi xác thực có được từ các khuyến khích thuế
NC&PT.
d) Bằng chứng về tác động đến tiền lương
Các biện pháp khuyến khích thuế đối với NC&PT là nhằm mục đích gia tăng khối
lượng đầu tư NC&PT. Tuy nhiên, một phần của những khuyến khích này có thể dẫn
đến sự gia tăng ở tiền lương của các nhà khoa học NC&PT và kỹ sư, hay chi phí thuê
nhân công của các công ty. Điều này có thể xảy ra do phản ứng chậm ở nguồn cung
nhân lực khoa học hay do các chi phí tìm kiếm các nhà khoa học và kỹ sư, giữa các
công ty và nhân lực NC&PT và các chế độ khuyến khích đối với nhân công NC&PT.
31
Các nghiên cứu về vấn đề này vẫn còn hiếm và bị hạn chế do không có đầy đủ số liệu
thích hợp. Các nghiên cứu thường có xu hướng phát hiện rằng sự gia tăng ở tiền lương
NC&PT không tương ứng với sự thay đổi ở chất lượng của các nhà nghiên cứu (ví dụ
như các nhà khoa học có kinh nghiệm hơn; hay sự thay đổi ở tập hợp các nhà khoa học
hướng tới kỹ năng cao hơn), điều này sẽ kéo theo một sự cải tiến ở chất lượng của các
yếu tố đầu vào trong quy trình đổi mới (Lokshin and Mohnen, 2008).
đ) Bằng chứng về tác động của các khuyến khích thuế NC&PT so với hỗ trợ trực
tiếp (trợ cấp)
Các chính phủ đối diện với câu hỏi đặt ra là các công cụ chính sách nào phù hợp
nhất để khích lệ đổi mới. Các khuyến khích thuế NC&PT là các công cụ không chủ
động (không tuân theo ý muốn của chính phủ), và khả dụng đối với tất cả những người
thực hiện NC&PT (kể cả những người tiềm năng) và vì thế nó trung lập giữa các
ngành công nghiệp, khu vực hay các công ty. Một số nước áp dụng chế độ đãi ngộ ưu
tiên đối với các nhóm công ty đặc biệt hay các loại hình đầu tư NC&PT.
Mặt khác, các trợ cấp chính phủ có thể được định hướng vào các dự án và nhiệm vụ
cụ thể mà các chính phủ cho là sẽ mang lại lợi ích xã hội cao, ví dụ như các lĩnh vực
quốc phòng, y tế hay năng lượng.
Bản chất của các dự án NC&PT được cung cấp tài chính thông qua các khoản tài trợ
và các dự án được cung cấp tài chính bằng các khuyến khích thuế NC&PT có khả
năng khác nhau (David at al., 2000). Các công ty có xu hướng sử dụng các khuyến
khích thuế NC&PT để cung cấp kinh phí cho các dự án được kỳ vọng có suất lợi tức tư
nhân cao (sau thuế), và các dự án mang lại lợi nhuận xã hội cao nhất có thể không
được các công ty đầu tư nếu lợi ích tư nhân thấp. Vì thế, các khuyến khích thuế
NC&PT có thể không phải là công cụ hiệu quả nhất hướng đến các quyết định đầu tư
NC&PT tư nhân bỏ qua hiệu ứng lan tỏa tri thức. Tài trợ trực tiếp cho NC&PT có thể
thích hợp hơn với việc bắc cầu kết nối hiệu ứng lan tỏa giữa lợi ích xã hội và tư nhân
từ đổi mới, do chúng nhằm mục tiêu vào các dự án với kỳ vọng lợi ích xã hội cao nhất.
Tuy nhiên, trợ cấp chính phủ thường là đối tượng tuân theo quyết định của các cơ quan
chính phủ xét duyệt trợ cấp chứ không phụ thuộc vào các công ty thực hiện NC&PT.
Một công trình nghiên cứu của Haegeland và Moen (2007) về NC&PT của Na-Uy
đã đưa ra một xếp hạng các công cụ chính sách khác nhau tùy thuộc vào tác động của
chúng đến đầu tư NC&PT và lợi nhuận tư nhân từ NC&PT. Nghiên cứu phát hiện ra
rằng chính sách có tác động lớn nhất đến đầu tư NC&PT chính là các công cụ khuyến
khích thuế NC&PT, tiếp theo là trợ cấp từ Hội đồng nghiên cứu Na-Uy, các cơ quan
chính phủ và EU. Nghiên cứu này cũng phát hiện ra rằng lợi nhuận từ các dự án
NC&PT được cung cấp tài chính bằng nguồn kinh phí riêng của một công ty tính về
giá trị trung bình cao hơn so với các dự án được cấp kinh phí từ các khuyến khích thuế
NC&PT, lợi nhuận này đến lượt mình lại cao hơn so với các dự án được trợ cấp. Tuy
nhiên, nghiên cứu không đưa ra một xếp hạng các chính sách dựa theo lợi ích xã hội
của chúng.
32
Bằng chứng cũng chỉ ra một tác dụng bổ sung của tài trợ trực tiếp liên quan đến các
khuyến khích thuế NC&PT. Đặc biệt là đối với các công ty nhỏ và non trẻ, hỗ trợ trực
tiếp có thể giúp chứng thực "chất lượng cao" của các công ty và các dự án, và làm
giảm các vấn đề liên quan đến tính bất đối xứng thông tin (Blanes and Busom, 2004).
Điều này về phần mình sẽ làm hạ thấp chi phí cơ bản của các công ty nhận được tài trợ
khi áp dụng đối với các nguồn tài chính bên ngoài. Ngoài ra, các khoản trợ cấp, các
khoản cho vay và bảo lãnh vay có thể mang lại được nhiều trợ giúp hơn cho các công
ty nhỏ và trẻ, nếu các khuyến khích thuế không quy định các điều khoản chuyển sang
hay hoàn trả tiền thuế. Do các công ty nhỏ/non trẻ có đặc trưng chung là bị thua lỗ
trong những năm đầu tiến hành các dự án NC&PT, họ không có nguồn thu nhập chịu
thuế và vì thế không có các khoản thuế phải trả mà các khuyến khích thuế có thể áp
dụng để giảm bớt.
Trong khi nghiên cứu của OECD (Jaumotte and Pain, 2005a, 2005b) đã tìm ra bằng
chứng cho rằng các khuyến khích bằng thuế có hiệu quả trong việc làm tăng chi tiêu
NC&PT, các khuyến khích thuế là một bộ phận điển hình của một chiến lược rộng lớn
hơn để thúc đẩy đổi mới. Các thành phần của một chiến lược như vậy bao gồm một
môi trường kinh doanh đổi mới, tinh thần doanh nghiệp, đầu tư vào giáo dục và nghiên
cứu, một hệ thống bảo hộ SHTT có hiệu lực, v.v...
III. SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP ƯU ĐÃI THUẾ TẠI CÁC NƯỚC OECD
VÀ MỘT SỐ NƯỚC CHỌN LỌC
1. Áp dụng chính sách ưu đãi thuế NC&PT hiện nay trên thế giới
Chính sách ưu đãi thuế đối với NC&PT doanh nghiệp hiện nay được sử dụng rộng
rãi tại các nước OECD và các nước ngoài OECD. Cho đến nay có 26 trong số 34 quốc
gia thành viên OECD áp dụng các biện pháp khuyến khích thuế NC&PT đối với các
doanh nghiệp. Trong số các nước ngoài OECD, có Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ, Liên
bang Nga, Singapo và Nam Phi cũng đã áp dụng các khuyến khích về thuế đối với
NC&PT.
