Tài liệu Dự báo kinh tế thế giới 2019-2020 và đóng góp của các ngành công nghiệp thâm dụng tri thức và công nghệ vào GDP

Tỷ trọng KTI trong các nền kinh tế phát triển cao hơn nhiều so với các nền kinh tế đang phát triển, chủ yếu là do các dịch vụ KI trong các nền kinh tế phát triển nhiều hơn. Xu hướng sản xuất sản phẩm công nghệ cao (HT), đặc biệt là hàng điện tử, CNTT đã và đang dịch chuyển từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển và mới nổi ở châu Á, nhất là khu vực ASEAN. Hoa Kỳ và Trung Quốc là những nhà sản xuất lớn nhất thế giới của các ngành công nghiệp sản xuất HT. Khối lượng xuất khẩu sản phẩm HT toàn cầu chủ yếu là các sản phẩm CNTT, máy tính và bán dẫn. Xuất khẩu sản phẩm HT của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh nhất52 trong số tất cả các nước đang phát triển. Việt Nam đã trở thành một địa điểm chi phí thấp cho lắp ráp điện thoại di động và các sản phẩm CNTT khác, với một số công ty chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc, nơi có chi phí lao động cao hơn, để sản xuất tại Việt Nam. Trong thế giới ngày nay, trình độ và năng lực KH&CN của một quốc gia là yếu tố quyết định quyết định năng lực cạnh tranh quốc tế. Việc ứng dụng nhanh chóng những đổi mới công nghệ, cũng như tận dụng có hiệu quả những thành tựu mới nhất của R&D trong các lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Mặc dù sẽ còn nhiều khó khăn và thách thức đối với kinh tế toàn cầu trong năm 2019-2020, nhưng chi cho R&D, đổi mới sáng tạo vẫn tiếp tục tăng trưởng. Điều đó cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của R&D, bởi chỉ có nó mới có thể sẽ giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như kinh tế toàn cầu tăng trưởng ổn định và bền vững trong tương lai. KH&CN, thông qua các ngành KTI, có xu hướng đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế.

pdf54 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 143 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Dự báo kinh tế thế giới 2019-2020 và đóng góp của các ngành công nghiệp thâm dụng tri thức và công nghệ vào GDP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu kém tiế tục cản trở tiến trình hướng tới nhiều Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. Điều này được chứng minh bằng sự gia tăng gần đây số người sống trong nghèo đói. Đối với Mỹ Latinh và Caribê, việc thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu có thể có khả năng cản trở triển vọng đầu tư và làm suy yếu sự phục hồi. Rủi ro cũng có thể có liên quan đến sự suy giảm tiềm năng của nền kinh tế Hoa Kỳ, điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể nhất đến các nền kinh tế của Mexico, Trung Mỹ và Caribbean và sự suy giảm giá dầu và kim loại Một số nước Đông và Nam Á 36 Một số nền kinh tế Đông và Nam Á có thể được hưởng lợi từ một số chuyển hướng sản xuất, vì mức thuế cao hơn có thể thúc đẩy các công ty chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Tuy nhiên, bất kỳ sự di chuyển lớn nào của sản xuất đều khó xảy ra trong thời gian ngắn, do các công ty sẽ cần thời gian để đánh giá các khía cạnh khác của hoạt động ở một quốc gia mới, như sự sẵn có của lao động, cơ sở hạ tầng và các quy định trong nước. Mặc dù có nhiều xung đột thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, khu vực này vẫn có một số sáng kiến để tăng cường hoạt động thương mại nội khối. Điều này bao gồm Thỏa thuận đối tác toàn diện khu vực (RCEP) và Thỏa thuận toàn diện và tiến bộ cho quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Triển vọng khu vực Nam Á là tương đối thuận lợi. GDP khu vực dự kiến sẽ tăng 5,4% năm 2019 và 5,9% năm 2020, so với 5,6% năm 2018. Tăng trưởng dự kiến sẽ được hỗ trợ bởi tiêu dùng tư nhân, đầu tư. Nhưng ngoài những xu hướng chung này, triển vọng kinh tế rất khác nhau giữa các quốc gia. Năm 2019, nền kinh tế Ấn Độ dự kiến sẽ vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng rất cao từ 7,3% đến 7,6% (theo UN và ADB), thậm chí cao hơn năm 2018, và còn duy trì tốc độ cao sang cả năm 2020. Tăng trưởng tiếp tục được củng cố bởi tiêu