Các chế độ khuyến khích về thuế đối với NC&PT hiện tại khác biệt đáng kể giữa
các nước về các khía cạnh như mức độ ưu đãi; cách thiết kế các biểu thuế và cách
chúng được nhằm mục tiêu vào các công ty khác nhau hay vào các lĩnh vực cụ thể.
Khuyến khích về thuế đối với NC&PT bao gồm khuyến khích thuế dựa vào chi tiêu,
quan trọng nhất có các hình thức tín dụng thuế NC&PT, miễn thuế NC&PT và tín
dụng thuế khấu lưu từ lương NC&PT, và khuyến khích thuế dựa trên thu nhập, quan
trọng nhất là các biểu thuế ưu đãi đối với thu nhập từ bản quyền và các thu nhập khác
từ nguồn vốn tri thức được hưởng một mức ưu đãi thuế.
Hầu hết các nền kinh tế thuộc OECD và các nền kinh tế mới nổi đều áp dụng một
hệ thống trong đó tín dụng thuế NC&PT được cung cấp dựa vào khối lượng chi tiêu
NC&PT (volume-based) đã được thực hiện (như Canađa, Vương quốc Anh, Pháp,
Nhật Bản, Na-Uy, Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ), trong khi các nước khác chú trọng áp
33
dụng tín dụng thuế NC&PT được tính dựa trên chi tiêu NC&PT gia tăng (có nghĩa là
chi tiêu vượt quá một mức chuẩn cho trước). Các hình thức miễn thuế NC&PT được
thực hiện ở Đan Mạch, Cộng hóa Séc, Áo, Hungari, và Vương quốc Anh. Tín dụng
thuế khấu lưu từ lương NC&PT, tức là phần khấu trừ từ khoản thuế lương và những
đóng góp bảo hiểm xã hội cũng đang được sử dụng tại Bỉ, Hungari, Hà Lan và Tây
Ban Nha.
Một số nước nhằm mục tiêu vào các công ty tiến hành nghiên cứu cơ bản; và nhiều
nước cung cấp các biện pháp ưu đãi thuế hào phóng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SME). Một số nước còn phân biệt theo độ tuổi của một công ty. Ví dụ như Pháp áp
dụng một chế độ đối với các công ty mới thành lập, trong khi các nước khác lại
khuyến khích hợp tác khoa học - công nghiệp. Hoa Kỳ gần đây áp dụng một loại tín
dụng hào phóng hơn cho NC&PT trong lĩnh vực năng lượng. Cuối cùng, một số nước
có các chế độ quy định rằng thu nhập từ bản quyền và các thu nhập khác từ nguồn vốn
tri thức được hưởng một tỷ lệ ưu đãi, ví dụ như ưu đãi thuế đối với lợi nhuận phát sinh
từ cấp phép sáng chế hiện đang được áp dụng tại Vương quốc Anh. Bảng 5 dưới đây
thể hiện những khác biệt trong thiết kế và áp dụng các biểu thuế tại các nước OECD và
một số nước ngoài OECD.
Bảng 5: Chi tiết về những khác biệt ở các biện pháp khuyến khích về thuế đối với
NC&PT tại các nước OECD chọn lọc, năm 2009.
Thiết kế các
biện pháp
khuyến
khích thuế
NC&PT
Tín dụng thuế NC&PT căn cứ theo
giá trị
Ôxtrâylia, Canađa, Pháp, Na-Uy,
Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ
Tín dụng thuế NC&PT theo số gia
tăng
Hoa Kỳ
Hệ thống thuế kết hợp căn cứ vào
giá trị và số gia tăng
Nhật Bản, Hàn Quốc, Bồ Đào Nha, Tây
Ban Nha
Miễn thuế NC&PT Đan Mạch, CH Séc, Áo, Hungari,
Vương quốc Anh
Tín dụng thuế khấu lưu từ lương NC&PT Bỉ, Hungari, Hà Lan, Tây Ban Nha
Khuyến khích thuế NC&PT ưu đãi hơn đối với
SME
Canađa, Ôxtrâylia, Nhật Bản, Vương
quốc Anh, Hungari, Hàn Quốc, Na-Uy
Nhằm mục
tiêu đặc biệt
vào
Lĩnh vực năng lượng Hoa Kỳ
Hợp tác nghiên cứu Italia, Hungari, Nhật Bản, Na-Uy
Người được thụ quyền mới Pháp
Các công ty trẻ và mới khởi sự Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc
Mức trần đối với số tiền được xác nhận Italia, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Áo, Hà Lan
Khuyến khích thuế NC&PT dựa trên thu nhập Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha
Không áp dụng khuyến khích thuế NC&PT Estonia, Phần Lan, Đức, Luxembourg,
Mehico, Niu Zilân, Thụy Điển, Thụy Sĩ
Nguồn: OECD (2010a).
Ghi chú: Miễn thuế NC&PT là miễn giảm thuế đến một tỷ lệ nhất định của chi tiêu NC&PT
và có thể được sử dụng để bù vào thu nhập chịu thuế; tín dụng thuế làm giảm khối lượng nợ
thuế thực tế phải trả.
34
Hỗ trợ cho NC&PT doanh nghiệp thông qua hệ thống thuế là một phần đặc trưng
của một tập hợp rộng hơn các chính sách hỗ trợ đầu tư vào NC&PT, nó cũng bao gồm
cả các hình thức hỗ trợ trực tiếp như các khoản tài trợ, cho vay hay ký hợp đồng mua
sắm (hình 4). Có những khác biệt đáng kể trong hỗn hợp chính sách hỗ trợ NC&PT
doanh nghiệp của các nước, ví dụ như một số nước OECD không áp dụng các khuyến
khích thuế NC&PT, trong khi các nước khác như Hoa Kỳ và Tây Ban Nha lại dựa
nhiều hơn vào hỗ trợ trực tiếp, và một nhóm các nước trong đó có Canađa và Nhật
Bản, để hỗ trợ cho đầu tư NC&PT lại trông cậy chủ yếu vào các khuyến khích thuế
NC&PT.
Chi phí tổng thể liên quan đến các biện pháp khuyến khích thuế cho NC&PT phụ
thuộc vào sự thu hút các công ty hưởng ứng tham gia và cả vào việc thiết kế các
khuyến khích thuế của một nước. Những khác biệt đáng kể thể hiện ở mức độ ưu đãi
trong các biện pháp khuyến khích thuế giữa các nước và bên trong các nước giữa các
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong những năm gần đây, đã diễn ra những thay đổi nổi bật về việc áp dụng các
biện pháp khuyến khích thuế NC&PT. Xu thế chung trong số các nước OECD đó là
điều chỉnh các biện pháp khuyến khích thuế của mình để làm cho sự đãi ngộ hào
phóng hơn và dễ sử dụng hơn. Hình 4 cho thấy mức độ hào phóng của các ưu đãi thuế
ngày càng tăng với đa số các nước thuộc OECD cung cấp các khoản trợ cấp thuế cao
hơn vào năm 2008 so với năm 1999 đối với cả các công ty lớn và nhỏ, ngoại trừ Đan
Mạch, Mehico và Italia.