dùng tư nhân mạnh mẽ, lập trường tài chính mở rộng hơn và lợi ích từ các cải cách trước đây. Theo ADB, đà tăng trưởng tiếp diễn ở Ấn Độ nhờ xuất khẩu gia tăng và sản lượng công nghiệp và nông nghiệp cao hơn. Tuy nhiên, sự phục hồi mạnh mẽ và bền vững hơn của đầu tư tư nhân vẫn rất quan trọng để nâng mức tăng trưởng trung hạn. Nền kinh tế Bangladesh cũng có tốc độ tăng trưởng trên 7,0% trong bối cảnh đầu tư, tiêu dùng tư nhân mạnh và chính sách tiền tệ hỗ trợ. Ngược lại, triển vọng tại Cộng hòa Hồi giáo Iran đã xấu đi rõ rệt do sự áp đặt lại các lệnh trừng phạt thương mại, đầu tư và tài chính của Hoa Kỳ và các điểm yếu trong nước về cấu trúc. Nền kinh tế Iran được ước tính đã bước vào suy thoái năm 2018, dự kiến sẽ lún sâu hơn trong suốt năm 2019. Tăng trưởng ở Đông Á được UN dự báo sẽ ở mức vừa phải từ 5,8% trong năm 2018, giảm xuống 5,6% năm 2019 và 5,5% vào năm 2020. Tiêu dùng tư nhân sẽ vẫn là động lực tăng trưởng chính, được hỗ trợ bởi tạo việc làm mạnh, thu nhập tăng và áp lực lạm phát vừa phải. Ở hầu hết các quốc gia, đầu tư cơ sở hạ tầng cũng được dự kiến sẽ vẫn mạnh khi các chính phủ tập trung vào mở rộng năng lực sản xuất và giảm bớt các nút thắt cơ cấu. Tuy nhiên, tăng trưởng xuất khẩu khu vực có thể sẽ chậm lại, trong bối cảnh chu kỳ điện tử toàn cầu và căng thẳng thương mại gia tăng. Kinh tế Nhật Bản nhìn chung sẽ có mức tăng trưởng khả quan hơn năm 2018, mặc dù có thể sẽ phải đối mặt với nhiều "cơn gió ngược" trong năm 2019 khi nhu cầu xuất khẩu chậm lại, thị trường tài chính bất ổn và thách thức lớn nhất là tăng thuế tiêu thụ. Nền kinh tế lớn thứ ba thế giới này đang vận hành tốt, có thể đã có một giai đoạn tăng trưởng dài nhất trong thời kỳ hậu chiến với GDP dự kiến năm 2019 đạt 1,4% (theo UN), hoặc khoảng 1% theo dự báo của các tổ chức còn lại, tuy nhiên đều cao hơn so với năm 2018. Tuy nhiên, sự suy giảm của nền kinh tế Trung Quốc và hậu quả do căng thẳng thương mại giữa Mỹ - Trung đã hạn chế sự phát triển của Nhật Bản. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng sức lao động của Nhật Bản sụt giảm, tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) khó có thể nâng cao và tốc độ tăng trưởng vốn 37 thấp. Ngoài ra, nhu cầu tiêu dùng ở Nhật Bản tiếp tục sụt giảm, đầu tư tư nhân giảm cùng với sự đi xuống của nền kinh tế Mỹ, xuất khẩu có thể tiếp tục chậm lại trước tình trạng kinh tế toàn cầu phục hồi chậm chạp, xung đột thương mại gia tăng. Đây là những yếu tố không có lợi cho sự hồi phục tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. Năm 2019 dự kiến sẽ là một năm khó khăn đối với nền kinh tế Hàn Quốc. Trước viễn cảnh ảm đạm của nền kinh tế, Viện nghiên cứu Hyundai (Hàn Quốc) dự báo, tốc độ tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc trong năm 2019 chỉ xoay quanh mức từ 2,6% - 2,7%. Song, bối cảnh khó khăn cũng là cơ hội để Hàn Quốc cải cách, tái cơ cấu toàn diện nền kinh tế. Nếu Chính phủ Hàn Quốc đưa ra được định hướng phù hợp, nền kinh tế sẽ tiến về phía trước. Theo chiều hướng ngược lại, nền kinh tế có nguy cơ rơi vào vòng xoáy suy thoái. Các chính sách tài chính mở rộng của chính phủ dự kiến sẽ mang lại một số hiệu quả. Xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc. Sự suy giảm trong xuất khẩu của Trung Quốc có thể có sự phân nhánh đáng kể trong khu vực, vì nhiều nền kinh tế Đông Á được tích hợp sâu vào các mạng lưới sản xuất trong khu vực, với Trung Quốc thường là trung tâm của các mạng lưới này. Điều này một phần được phản ánh trong tỷ lệ xuất khẩu cao sang Trung Quốc của nhiều nền kinh tế Đông Á. Đối với Đông và Nam Á, việc thắt chặt đột ngột các điều kiện tài chính toàn cầu có nguy cơ đe dọa sự ổn định và tăng trưởng tài chính. Nam Á phải đối mặt với một số rủi ro có thể làm thay đổi đáng kể quỹ đạo tăng trưởng dự kiến. Những bất ổn chính trị, thất bại trong việc thực hiện cải cách và, ở một số quốc gia, vấn đề an ninh, có thể ảnh hưởng đến triển vọng đầu tư. Đây là một vấn đề quan trọng vì khu vực cần giải quyết các nút thắt cơ sở hạ tầng để thúc đẩy tăng trưởng năng suất, khuyến khích giảm nghèo hơn nữa và điều chỉnh theo biến đổi khí hậu. Về phía bên ngoài, việc thắt chặt đột ngột các điều kiện tài chính toàn cầu và sự leo thang hơn nữa của các tranh chấp thương mại đang diễn ra có thể gây ra rủi ro cho triển vọng khu vực. Các điều kiện bên ngoài đầy thách thức hơn có thể làm lộ thêm sự mất cân đối kinh tế vĩ mô và các lỗ hổng tài chính liên quan đến thâm hụt tài khoản và tài khoản vãng lai cao và mức nợ tăng cao ở một số nền kinh tế. Tây Á Ở Tây Á, sự phụ thuộc vào xuất khẩu hydrocarbon và căng thẳng địa chính trị còn tiếp tục đè nặng lên triển vọng tăng trưởng của khu vực trong giai đoạn 2019-20. Giá dầu trung bình cao hơn trong năm 2018 không chỉ góp phần cải thiện cân bằng tài khóa mà còn ảnh hưởng đến tâm lý kinh tế tích cực trong các nhà sản xuất dầu thô lớn của khu vực, cụ thể là các quốc gia thành viên của Hội đồng Hợp tác các quốc gia Ả Rập thuộc vùng Vịnh (GCC): Bahrain, Kuwait, Ô-man, Qatar, Ả-rập Xê-út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Sự tăng trưởng kinh tế khu vực năm 2019 và 2020 dự kiến sẽ khiêm tốn lần lượt là 4,5% và 4,7%, thấp hơn so với năm 2018 (6,3%). Mặc dù sự không chắc chắn ngày càng tăng trong thị trường dầu mỏ, nhưng lĩnh vực phi dầu mỏ trong các nền kinh tế GCC được dự kiến sẽ mở rộng, tăng cường liên kết với các nền kinh tế Đông và Nam Á. Cải cách chính sách đang diễn ra và việc củng cố tài khóa dự kiến sẽ mang lại khả năng phục hồi kinh tế vĩ mô cho các nước nhập khẩu năng lượng. Tuy nhiên, tác động tích cực của cả hai yếu tố được dự báo sẽ bị hạn 38 chế trong ngắn hạn. Hơn nữa, sự không chắc chắn về địa chính trị dự kiến sẽ tiếp tục cản trở khu vực đạt được tiềm năng kinh tế. Ở Tây Á, các nền kinh tế vẫn dễ bị tổn thương bởi sự không chắc chắn của thị trường dầu mỏ, nổi bật bởi sự sụt giảm của giá dầu trong quý IV năm 2018. Khu vực này cũng dễ bị rủi ro địa chính trị do thiếu các cam kết chính trị vững chắc để giải quyết và ngăn chặn xung đột. Môi trường chính sách vẫn còn thách thức trên mặt trận tài chính. Trên toàn khu vực, có những nỗ lực đáng kể để hợp nhất tài khóa. Khu vực ASEAN Theo ADB, năm 2018, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,9% và năm 2019 dự báo giảm xuống 6,8%, còn theo WB, tỷ lệ này lần lượt là 6,8% và 6,5%. UN, lạc quan hơn khi cho rằng tỷ lệ này lần lượt là 6,9% và 6,7%. Như vậy, nhìn chung triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2019 cũng nằm trong xu hướng giảm chung của thế giới. Theo Báo cáo về Tình hình và Triển vọng Kinh tế Thế giớ của UN, các nước ASEAN có mức tăng trưởng không đồng đều, Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao nhất trong số các nước hàng đầu khu vực, năm 2018 ước đạt 6,9%, so với Singapo 3,2%, Malaixia 4,6%, Thái Lan 4,1%, Inđônêxia 5,1%. Theo UN, dự kiến năm 2019 và 2020, tăng trưởng kinh của Việt Nam giảm xuống lần lượt là 6,7% và 6,5%, tuy nhiên vẫn cao hơn các nước này. Theo UN, tăng trưởng kinh tế cao nhất trong khu vực ASEAN năm 2018 là Campuchia (7,1%), Việt Nam và Myanma đứng thứ 2 (6,9%). Dự kiến trong năm 2019 và 2020, tăng trưởng kinh tế của Myanma sẽ đạt mức cao nhất ASEAN (7,2%), tiếp đến là Lào (7,0% và 7,1%), Campuchia (7,0% và 6,6%) và Việt Nam. II. ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NGÀNH CÔNG NGHIỆP THÂM DỤNG TRI THỨC VÀ CÔNG NGHỆ VÀO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 2.1. Đóng góp của các ngành công nghiệp thâm dụng tri thức và công nghệ vào GDP toàn cầu đang ngày càng tăng Các ngành công nghiệp thâm dụng tri thức và công nghệ (Knowledge and Technology - Intensive Industries, gọi tắt là KTI) là một phần quan trọng của nền kinh tế toàn cầu. Các ngành công nghiệp KTI chiếm tỷ trọng cũng như giá trị tuyệt đối ngày càng cao trong hoạt động kinh tế cũng như trong đóng góp vào GDP toàn cầu (Bảng 2.1). Theo Báo cáo Chỉ số Khoa học và Công nghệ 2018 (Science and Engineering Indicators 2018) của Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ, các ngành công nghiệp KTI chiếm 31,37% (tương đương 23,58 nghìn tỷ USD) GDP toàn cầu năm 2016, so với 30,09% năm 2015, 