Hình 4: Chế độ ưu đãi thuế cho NC&PT: Thay đổi về tỷ lệ trợ cấp thuế ứng với 1 USD
NC&PT của năm 1999 so với 2008.
(Nguồn: OECD Science, Technology and Industry Scoreboard 2009).
35
Xu thế chung đó là làm tăng tính khả dụng, tính dễ sử dụng và mức độ ưu đãi của
các biện pháp khuyến khích thuế NC&PT. Pháp (năm 2008) và Ôxtrâylia (năm 2010)
đã thay thế hệ thống thuế lai ghép phức tạp tính thuế theo giá trị và theo lượng gia tăng
bằng một hệ thống đơn giản hơn và với mức độ ưu đãi lớn hơn.
Bỉ, Ailen, Hàn Quốc, Na-Uy, Bồ Đào Nha và Vương quốc Anh cũng đã tăng tỷ lệ
tín dụng thuế hay mức trần chi tiêu NC&PT hợp lệ trong những năm gần đây. Canađa
đã áp dụng các quy định hành chính mới nhằm tạo điều kiện thúc đẩy khả năng tiếp
cận đến chương trình tín dụng thuế NC&PT của mình, cải thiện tính nhất quán và tính
có thể dự đoán trước, và nâng cao chất lượng của quy trình đánh giá (khiếu nại). Trung
Quốc đã mở rộng loại hình tín dụng thuế NC&PT đến tất cả các doanh nghiệp hoạt
động trong các lĩnh vực công nghệ then chốt (công nghệ sinh học, ICT, và các lĩnh vực
công nghệ cao khác), ngay cả khi các công ty này đặt trụ sở bên ngoài các "khu công
nghệ mới" đã được chỉ định cụ thể.
Gần đây, khuyến khích thuế NC&PT còn được sử dụng để giúp các công ty đương
đầu với cuộc khủng hoảng tài chính, mặc dù thường chỉ là dựa trên cơ sở tạm thời. Ví
dụ, Nhật Bản và Hà Lan đã tạm thời nâng mức trần chi tiêu NC&PT hợp lệ. Nhật Bản
cũng cho phép gia hạn chuyển tiếp dài hơn đối với tín dụng thuế NC&PT chưa sử
dụng, khi nhận thức được rằng nhiều công ty rơi vào vị trí không thể được hưởng tổng
tín dụng thuế NC&PT của họ do lợi nhuận giảm trong thời kỳ kinh tế xuống dốc.
Trước năm 2009, các công ty sẽ phải đợi đến ba năm để được hoàn trả tín dụng chưa
sử dụng của mình. Sau việc áp dụng chế độ này vào năm 2009, các công ty đã có thể
được hoàn trả tín dụng chưa sử dụng của mình trong vòng ba năm trước. Biện pháp
này được hy vọng sẽ làm tăng thu nhập từ thuế đã miễn (forgone tax revenue) lên 6 tỷ
USD vào năm 2009 (0,29% GDP).
Các nước không sử dụng khuyến khích thuế NC&PT đối với các công ty
Không phải tất cả các nước đều cho rằng khuyến khích thuế là một công cụ hiệu quả
để khắc phục những tác động bất lợi của các yếu tố tri thức ngoại lai, hay tin tưởng rằng
khuyến khích thuế giúp khích lệ đáng kể đầu tư NC&PT tư nhân. Trái ngược với xu thế
gia tăng sử dụng các biện pháp khuyến khích thuế, các nước như Mehico và Niu Zilân
gần đây đã bãi bỏ các biện pháp khuyến khích thuế NC&PT của mình. Mêhico đã
chuyển đổi tín dụng thuế NC&PT thành hỗ trợ trực tiếp vào năm 2009. Niu Zilân đã áp
dụng tín dụng thuế NC&PT vào năm 2008 nhưng đã hủy bỏ hiệu lực kể từ năm tài khóa
2009-10. Đức và Phần Lan là những nước đã từng sử dụng các khuyến khích bằng thuế
(cùng với hỗ trợ tài chính trực tiếp), nhưng hai nước này đã quyết định bãi bỏ các biện
pháp này vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990.
Lý do chủ yếu liên quan đến sự phức tạp của hệ thống thuế chung khi áp dụng các
khuyến khích thuế NC&PT và với quan điểm cho rằng các công cụ chính sách khác sẽ
thích hợp hơn.
Các chính phủ cũng như ngành công nghiệp đôi khi lập luận (giống như trường hợp
ở Đức) rằng một sự suy giảm chung ở thuế suất doanh nghiệp là một công cụ thích hợp
36
hơn để thúc đẩy sự cạnh tranh trong ngành công nghiệp. Hệ thống thuế của Đức được
cho là có tính phức tạp cao với một căn cứ tính thuế (tax base) hẹp, thuế suất cao và
nhiều biện pháp miễn giảm thuế áp dụng với các ngành đặc biệt và/hoặc với các dạng
đầu tư khác nhau (ví dụ như lĩnh vực nhà ở tư nhân). Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần làm
cho hệ thống thuế bớt phức tạp hơn, các thuế suất thấp hơn và căn cứ tính thuế rộng
hơn. Chính từ quan điểm đó mà các khuyến khích thuế NC&PT được coi là một công
cụ làm cho hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp của nước này trở nên phức tạp hơn.
Trong trường hợp phải khắc phục với tình trạng thuế suất thấp và một hệ thống thuế dễ
dàng hơn, thì sẽ là không thận trọng nếu làm tăng tính phức tạp của thảo luận chính
sách bằng cách đề cử một khuyến khích thuế mới.
2. Áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế NC&PT tại các nước G7 và một số
nước chọn lọc
Bảng 6: Áp dụng khuyến khích thuế NC&PT tại các nước G7 và một số nước
chọn lọc
Tên
nước/khuyến
khích thuế chủ
yếu
Mô tả biện pháp khuyến khích thuế Thu nhập từ
thuế đã
miễn Tỷ lệ khấu trừ Chi tiêu Khấu
trừ/Mức trần
(1) (2) (3) (4) (5)
Canađa
Chương trình tín
dụng thuế nghiên
cứu khoa học và
phát triển thực
nghiệm (SR&ED
tax credit)
Áp dụng cho các
doanh nghiệp
nhỏ thuộc sở hữu
của người
Canađa: 35%
tổng chi tiêu
NC&PT của
ngưỡng 3 triệu
USD chi tiêu ban
đầu và sau đó là
20%. Đối với các
doanh nghiệp
lớn: 20%.
Chi phí hiện hành, máy
móc và thiết bị (M&E)
Thuế phải trả
(lợi nhuận chịu
thuế). Không có
mức trần đối
với NC&PT
hợp lệ.
2002: 2,3 tỷ
CAD
(0,21%GDP)
2008: 3,2 tỷ
CAD
(0,22%GDP)
Các đặc điểm khuyến khích thuế khác: Hoàn trả cho các doanh nghiệp nhỏ
thuộc sở hữu của người Canađa. Áp dụng chuyển lùi (3 năm) và chuyển tiếp
(20 năm) đối với tất cả các công ty. Không tính thuế đối với tất cả các chi tiêu
NC&PT hiện hành và cơ bản (ngoại trừ nhà xưởng).
Những thay đổi quan trọng gần đây: Năm 2008 - nâng ngưỡng được hưởng
khấu trừ thuế từ 2 triệu USD lên 3 triệu USD; Các SME đã tăng quy mô có
quyền yêu cầu được hưởng 35% khấu trừ thuế. 10% chi tiêu NC&PT thực hiện
ở nước ngoài giờ đây có đủ tư cách để được khấu trừ thuế.
37
Pháp
Tín dụng thuế
nghiên cứu
(CIR) - chương
trình lâu dài với
các biện pháp
tạm thời
30% tổng giá trị
chi tiêu nghiên
cứu trong
ngưỡng 100
triệu euro ban
đầu và sau đó là
5%. Tỷ lệ 30%
được tăng lên
50% (năm đầu
tiên) và 40%
(năm thứ hai)
đối với các
công ty được
hưởng tín dụng
thuế lần đầu.
Chi phí hiện hành và
khấu hao tất cả các tài
sản cố định. Lương và
đóng bảo hiểm xã hội
cho các nhà nghiên
cứu mới có trình độ
PhD (24 tháng sau
tuyển dụng) được tính
tăng gấp đôi và được
coi là chi tiêu NC&PT
hợp lệ.
Thuế phải trả
(lợi nhuận
miễn thuế).
Không quy
định mức trần
ưu đãi thuế đối
với chi tiêu
NC&PT hợp lệ
(tỷ lệ thấp
hơn).
2004: 547
triệu euro
(0,03%GDP)
2008: 1,5 tỷ
euro
(0,08%GDP)
2009: 5,6 tỷ
euro
(0,29%GDP)
Các đặc điểm khuyến khích thuế khác: không tính thuế đối với tất cả các
chi tiêu hiện hành
Những thay đổi quan trọng gần đây: năm 2008 - chỉ áp dụng tín dụng thuế
dựa trên giá trị (volume-based) thay cho hệ thống lai ghép. Ngưỡng chi
tiêu ban đầu được khấu trừ 35% tăng từ 16 triệu lên 100 triệu euro. Năm
2009: Hoàn trả trực tiếp toàn bộ tín dụng thuế chưa sử dụng cho tất cả các
công ty (thay cho phải đợi 3 năm), được coi là biện pháp tạm thời.
Đức
Hiện tại không áp dụng các biện pháp khuyến khích bằng
thuế
0 euro
Những thay đổi quan trọng gần đây: Chính quyền liên bang đã thống nhất
sẽ áp dụng tín dụng thuế NC&PT trước năm 2012.
Italia
Tín dụng thuế
NC&PT
10% giá trị;
40% nếu
NC&PT được
thực hiện hợp
tác với các
trường đại học
hay các tổ chức
nghiên cứu
công.
Chi phí hiện hành và
M&E
Thuế phải trả.
Mức trần là 50
triệu euro chi
tiêu NC&PT
hợp lệ.
Các đặc điểm khác: Không hoàn trả và không chuyển sang. Không tính
thuế đối với tất cả các chi tiêu hiện hành.
Những thay đổi quan trọng gần đây: Hệ thống này (10% giá trị) được thực
hiện từ năm 2007.
38
Nhật Bản
Tín dụng thuế
NC&PT
(chương trình
lâu dài với các
biện pháp tạm
thời)
12% giá trị đối
với SME và 8-
10% đối với
doanh nghiệp
lớn (phụ thuộc
vào cường độ
NC&PT của
doanh nghiệp);
5% đối với
NC&PT gia
tăng (NC&PT
trung bình của
3 năm trước
được coi là mốc
chuẩn)
Chi phí hiện hành và
khấu hao M&E
Thuế phải trả.
Giá trị khấu
trừ tối đa là
30% số tiền
thuế phải trả
(20% theo
mức cộng 10%
gia tăng).
2003: 105 tỷ
yên
(0,02%GDP)
2007: 629,9
tỷ yên
(0,12% GDP)
Các đặc điểm khác: Không hoàn thuế nhưng có thể chuyển tiếp 1 năm nếu
chi tiêu NC&PT cao hơn năm trước. 2009 đến 2010: có thể chuyển tiếp
đến năm 2011. Áp dụng chế độ tính thuế dựa vào chi tiêu gia tăng đối với
các SME (khấu trừ 20% dựa trên sự khác biệt giữa các chi tiêu NC&PT và
một phần mười doanh số trung bình của ba năm cuối).
Những thay đổi quan trọng gần đây: năm 2009 (và đối với năm tài khóa
2009 và 2010): giá trị tín dụng thuế tối đa tăng từ 30% lên 40% và có thể
chuyển tiếp đến năm tài khóa 2012.
Vương quốc Anh
Miễn thuế
NC&PT
(chương trình
lâu dài)
175% giá trị đối
với SME và
130% đối với
các công ty lớn.
Chi phí hiện hành. Không có mức
trần, nhưng các
công ty cần chi
tiêu ít nhất là
10.000 GBR để
có đủ tư cách
nhận tín dụng.
2002: 390
triệu GBR
(0,04%GDP)
2008: 820
triệu GBR
(0,06%GDP)
Các đặc điểm khác: áp dụng hoàn trả đối với các SME (cứ 100 GBR chi
tiêu NC&PT hợp lệ được hoàn trả 24 GBR). Có thể chuyển tiếp (vô hạn)
áp dụng đối với tất cả các công ty. Miễn thuế hoàn toàn đối với tất cả chi
tiêu hiện hành.
Những thay đổi quan trọng gần đây: Năm 2008 - tăng tỷ lệ khấu trừ (từ
125% lên 130% (công ty lớn); từ 150% lên 175% (SME)); định nghĩa
SME tăng độ lớn (từ 250 nhân viên và doanh thu 50 triệu GBR lên 500
nhân viên và 100 triệu GBR doanh thu);
Hoa Kỳ
Tín dụng thuế
NC&PT
- 20% tín dụng
gia tăng đối với
Chi phí hiện hành. Thuế phải trả.
(lợi nhuận chịu
2005: 5,1 tỷ
USD
39
các chi tiêu hợp
lệ cao hơn mức
cơ sở tính thuế
(tín dụng nghiên
cứu thông
thường); hoặc
- Tỷ lệ khác áp
dụng đối với tín
dụng nghiên cứu
gia tăng thay thế
(AIRC) và tín
dụng đơn giản
hóa thay thế
(ASIC). (công ty
cần lựa chọn
giữa 3 chế độ
này)
thuế). Áp dụng
tỷ lệ tín dụng
nghiên cứu
thông thường
20% với mức
trần là 50% chi
tiêu NC&PT
hợp lệ. Giá trị
tín dụng tối đa
là 25% nghĩa
vụ thuế phải
nộp.
(0,17%GDP)
2008: 7,1 tỷ
USD
(0,18%GDP)
Các đặc điểm khác: Không áp dụng hoàn trả, nhưng được chuyển tiếp 20
năm áp dụng đối với tất cả các công ty. Mốc chuẩn tính thuế (để ước tính
lượng chi tiêu nghiên cứu gia tăng) áp dụng khác nhau đối với các công ty
đã thành lập và công ty mới khởi sự. Áp dụng tín dụng thuế năng lượng
dựa vào giá trị (20% đối với 100% chi tiêu theo hợp đồng với các tổ chức
nghiên cứu công và một số công ty nhỏ). Miễn thuế hoàn toàn đối với các
chi tiêu hiện hành.