30,05% năm 2014, 29,28% năm 2011. Xu hướng đóng góp ngày càng tăng của các ngành công nghiệp KTI vào GDP là rất rõ ràng cả về giá trị tuyệt đối và tương đối. Bảng 2.1. Giá trị gia tăng và tỷ trọng trong GDP của các ngành công nghiệp KTI toàn cầu (giai đoạn 2011- 2016) 39 Khu vực/nước/nền kinh tế 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp KTI toàn cầu (tỷ USD hiện hành) 21.467 22.207 22.819 23.635 22.976 23.583 GDP toàn cầu (tỷ USD hiện hành) 73.300 74.687 76.794 78.636 74.347 75.154 Tỷ trọng trong GDP (%) 29,28 29,73 29,71 30,05 30,90 31,37 Nguồn: Science and Engineering Indicators 2018 Ngành công nghiệp KTI bao gồm cả các ngành dịch vụ và sản xuất, dựa trên 15 loại ngành trước đây được phân loại bởi Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD 2001, 2007) có mối liên kết đặc biệt chặt chẽ với khoa học và công nghệ. Chúng bao gồm: 5 ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao (High- technology manufacturing industries), 5 ngành công nghiệp dịch vụ thâm dụng tri thức (Knowledge- intensive services industries), và 5 ngành công nghiệp công nghệ trung bình cao (Medium-high- technology industries). Định nghĩa các ngành công nghiệp KTI đã được mở rộng trong ấn phẩm “Science and Engineering Indicators 2018” của Quỹ Khao học Quốc gia Mỹ, với việc bổ sung 5 ngành công nghiệp công nghệ trung bình cao, với giá trị gia tăng toàn cầu là 3.300 tỷ USD năm 2016. 5 ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao: Máy bay và phi thuyền; dược phẩm; máy tính và máy móc văn phòng; chất bán dẫn và thiết bị liên lạc; và các công cụ đo lường, y tế, điều hướng, quang học và thử nghiệm. 5 ngành này chi một phần lớn thu nhập vào nghiên cứu và phát triển. 5 ngành dịch vụ thâm dụng tri thức gồm: Kinh doanh; giáo dục; tài chính; chăm sóc sức khỏe và thông tin. Đây là những ngành kết hợp công nghệ cao trong dịch vụ hoặc trong việc cung cấp dịch vụ. 3 trong số này - các dịch vụ tài chính, kinh doanh và thông tin (bao gồm cả phần mềm máy tính và R&D) thường được giao dịch thương mại. Những ngành khác — giáo dục và chăm sóc sức khỏe — mặc dù thị trường này ít được định hướng hơn so với các ngành công nghiệp KTI khác trên thị trường toàn cầu, nhưng cạnh tranh về giáo dục và y tế ngày càng tăng. Các dịch vụ công tham dụng tri thức cũng đang trở nên toàn cầu hơn; ví dụ, nhiều trường đại học có cơ sở quốc tế. 5 ngành công nghiệp công nghệ trung bình cao: xe cơ giới và phụ tùng; hóa chất không bao gồm dược phẩm; máy móc và thiết bị điện; máy móc và thiết bị; đường sắt và các thiết bị vận tải khác. Các ngành công nghiệp này trước đây được phân loại bởi OECD chi một tỷ lệ tương đối lớn doanh thu của họ cho R&D và tạo ra sản phẩm kết hợp các công nghệ tiên tiến. Mặc dù 5 ngành công nghiệp này có mức độ chi cho R&D thấp hơn các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao, nhưng chúng vẫn sản xuất nhiều sản phẩm kết hợp các công nghệ tiên tiến và dựa trên tri thức khoa học. Ví dụ, ô tô và xe tải chứa các cảm biến và phần mềm tinh vi sử dụng công nghệ cảm biến, đo lường và thông tin và truyền thông để ngăn ngừa tai nạn, tối ưu hóa hiệu suất động cơ và tối đa hóa tiết kiệm nhiên liệu. 40 15 ngành công nghiệp KTI, bao gồm 5 ngành dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức, 5 ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao và 5 ngành công nghiệp công nghệ trung bình cao, chiếm gần 1/3 GDP toàn cầu trong năm 2016. Trong đó, các ngành dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức chiếm tỷ lệ GDP toàn cầu cao nhất (15%), tiếp đến là các dịch vụ thâm dụng tri thức khu vực công chiếm (9%), các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ trung bình cao (4%) và các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao (2%). 