Những thay đổi quan trọng gần đây: Gia tăng tín dụng nghiên cứu đối với
lĩnh vực nghiên cứu năng lượng và cho phép hoàn trả đối với các tín dụng
nghiên cứu chưa sử dụng thay cho miễn thuế khấu hao đối với tài sản được
coi là hợp lệ.
Ôxtrâylia
Tín dụng thuế
NC&PT (2010)
(chương trình sẽ
được xem xét lại
vào năm 2014)
45% giá trị đối
với các công ty
nhỏ và 40% đối
với các công ty
khác.
Chi phí hiện hành và
M&E
Thuế phải trả.
Không có mức
trần, nhưng
các doanh
nghiệp cần chi
tiêu ít nhất là
20.000 AUD
để có đủ tư
cách được
hưởng tín
dụng.
2004: 485
triệu AUD
(0,04%GDP)
2008: 820
triệu AUD
(0,07%GDP)
Các đặc điểm khác: các công ty nhỏ (tổng doanh thu thấp hơn 20 triệu
AUD) có thể được hoàn trả thay cho chuyển tiếp. Không có mức trần đối
với lượng chi tiêu NC&PT được hoàn trả. Áp dụng chuyển sang đối với tất
cả các công ty. Miễn thuế hoàn toàn đối với các chi phí hiện hành.
40
Những thay đổi quan trọng gần đây: năm 2010 - chuyển đổi từ hệ thống
miễn thuế NC&PT hỗn hợp "dựa trên giá trị và lượng gia tăng" (125% đối
với mức chuẩn + 175% ứng với mức gia tăng) sang một hệ thống tín dụng
thuế đơn giản hơn dựa vào giá trị; Định nghĩa công ty nhỏ tăng độ lớn (từ
doanh thu thấp hơn 5 triệu AUD lên đến 20 triệu AUD), và bỏ mức trần (2
triệu AUD chi tiêu NC&PT) tín dụng hoàn trả.
Bỉ
Tín dụng thuế
khấu lưu đối với
lương NC&PT
Giảm 75% tổng
tiền lương
NC&PT
Lương nghiên cứu và
đóng góp xã hội (bao
gồm cả các nhà nghiên
cứu nội bộ và theo
hợp đồng từ các
trường đại học hay
viện nghiên cứu
công).
Giảm thuế
khấu lưu đối
với tiền lương.
Không áp
dụng mức trần
đối với tổng
lương NC&PT
hợp lệ.
2004: 307
triệu euro
(0,11%GDP)
2008: 460
triệu euro
(0,14%GDP)
Tín dụng/miễn
thuế NC&PT
Tỷ lệ miễn thuế
áp dụng ở mức
114,5% hay 5%
tín dụng thuế.
Với mức thuế
doanh nghiệp là
33,99 cả hai
chế độ đều có
chi phí tương
đương đối với
chính phủ.
Tài sản cố định, có thể
bao gồm cả công nghệ
xanh (rộng hơn FM
R&D)
Khấu trừ đối với
thu nhập từ
patăng (khuyến
khích NC&PT
rộng)
Giảm 80%
(giảm tỷ lệ thuế
thu nhập có
hiệu lực xuống
đến mức 6,8%)
Tổng thu nhập từ
patăng (cấp giấy phép,
tiền bản quyền, tiền
thù lao sáng chế trong
doanh số bán hàng hóa
và dịch vụ)
Thu nhập chịu
thuế
Các đặc điểm khác: tín dụng thuế khấu lưu từ tiền lương có tác dụng như
sự hoàn trả (thông qua hệ thống thuế lương), trong khi tín dụng chưa sử
dụng (từ hệ thống tín dụng thuế) có thể được hoàn trả sau 5 năm. Hoàn
toàn miễn thuế đối với các chi tiêu hiện hành.
Những thay đổi quan trọng gần đây: Tăng tỷ lệ tín dụng thuế khấu lưu từ
tiền lương (từ 65% lên 75% năm 2009) và tỷ lệ miễn thuế thu nhập (từ
114,5 lên 115,5% vào năm 2010). Năm 2009: đơn giản hóa hệ thống thuế
bằng cách áp dụng một tỷ lệ duy nhất (75%) đối với tất cả loại hình nhà
nghiên cứu (cán bộ nghiên cứu nội bộ; biệt phái làm việc cho các trường
đại học hay viện nghiên cứu công; biệt phái đến làm việc cho các công ty
đổi mới trẻ (những công ty nhỏ đạt ít nhất 15% cường độ NC&PT)). Năm
2007: áp dụng chế độ giảm thuế thu nhập từ patăng.
41
Đan Mạch
Miễn thuế
NC&PT
200% dựa theo
giá trị
Chi phí hiện hành Thu nhập chịu
thuế. Không áp
dụng mức trần
đối với
NC&PT hợp lệ
2008: 1,15 tỷ
DKK
(0,06%GDP)
Các đặc điểm chủ yếu khác: Không hoàn trả. Khuyến khích thuế được áp
dụng cả đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài và nguồn nhân lực chủ
chốt bằng cách hạ thấp tỷ lệ thuế lương cá nhân trong vòng 3 (25% thay
cho 31%) đến 5 năm (31% thay cho 38,4%). Miễn thuế hoàn toàn đối với
các chi tiêu hiện hành.
Những thay đổi quan trọng gần đây: Bãi bỏ chế độ khuyến khích thuế thử
nghiệm năm 2007 về tín dụng thuế NC&PT hợp tác (miễn giảm đến 150%
nếu NC&PT được thực hiện hợp tác với các trường đại học hợp lệ). Năm
2010: các công ty và cá nhân có thể được giảm thuế thu nhập đối với các
khoản quyên góp cho các tổ chức NC&PT phi lợi nhuận.
Hungary
Tín dụng thuế
NC&PT đối với
các dự án lớn
(trên 100 triệu
HUF)
Tỷ lệ khác nhau
theo khu vực
(25-50%) + độ
lớn (bổ sung
10-20%)
Tất cả các hoạt động
NC&PT theo phân
loại Frascati (hiện
hành+M&E+cơ bản)
Thuế phải trả
Giá trị tín dụng
tối đa: 80%
nghĩa vụ thuế
phải nộp.
2004: 19 tỷ
euro
(0,09%GDP)
2008: 24 tỷ
euro
(0,09%GDP)
Tín dụng thuế
lương NC&PT
15% đối với
công ty nhỏ,
10% đối với
công ty khác
Tiền lương và đóng
góp của nhân lực
NC&PT và phát triển
phần mềm
Miễn thuế
NC&PT
300% nếu là dự
án hợp tác với
trường đại học
hay tổ chức
nghiên cứu
công
Chi phí hiện hành (với
mức trần 50 triệu
HUF)
Các đặc điểm chủ yếu khác: Không hoàn trả nhưng có thể chuyển tiếp đến
5 năm. Ngoài các biện pháp khuyến khích bằng thuế trên, Hungary còn áp
dụng khấu hao nhanh tài sản cố định NC&PT (50%) và cho phép dự
phòng NC&PT (50% lợi nhuận trước thuế được giữ lại và nếu khối lượng
đó được sử dụng vì các mục đích NC&PT trong vòng 6 năm sau, sẽ được
miễn thuế hoàn toàn).