2.2. Xu hướng đóng góp của các ngành KTI vào GDP của một số nước phát triển và đang phát triển Các nhà hoạch định chính sách ở nhiều quốc gia ngày càng nhấn mạnh vai trò trung tâm của tri thức, đặc biệt là R&D và các hoạt động khác thúc đẩy khoa học và công nghệ, trong sự tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Minh chứng là chúng đã có tác động lớn tới sản xuất hàng hóa và dịch vụ của Hoa Kỳ và các nền kinh tế lớn khác trên thị trường toàn cầu. Tỷ trọng KTI trong các nền kinh tế phát triển cao hơn nhiều so với các nền kinh tế đang phát triển, chủ yếu là do các dịch vụ thâm dụng tri thức trong các nền kinh tế phát triển nhiều hơn. Nhưng tỷ trọng KTI rất khác nhau, thậm chí giữa các nền kinh tế phát triển. Tại các nước phát triển và nhiều nước đang phát triển, xu hướng đóng góp ngày càng cao của các ngành KTI vào GDP được thể hiện rõ. Mỹ đứng đầu thế giới về tỷ lệ đóng góp của các ngành KTI vào GDP của nước này, chiếm 38% năm 2016 (tăng 1% so với năm 2006, tương đương giá trị tuyệt đối tăng hơn 2.000 tỷ USD), tiếp đến là Nhật Bản (36%), Liên minh châu Âu (EU) thấp hơn đáng kể (32%). Trung Quốc có tỷ đóng góp của các ngành KTI lớn nhất trong số các nền kinh tế đang phát triển, với 35% (so với 29% năm 2006), và tỷ trọng này tương đương với các nền kinh tế phát triển và cao hơn nhiều so với các nền kinh tế đang phát triển khác. Xét về giá trị tuyệt đối, năm 2016 giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp KTI của Trung Quốc đạt 4.049 tỷ USD, tăng gấp 5 lần so với năm 2006. Một xu hướng dễ nhận thấy khác tại các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ, EU và Nhật Bản, đó là tỷ lệ đóng góp vào GDP của các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ trung bình thấp và các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ thấp đã giảm dần. Cụ thể tại Mỹ, tỷ lệ đóng góp của các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ trung bình thấp vào GDP giảm từ 22% năm 2006 xuống còn 20% năm 2016, tại EU cũng giảm từ 26% xuống 17%, và tại Nhật Bản từ 11% xuống 9% trong cùng giai đoạn này. Ngược lại, tại Trung Quốc, tỷ lệ này tăng, từ 12% năm 2006 lên 30% năm 2016. Đối với tỷ lệ đóng góp của các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ thấp vào GDP tại Mỹ, EU và Nhật Bản thì xu hướng còn giảm mạnh hơn nữa, trong khi ở Trung Quốc thì các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ thấp và trung bình thấp vẫn đóng vai trò quan trọng với tỷ trọng từ 30-32%GDP. Trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam có sự tăng trưởng ấn tượng nhất về giá trị gia tăng và tỷ lệ đóng góp của các ngành công nghiệp KTI vào GDP. Năm 2006, giá trị gia tăng của các ngành này ở Việt Nam chỉ đạt 9 tỷ USD và đóng góp 13% GDP, nhưng đến năm 2016 giá trị này đã đạt 42 tỷ USD (tăng gần 5 lần) và tỷ lệ đóng góp vào GDP là 20%. Indonesia cũng có sự gia tăng đáng kể, từ 65 tỷ USD và 16% GDP năm 2006, tăng lên 176 tỷ USD và đóng góp 19% GDP năm 2016. Các nước tốp đầu 41 ASEAN – Singapore, Malaysia và Thái Lan - tỷ lệ đóng góp của các ngành công nghiệp KTI vào GDP không tăng, mặc dù giá trị gia tăng tuyệt đối của các ngành này tăng. Bảng 2.3. Giá trị gia tăng và tỷ lệ đóng góp của các ngành công nghiệp KTI vào GDP toàn cầu và ở một số nước/khu vực năm 2006 và 2016 Nước/khu vực Giá trị gia tăng và tỷ lệ đóng góp của các ngành công nghiệp KTI vào GDP (tỷ USD hiện hành, %) Tỷ lệ đóng góp của các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ trung bình thấp vào GDP Tỷ lệ đóng góp của các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ thấp 2006 2016 2006 2016 2006 2016 Giá trị gia tăng và tỷ lệ đóng góp vào GDP toàn cầu (Tỷ USD hiện hành, %) 15.693 30% 23.583 32% 4% 4% 4% 4% Mỹ 5.112 37% 7.111 38% 22% 20% 21% 16% EU 4.738 31% 5.200 32% 26% 17% 28% 17% Trung Quốc 839 29% 4.049 35% 12% 30% 13% 32% Nhật Bản 4.530 38% 1.780 36% 11% 9% 9% 6% Hàn Quốc 328 32% 488 35% Singapore 55 37% 99 36% Malaysia 42 26% 71 24% Thái Lan 55 24% 96 24% Indonesia 65 16% 176 19% Việt Nam 9 13% 42 20% Nguồn: Science and Engineering Indicators 2018 Bảng 2.4. Giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp KTI trên thế giới trong 10 năm (2007-2016) (tỷ USD hiện hành) Khu vực/nướ c/nền kinh tế 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Thế giới 17.559 18.881 18.354 19.790 21.467 22.207 22.819 23.635 22.976 23.583 Mỹ 5.327 5.401 5.411 