Những thay đổi gần đây: năm 2008 - tăng mức giới hạn dự phòng NC&PT
từ 25% lên 50%.
Ailen
Tín dụng thuế 25% NC&PT Chi phí hiện hành và Thuế phải trả 2004: 81
42
NC&PT gia tăng (với
mức chuẩn
được lấy của
năm 2003); và
25% tính theo
giá trị đối với
nhà xưởng
NC&PT
M&E (tính theo cơ sở
gia tăng) và nhà
xưởng NC&PT (tính
theo giá trị)
Không áp
dụng mức trần
đối với
NC&PT hợp lệ
triệu euro
(0,05%GDP)
2007: 165
triệu euro
(0,09% GDP)
Các đặc điểm chủ yếu khác: Áp dụng hoàn trả đối với tất cả các công ty
trong vòng 33 tháng (bắt đầu từ năm 2010). Chuyển lùi (1 năm) cũng được
áp dụng. Miễn thuế hoàn toàn đối với các chi tiêu hiện hành.
Những thay đổi gần đây: Năm 2009 - tăng tỷ lệ tín dụng (từ 20% lên 25%
dựa theo NC&PT gia tăng); tín dụng chưa sử dụng có thể được hoàn trả
(theo 3 đợt) trong vòng 33 tháng. Tăng tỷ lệ tín dụng nhà xưởng NC&PT
(từ 20 lên 25%) và cho phép được hưởng tín dụng đối với nhà xưởng
NC&PT.
Hàn Quốc
Tín dụng thuế
nghiên cứu và
phát triển nguồn
nhân lực
(R&HRD)
(chương trình
lâu dài từ năm
2009)
Tính theo giá trị,
tín dụng thuế
25% đối với các
công ty nhỏ; 3%
đến 6% đối với
các công ty lớn
(tùy thuộc vào
cường độ
NC&PT của công
ty), hoặc
50% NC&PT gia
tăng đối với công
ty nhỏ (với chi
tiêu NC&PT
trung bình của 4
năm trước được
lấy làm mốc
chuẩn); 40% đối
với công ty lớn
Chi phí hiện hành Thuế phải trả
Không áp
dụng mức trần
đối với
NC&PT hợp lệ
2008: 1911
tỷ KRW
(0,19%GDP)
Tín dụng thuế
thiết bị R&HRD
(chương trình
tạm thời)
10% giá trị M&E Thuế phải chịu
Không áp
dụng mức trần
Các đặc điểm chủ yếu khác: Không hoàn trả nhưng được chuyển tiếp
(M&E) đến 5 năm. Áp dụng khuyến khích thuế đối với nhà nghiên cứu
nước ngoài thông qua miễn giảm (100%) thuế lương cá nhân trong 5 năm
đầu. Miễn thuế hoàn toàn đối với các chi tiêu hiện hành.
43
Những thay đổi gần đây: Năm 2008 - tăng tỷ lệ tín dụng (từ 15 lên 25%
đối với công ty nhỏ dựa trên chi phí hiện hành và từ 7% lên 10% đối với
chi phí M&E của tất cả các công ty); Năm 2010 - áp dụng các khuyến
khích thuế NC&PT mới đối với các ngành công nghiệp tăng trưởng chiến
lược (30% đối với các công ty nhỏ, 20% đối với các công ty khác) và
NC&PT công nghệ xuất xứ nguyên gốc (35% đối với công ty nhỏ, 25%
đối với công ty khác).
Hà Lan
Tín dụng thuế
khấu lưu từ
lương NC&PT
(chương trình
lâu dài với các
biện pháp tạm
thời)
Giảm 50% (64%
đối với các doanh
nghiệp khởi sự)
đối với 150.000
euro tiền lương
NC&PT đầu tiên
(220.000 euro vào
năm 2010), 18%
sau đó.
Lương nghiên cứu và
đóng góp xã hội
Giảm thuế
khấu lưu từ
lương. Mức
trần là 14 triệu
euro đối với
tổng lương
NC&PT
2003: 329
triệu euro
(0,07%GDP)
2008: 445
triệu euro
(0,07%GDP)
Đối với người tự
hành nghề với ít
nhất là 500 giờ
thực hiện
NC&PT, giảm
thuế thu nhập
11.806 euro (năm
2010: 12.031
euro). Bổ sung
thêm 5.904 euro
(6.017 euro năm
2010) cho khởi sự
doanh nghiệp.
Thuế phải chịu
Tổng thu nhập
đổi mới (khuyến
khích NC&PT
rộng)
2010: giảm tỷ
lệ thuế thu nhập
có hiệu lực
xuống mức 5%.
Thu nhập từ các dự án
NC&PT hợp lệ
Thu nhập chịu
thuế
Các đặc điểm chủ yếu khác: tín dụng thuế khấu lưu từ lương được coi như
sự hoàn trả (thông qua hệ thống thuế lương), tín dụng chưa sử dụng (từ
tổng thu nhập đổi mới) có thể chuyển tiếp đến 5 năm. Miễn thuế hoàn toàn
đối với các chi phí hiện hành.
Những thay đổi gần đây: Năm 2009 và 2010 - tăng dần tỷ lệ và mức trần
(tỷ lệ năm 2008 là 42% đối với 110.000 chi phí lương ban đầu và 14% đối
với phần còn lại (tăng lên đến một mức trần là 8 triệu euro)). Năm 2009:
xác định NC&PT mở rộng, bao gồm cả phát triển các dịch vụ dựa trên cơ
sở phần mềm; mở rộng thu nhập hợp lệ từ patăng bao gồm cả thu nhập từ
các dự án NC&PT hợp lệ với các điều kiện ưu đãi hơn.
44
Ba Lan
Tín dụng thuế
mua sắm công
nghệ (chương
trình lâu dài)
150% dựa theo
giá trị
M&E, tài sản patăng
và vô hình. Chi tiêu
hợp lệ không chỉ dựa
trên NC&PT (rộng
hơn so với phân loại
NC&PT Frascati)
Thu nhập chịu
thuế.
Không áp
dụng mức trần
đối với
NC&PT hợp lệ
2006: 1,9
triệu PLN
(0,00%GDP)
2008: 1,5
triệu PLN
(0,00%GDP)
Các đặc điểm chủ yếu khác: Không hoàn trả nhưng có thể chuyển tiếp đến
5 năm đối với tất cả các công ty. Miễn thuế hoàn toàn đối với tất cả các chi
phí hiện hành.
Những thay đổi gần đây: Năm 2010 - áp dụng khuyến khích thuế NC&PT
bổ sung (thúc đẩy nhanh khấu hao) đối với các doanh nghiệp được công
nhận là Trung tâm NC&PT (các công ty có cường độ NC&PT đạt 20% với
doanh thu cao hơn 5 triệu PLN (1,2 triệu euro).
Braxin
Miễn thuế
NC&PT
160% theo giá
trị
Chi phí hiện hành Thu nhập chịu
thuế
Trung Quốc
Miễn thuế
NC&PT
150% theo giá
trị
Chi phí hiện hành Thu nhập chịu
thuế. Không áp
dụng mức trần
đối với NC&PT
hợp lệ.
Các chương trình khuyến khích thuế khác: Giảm thuế chung (thuế thu
nhập giảm từ 25% xuống 15%) đối với các công ty NC&PT đặt trụ sở tại
các khu công nghệ mới hay đầu tư vào các lĩnh vực then chốt như công
nghệ sinh học, ICT và các lĩnh vực công nghệ cao khác. Tỷ lệ giảm thuế
thu nhập này cũng áp dụng đối với các công ty công nghệ cao và doanh
nghiệp phát triển phần mềm có trụ sở tại các khu công nghệ mới.
Những thay đổi gần đây: Trước năm 2008: miễn thuế NC&PT 150% chỉ
áp dụng đối với các công ty NC&PT đặt tại các khu công nghệ mới, giờ
đây mở rộng đến tất cả các công ty NC&PT hoạt động trong các lĩnh vực
then chốt (công nghệ sinh học, ICT và các lĩnh vực công nghệ cao khác).
Ấn Độ
Miễn thuế
NC&PT
150% theo giá
trị
Chi phí hiện hành và
M&E
Thu nhập chịu
thuế
Nguồn: OECD NESTI R&D questionnaire, 1/2010; OECD (2010a); Warda (2009).
45
Kết luận
Các chính phủ ngày càng chú trọng sử dụng các biện pháp khuyến khích thuế
NC&PT như một công cụ chính sách hỗ trợ NC&PT. Lý do quan trọng nhất đối với
việc sử dụng công cụ này là để bổ sung cho tính tương thích còn hạn chế của NC&PT
tư nhân với các hiệu ứng lan tỏa tri thức. Bằng cách cho phép giảm thuế dựa trên tổng
giá trị hay số gia tăng ở chi tiêu NC&PT của một công ty, các chính phủ thực hiện
đồng cung cấp tài chính cho NC&PT tư nhân. Về dài hạn, mục tiêu chủ yếu của các
khuyến khích bằng thuế đối với NC&PT đó là làm gia tăng chi tiêu NC&PT doanh
nghiệp, và hiệu quả của công cụ chính sách này được phân tích dựa trên phần gia tăng
đầu vào. Trong những năm gần đây, các khuyến khích thuế ngày càng được sử dụng
để phục vụ cho các mục tiêu chính sách khác, bao gồm hỗ trợ cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, đầy mạnh mối liên kết khoa học - công nghiệp và thúc đẩy NC&PT trong
các lĩnh vực chủ đề nhất định. Các chính phủ cũng thường đặt kỳ vọng vào tác động
của khuyến khích thuế NC&PT đến khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp, và
coi các khuyến khích thuế như một công cụ để nâng cao khả năng thu hút quốc tế của
đất nước mình như một địa điểm tiến hành đổi mới.
Hầu hết các đánh giá về tác động gia tăng đầu vào từ các khuyến khích thuế
NC&PT cho thấy có sự khác biệt giữa các nước về hiệu quả đạt được, phụ thuộc vào
điều kiện của từng nước và chu kỳ tính thuế và phương pháp thuộc toán kinh tế học áp
dụng. Tác dụng tích cực được phát hiện thấy đối với các loại khuyến khích thuế
NC&PT khác nhau, bao gồm cả cách tính thuế dựa trên giá trị và dựa theo số gia tăng,
cũng như các khuyến khích bằng tín dụng thuế, miễn thuế và cả các chế độ nhằm vào
thuế doanh nghiệp và các đóng góp bảo hiểm xã hội. Có thể dẫn đến kết luận rằng,
khuyến khích thuế NC&PT là một công cụ hữu ích để khích lệ NC&PT tư nhân và
nâng chi tiêu NC&PT doanh nghiệp lên một mức cao hơn. Với sự chú trọng đến các
đặc điểm thiết kế các khuyến khích thuế NC&PT, các khuyến khích dựa trên tổng giá
trị và tín dụng thuế có xu hướng đem lại sự gia tăng cao hơn.
Các nghiên cứu về tác động của các khuyến khích thuế NC&PT đối với thành tích đổi
mới và hiệu suất của các công ty cho thấy những tác động tích cực đến khả năng các công
ty giới thiệu các sản phẩm và quy trình mới, với một mức độ mới lạ cao trong những đổi
mới đó. Cùng lúc, có những bằng chứng cho thấy việc sử dụng các khuyến khích thuế đã
góp phần nâng cao năng suất và các số đo khác về hiệu suất của công ty. Kết quả này có thể
chỉ ra rằng các khuyến khích thuế NC&PT có tác dụng thúc đẩy các dự án NC&PT với suất
lợi tức biên cao và có khả năng nâng cao năng suất của doanh nghiệp.
Hiệu quả của các khuyến khích thuế NC&PT từ lâu được đánh giá thông qua sự gia
tăng ở đầu vào. Nhưng gần đây, các chính phủ đã thông qua và sử dụng các khuyến
khích thuế NC&PT không chỉ để nâng cao chi tiêu NC&PT, mà còn để thúc đẩy các
hoạt động đổi mới của doanh nghiệp và nâng cao phúc lợi xã hội. Việc sử dụng các
khuyến khích thuế NC&PT như một công cụ chính sách như vậy dựa vào giả định cho
rằng năng lực đổi mới của các công ty được khởi động bằng NC&PT, điều này thực sự
46
đúng đối với lĩnh vực chế tạo, và có tác dụng yếu hơn đối với ngành dịch vụ. Do
ngành dịch vụ đang ngày càng trở nên quan trọng đối với thành tích đổi mới và hiệu
suất của một nền kinh tế , mối liên kết NC&PT - đổi mới càng trở nên mang tính thách
thức. Ngoài ra, trong một thế giới toàn cầu hóa, NC&PT được thực hiện ở một quốc
gia không nhất thiết chỉ dẫn đến những lợi ích đổi mới và năng suất ở nước đó. Đặc
biệt là khi các công ty đa quốc gia đang tối ưu hóa các quy trình đổi mới của mình trên
phạm vi toàn cầu và chuyển giao các kết quả NC&PT ra trên phạm vi toàn cầu để
thương mại hóa tri thức tại nhiều nơi và hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao nhất.
Với những phân tích về tác động tích cực của các biện pháp khuyến khích thuế
NC&PT, vai trò của các khuyến khích thuế NC&PT trong danh mục các công cụ chính
sách của chính phủ nhằm kích thích NC&PT và đổi mới cần được cân nhắc. Ở đây có
cả những lập luận ủng hộ việc áp dụng các khuyến khích thuế và có cả những hạn chế
cần xem xét của công cụ này.
Tác động đến tính hiệu quả của các biện pháp khuyến khích thuế NC&PT, từ triển
vọng doanh nghiệp có những yếu tố dước đây đóng vai trò quan trọng:
Việc thiết kế các khuyến khích thuế NC&PT có ảnh hưởng đến tính hiệu quả
của nó. Theo khía cạnh này, một yếu tố rất quan trọng đó là các khuyến khích
thuế đối với NC&PT doanh nghiệp cần được thiết lập theo một khuôn khổ đơn
giản và dài hạn.
Đối với các công ty lớn, khuyến khích thuế cần rõ ràng và hữu hình, và tránh
việc khiến cho các công ty chia nhỏ các bộ phận nghiên cứu lớn của mình
thành những bộ phận nghiên cứu nhỏ hơn.
"Hành vi chiến lược" của các công ty - ghi nhãn lại các hoạt động của mình
thành hoạt động NC&PT - cần được tính đến và việc thiết kế khuyến khích thuế
cần giảm đến mức tối thiểu những kẽ hở dẫn đến hành vi này.