5.599 5.788 6.083 6.238 6.544 6.887 7.111 Brazil 399 477 467 604 710 666 674 682 505 509 EU 5.474 5.833 5.323 5.319 5.695 5.400 5.626 5.837 5.174 5.200 Pháp 803 874 835 824 878 837 862 871 755 770 42 Đức 1.209 1.294 1.161 1.192 1.296 1.232 1.314 1.369 1.184 1.218 Anh 1.097 1.023 888 889 942 947 970 1.061 1.019 949 Nga 267 342 268 306 361 388 427 398 272 269 Nhật Bản 1.738 1.912 1.916 2.115 2.100 2.326 1.891 1.765 1.598 1.780 Hàn Quốc 366 329 297 369 413 426 461 498 491 488 Trung Quốc 1.106 1.406 1.567 1.885 2.321 2.670 3.102 3.473 3.838 4.048 Đài Loan 154 157 144 170 185 188 196 210 207 203 Ấn Độ 235 258 267 326 376 370 392 424 436 478 Singapo 64 64 65 81 94 99 104 108 98 99 Indonesia 79 93 97 128 149 158 165 162 160 176 Malaysia 47 51 47 59 66 73 77 79 71 71 Thái Lan 65 72 69 80 86 91 98 95 93 96 Philippin 31 34 37 42 47 53 59 62 66 69 Việt Nam 10 13 14 20 23 28 33 37 39 42 Nguồn: Science and Engineering Indicators 2018 2.3. Phân bố toàn cầu các ngành công nghiệp KTI Mỹ có tỷ trọng toàn cầu lớn nhất về các dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức trong năm 2016. Mỹ chiếm 31% thị phần toàn cầu (tương đương 3.651 tỷ USD, Bảng 4) các dịch vụ này (kinh doanh, tài chính và thông tin), tiếp theo là EU (21%). Trung Quốc là nhà cung cấp lớn thứ ba trên thế giới (chiếm 17% thị phần toàn cầu). Mặc dù tốc độ tăng trưởng chậm lại gần đây, nhưng các dịch vụ này của Trung Quốc tiếp tục phát triển nhanh hơn nhiều so với Mỹ và các nền kinh tế phát triển lớn khác. Bảng 4. Giá trị gia tăng của các ngành dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức trên thế giới trong 10 năm (2007-2016) (tỷ USD hiện hành) Khu vực/nước/nền kinh tế 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Thế giới 8.685 9.211 9.021 9.538 10.364 10.694 11.015 11.453 11.214 11.603 Mỹ 2.798 2.782 2.744 2.808 2.896 3.073 3.145 3.329 3.511 3.651 Brazil 198 228 235 301 350 332 324 330 243 245 EU 2.652 2.796 2.588 2.515 2.672 2.553 2.657 2.756 2.441 2.467 Pháp 393 423 408 404 433 421 422 422 366 376 Đức 503 536 498 480 510 486 529 544 467 485 Anh 620 565 497 484 512 517 536 591 573 541 Trung Quốc 464 583 668 786 977 1.154 1.373 1.560 1.806 1.934 Ấn Độ 130 148 154 192 217 220 240 261 264 294 Indonesia 38 43 46 62 72 77 78 76 75 84 43 Nhật Bản 771 827 873 922 993 989 800 736 674 751 Malaysia 25 28 29 36 40 43 45 47 41 42 Philippines 19 22 22 26 29 33 37 39 41 42 Singapore 29 32 33 39 46 49 54 57 55 55 Hàn Quốc 138 123 109 129 142 148 154 168 166 169 Đài Loan 52 53 47 53 58 59 61 63 62 63 Thái Lan 27 29 29 33 38 42 47 47 46 49 Việt Nam 2 3 4 9 10 11 13 14 14 15 Nguồn: Science and Engineering Indicators 2018 Giá trị gia tăng của các ngành dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức tại các nước phát triển khác trừ Mỹ, Hàn Quốc và Singapo đã không tăng trong 10 năm qua. Ngược lại, giá trị gia tăng của ngành này ở các nước đang phát triển lại tăng, như Trung Quốc từ 464 tỷ USD năm 2007 lên 1.934 năm 2016 (tăng hơn 4 lần) và chiếm 16,8% GDP của nước này. Ấn Độ cũng có sự tăng mạnh, từ 130 tỷ USD năm 2007 lên 294 tỷ USD (chiếm 13% GDP) năm 2016. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam có sự gia tăng mạnh nhất cả về tỷ lệ đóng góp và giá trị tuyệt đối của các ngành dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức vào GDP. Trong giai đoạn 2007-2010, Việt Nam có tỷ lệ đóng góp của các ngành này từ 2,6% GDP (tương đương 2 tỷ USD) năm 2007 lên 7,2% GDP (tương đương 15 tỷ USD). Tỷ lệ này của Thái Lan là 10% (tương đương 27 tỷ USD) năm 2007 lên 12% (tương đương 49 tỷ USD) năm 2016, Malaysia cũng có sự gia tăng tăng từ 13% năm 2007 tăng lên 14%. Mặc dù Việt Nam có sự gia tăng về tỷ lệ đóng góp của các ngành này vào GDP, nhưng xét về giá trị tuyệt đối thì mức đóng này vẫn còn rất thấp so với các nước khác trong khu vực: năm 2016 Việt Nam chỉ đạt 15 tỷ USD, so với Thái Lan 49 tỷ USD, Singapo 55 tỷ USD, Malaysia 42 tỷ USD, Phillipines 42 tỷ USD và thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển (Bảng 4). Trong sản xuất công nghệ cao, Mỹ là nước sản xuất toàn cầu