Với phạm vi áp dụng rộng, các hiệu ứng lan tỏa là rất lớn bất kể các biện pháp
khuyến khích thuế hỗ trợ cho các hoạt động NC&PT đang tiếp diễn hay hoàn
toàn mới. Và năng lực tiếp thu của các SME sử dụng khuyến khích thuế cũng sẽ
được cải thiện rõ rệt.
Những nhược điểm cần cân nhắc khi áp dụng các khuyến khích thuế NC&PT gồm:
Chính phủ sẽ phải đối mặt với tính không chắc chắn liên quan đến ngân sách
hơn so với công cụ tài trợ trực tiếp cho NC&PT;
Do các khuyến khích thuế tạo nên những điều khoản miễn thuế trong luật thuế,
chúng gây phức tạp cho hệ thống thuế. Bên cạnh đó, một thiết kế chế độ khuyến
khích thuế quá đơn giản có thể tạo ra cơ hội cho các công ty ghi nhãn lại các
hoạt động nhất định thành hoạt động NC&PT. Để ngăn chặn điều này, thì một
định nghĩa quy định rõ ràng về chi tiêu NC&PT hợp lệ và sự giám sát ở mức độ
đủ cao là điều cần thực hiện.
Chế độ khuyến khích thuế dựa theo giá trị tăng thêm (increment-based) được
thiết kế trên cơ sở điều chỉnh liên tục dễ tạo cơ hội cho các công ty có những
47
"hành vi chiến lược", họ điều chỉnh thời điểm và phân bổ chi tiêu của mình để
được coi là hợp lệ, như vậy dễ dẫn đến những bóp méo trong phân bổ vốn. Do
đầu tư NC&PT doanh nghiệp mang tính đồng chu kỳ (procyclical) cao, nên chế
độ tính thuế theo giá trị chi tiêu tăng thêm có thể không thích hợp để thúc đẩy
NC&PT trong các chu kỳ kinh tế đi xuống.
Việc sử dụng kết hợp cả hai chế độ khuyến khích thuế tính theo tổng giá trị
(volume-based) và theo số chi tiêu tăng thêm (increment-based) có thể làm tăng
tính phức tạp và làm giảm sự minh bạch của hệ thống khuyến khích thuế.
Tác động kinh tế - xã hội của các chính sách ưu đãi thuế NC&PT sẽ phụ thuộc vào
một bối cảnh hình thành rộng lớn hơn. Ở đây có ít nhất hai yếu tố rộng cần cân nhắc,
đó là: hệ thống thuế tổng thể và tầm quan trọng của các công cụ chính sách khoa học
và công nghệ khác, đặc biệt là hỗ trợ tài chính trực tiếp cho NC&PT doanh nghiệp.
Một hệ thống thuế rộng hơn không quá phức tạp và được đặc trưng bằng mức
thuế suất thu nhập doanh nghiệp tương đối cao là một môi trường thuận lợi cho
việc áp dụng các khuyến khích thuế NC&PT doanh nghiệp.
Bối cảnh hệ thống đổi mới quốc gia rộng hơn (các chính sách tài chính khác,
quyền SHTT, các quy định, cơ sở hạ tầng KHCN, nghiên cứu công, các chương
trình giáo dục và đào tạo) cần được đem ra cân nhắc khi thực hiện khuyến khích
thuế NC&PT doanh nghiệp.
Khuyến khích thuế có các ưu và nhược điểm tiềm năng so với hỗ trợ tài chính
trực tiếp cho NC&PT doanh nghiệp. Trong bất cứ trường hợp nào cũng cần
thiết phải có sự phối hợp của hai công cụ chính sách này. Những lợi thế quan
trọng nhất của các khuyến khích thuế là: Tính trung lập cao (chúng có tiềm
năng tác động đến tất cả các công ty); Chi phí quản lý hành chính có tiềm năng
thấp nếu như chế độ thuế không phức tạp; Cơ hội tiếp cận và tính xác thực lớn
hơn; Tính có thể dự đoán trước cao hơn từ góc độ ngân sách doanh nghiệp.
Điều rõ ràng là các khuyến khích bằng thuế có thể đạt hiệu quả cao trong việc thúc
đẩy NC&PT doanh nghiệp. Thiết kế cụ thể một chế độ khuyến khích thuế dường như
là yếu tố then chốt quyết định tính hiệu quả của nó.
Để thúc đẩy đầu tư NC&PT doanh nghiệp, ở đây cần thiết phải có một sự kết hợp
chính sách tối ưu. Khuyến khích thuế được sử dụng khi chính phủ muốn đạt được một
phạm vi rộng các công ty tham gia vào các hoạt động NC&PT. Tài trợ trực tiếp của
chính phủ cho NC&PT doanh nghiệp cần nhằm mục tiêu vào các lĩnh vực nghiên cứu,
nơi tồn tại khoảng cách lớn giữa suất lợi nhuận tư nhân và xã hội. Các nhà hoạch định
chính sách cần đảm bảo rằng các biện pháp khuyến khích bằng thuế và tài trợ trực tiếp
của chính phủ cho NC&PT doanh nghiệp cần bổ sung cho nhau. Điều này chỉ có thể
đạt được thông qua một cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các tổ chức chính phủ, các bộ
và cơ quan hữu quan trong việc thúc đẩy NC&PT doanh nghiệp.
Biên soạn: Nguyễn Phương Anh
48
Tài liệu tham khảo
1. David Torstensson: R&D Tax Credits - Economic Rationale and
Impact. Pugatch Consilium. 1/2012.
2. OECD, 9/2011. The International Experience with R&D Tax Incentives.
United States Senate Committee on Finance.
3. OECD, 2002. TAX INCENTIVES FOR RESEARCH AND
DEVELOPMENT: TRENDS AND ISSUES. Science, Technology,
Industry Secretariat. 2002.
4. Fiscal Incentives for Business R&D: Compendium of Evidence on the
Effectiveness of Innovation Policy Intervention. Manchester Institute of
Innovation Research, 2/2012.
5. Raising EU R&D Intensity: Improving the Effectiveness of Public
Support Mechanisms for Private Sector Research and Development - Fiscal
Measures. Independent Expert Group, European Commission. 2003.
6. Sunil Mani: How governments can boost business R&D. SciDev.Net,
9/2005.
7. OECD (2002b), Science, Technology and Industry Outlook 2002.
8. WARDA J. (2002), "A 2001-2002 Update of R&D Tax Treatment in
OECD Countries," report prepared for the OECD Directorate for Science,
Technology and Industry.
9. Bloom, N., R. Griffith and J. van Reenen, 2002. Do R&D tax credits work,
Evidence from a panel of countries 1979-1997. Journal of Public
Economics (85), pp. 1-31.
10. OECD, 2002. Frascati Manual: Proposed Standard Practice for Surveys on
Research and
1. Experimental Development, 6th Edition ed. OECD, Paris.
11. OECD, Eurostat, 2005. OECD Proposed Guidelines for Collecting and
Interpreting Technological Innovation Data: Oslo Manual 3rd Edition.
OECD, Paris.
12. Warda, J., 2001. Measuring the Value of R&D Tax Treatment in OECD
Countries, OECD STI Review No. 27.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_chinh_sach_uu_dai_thue_thuc_day_nghien_cuu_va_phat.pdf