lớn nhất (chiếm 31% thị phần toàn cầu). Thị phần toàn cầu của Mỹ vẫn ổn định trong thập kỷ qua. Trung Quốc là nước sản xuất toàn cầu lớn thứ hai (24%). Sự tăng trưởng nhanh chóng của các ngành công nghiệp Trung Quốc đã khiến thị phần toàn cầu của Trung Quốc đã tăng gấp đôi trong thập kỷ qua và Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trong năm 2008 và EU vào năm 2012. Mỹ cũng là nước xuất khẩu máy bay và tàu vũ trụ lớn nhất thế giới (chiếm 43% thị phần toàn cầu). Thâm hụt thương mại của Mỹ trong hàng hóa công nghệ cao phần lớn là trong các sản phẩm trong công nghệ thông tin và truyền thông — truyền thông, máy tính và chất bán dẫn. Mỹ có thặng dư thương mại đáng kể đối với các sản phẩm máy bay và tàu vũ trụ. Các ngành công nghiệp KTI của Mỹ đã có sự phục hồi mạnh mẽ hơn từ suy thoái kinh tế toàn cầu so với EU và Nhật Bản, được chứng minh bằng dữ liệu đầu ra bắt đầu từ năm 2011. Sản lượng giá trị gia tăng (Value-added output) của các dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức của Mỹ trong năm 2016 cao hơn 26% so với năm 2011. Trong khi giá trị này tại EU và Nhật Bản giảm. Các ngành công nghiệp sản xuất 44 công nghệ cao của Hoa Kỳ tăng 16% trong giai đoạn 2011-2016. Trong khi sản lượng của EU tăng nhẹ và sản lượng của Nhật Bản trì trệ. Sản lượng giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ trung bình cao của Mỹ tăng 17% trong năm 2016 so với năm 2011. Sản lượng tại EU giảm và Nhật Bản vẫn giữ nguyên. Các ngành công nghiệp KTI đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Mỹ và trong nghiên cứu và phát triển (R&D) của doanh nghiệp Mỹ. Các ngành dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức của Hoa Kỳ chiếm 17% lao động trong tất cả các ngành và chi 29% R&D của doanh nghiệp Mỹ. Các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao của Mỹ tuyển dụng 1,8 triệu công nhân và tài trợ gần một nửa R&D của doanh nghiệp Mỹ. Các ngành công nghiệp công nghệ trung bình cao của Mỹ tuyển dụng 3 triệu công nhân và chi 11% R&D của doanh nghiệp Mỹ. Các ngành công nghiệp KTI của Mỹ đã có sự phục hồi mạnh mẽ về sản lượng, nhưng khả năng cung cấp việc làm trong các ngành này đã yếu hơn. Việc làm trong các dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức trong năm 2016 cao hơn 1,2 triệu so với năm 2007. Mặc dù tăng trưởng mạnh mẽ sau suy thoái kinh tế toàn cầu, việc làm trong các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ trung bình cao vẫn thấp hơn một chút so với mức trước suy thoái kinh tế toàn cầu. Việc làm trong sản xuất công nghệ cao vẫn trì trệ và vẫn ở dưới mức trước suy thoái toàn cầu. Trung Quốc là nước sản xuất chủ đạo của thế giới trong các ngành công nghiệp công nghệ trung bình cao (chiếm 32% thị phần toàn cầu). Thị phần toàn cầu của Trung Quốc đã tăng gần gấp 3 lần trong thập kỷ qua, và vượt qua Hoa Kỳ vào cuối những năm 2000 và EU vào đầu những năm 2010. EU là khu vực xuất khẩu dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức lớn nhất thế giới, tiếp theo là Mỹ; cả hai đều có thặng dư đáng kể trong lĩnh vực này. Xuất khẩu dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức của EU năm 2016 tăng 20% so với năm 2011 và đạt hơn 500 tỷ USD (33% thị phần toàn cầu). Giá trị xuất khẩu các dịch vụ này của Mỹ tăng trưởng nhanh hơn so với EU trong giai đoạn này, đạt 288 tỷ USD (chiếm 18% thị phần toàn cầu). Xuất khẩu của các ngành công nghiệp KTI của Trung Quốc và Ấn Độ tăng trưởng nhanh chóng, dẫn đến thị phần xuất khẩu toàn cầu của họ đạt từ 6% –7% trong năm 2016. Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới về các sản phẩm công nghệ cao (chiếm 24% thị phần toàn cầu), với thặng dư đáng kể. Tuy nhiên, các đầu vào trung gian được nhập khẩu từ các quốc gia khác chiếm phần lớn giá trị xuất khẩu của Trung Quốc. Thặng dư thương mại và xuất khẩu của Trung Quốc được đo lường trên cơ sở giá trị gia tăng thấp hơn đáng kể. EU là khu vực xuất khẩu lớn thứ hai thế giới về các sản phẩm công nghệ cao (chiếm 17% thị phần toàn cầu). Mỹ là nước xuất khẩu lớn thứ ba (12%) theo sau là Đài Loan (Trung Quốc) 10%. EU là khu vực xuất khẩu hàng hóa công nghệ trung bình cao lớn nhất thế giới (chiếm 25% thị phần toàn cầu) và có thặng dư đáng kể. Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn thứ hai toàn cầu (20%) và có thặng dư thương mại đáng kể, cũng như nước đứng thứ ba Nhật Bản (11%). Hoa Kỳ là nước xuất khẩu lớn thứ tư và có thâm hụt đáng kể trong hàng hóa công nghệ cao trung bình. Hoa Kỳ có thâm hụt khá lớn trong 45 sản phẩm xe cơ giới và phụ tùng ô tô (98 tỷ USD), và thâm hụt 40- 52 tỷ USD trong máy móc và thiết bị điện. 2.4. Phân tích một số xu hướng toàn cầu trong một số ngành KTI Đầu tư ICT trong các ngành công nghiệp KTI Đầu tư vào ICT đóng một vai trò quan trọng trong khả năng cạnh tranh và đổi mới của các ngành công nghiệp KTI và các ngành công nghiệp khác. Ngoài ra, các ngành công nghiệp ICT (một tập hợp của các ngành công nghiệp KTI) - bao gồm truyền thông, chất bán dẫn, và máy tính và dịch vụ thông tin - sản xuất các sản phẩm và dịch vụ ICT được sử dụng trong toàn bộ nền kinh tế. Nhiều nhà kinh tế coi ICT như một công nghệ nền tảng đa năng về cơ bản thay đổi cách thức và nơi hoạt động kinh tế được thực hiện tại các quốc gia dựa trên tri thức ngày nay, chứ không chỉ là công nghệ có mục đích chung như trước đây (ví dụ, động cơ hơi nước, máy móc tự động) trong Cách mạng công nghiệp. Nhiều ngành công nghiệp KTI và các ngành công nghiệp khác đầu tư mạnh vào ICT để thành công và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Đầu tư vào ICT, đặc biệt là các doanh nghiệp, cũng rất quan trọng vì nó có tác động đáng kể đến mức sống, việc làm và năng suất của một quốc gia. Internet kết nối vạn vật (IoT) đang phát triển nhanh chóng và có tiềm năng nâng cao năng suất kinh doanh cũng như nâng cao mức sống. Hoa Kỳ có tỷ lệ đầu tư ICT cao nhất trong tất cả các ngành công nghiệp (được tính bằng tỷ trọng chi tiêu ICT của sản lượng gia tăng của ngành) so với ba nền kinh tế lớn khác là EU, Nhật Bản và Trung Quốc. Trong số các ngành công nghiệp KTI, Hoa Kỳ có tỷ lệ đầu tư ICT cao hơn đáng kể trong các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ trung bình cao và các dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức. Tỷ lệ đầu tư ICT cao trong các dịch vụ thương mại thâm dụng tri thức của Hoa Kỳ tương ứng với sự thống trị toàn cầu của công nghiệp Mỹ, đặc biệt là các ngành có nhiều R&D và các ngành kiến trúc và kỹ thuật. Tỷ lệ đầu tư ICT ở ba nền kinh tế khác thấp hơn nhiều so với Hoa Kỳ. Trong các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao, Trung Quốc, EU và Mỹ có cùng tỷ lệ đầu tư ICT, trong khi tỷ lệ của Nhật Bản thấp hơn đáng kể. Xu hướng toàn cầu trong ngành dịch vụ công cộng thâm dụng tri thức Các ngành dịch vụ công cộng thâm dụng tri thức — chăm sóc sức khỏe và giáo dục — chiếm 7 nghìn tỷ USD giá trị gia tăng toàn cầu. Các ngành này là những nguồn tri thức chính và đổi mới sáng tạo đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc gia. Mặc dù thị trường toàn cầu kém hơn so với các ngành công nghiệp KTI khác, nhưng cạnh tranh về giáo dục và y tế ngày càng tăng. Đào tạo sinh viên phục vụ công việc tương lai trong khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác, và các trường đại học nghiên cứu là một nguồn tri thức và đổi mới quan trọng cho các thành phần kinh tế khác. Nhiều trường đại học danh tiếng đang tìm cách tự thiết lập thương hiệu toàn cầu. Ngành y tế giúp giữ cho người dân khỏe mạnh và năng suất lao động cao, đào tạo và sử dụng lao động có tay nghề cao, tiến hành nghiên cứu và tạo ra đổi mới. Các trung tâm y tế hàng đầu ở nhiều quốc gia đang hợp tác xuyên biên giới và “du lịch y tế” đang phát triển. Hoa Kỳ và EU là các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục công và tư lớn nhất thế giới, với các tỷ trọng 46 toàn cầu tương ứng là 31% và 24% . Trung Quốc là nhà cung cấp lớn thứ ba (13%), tiếp theo là Nhật Bản (6%). Hoa Kỳ và EU cũng là những nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe lớn nhất. Nhật Bản là nhà cung cấp lớn thứ ba, tiếp theo là Trung Quốc. Tỷ trọng trọng giáo dục và chăm sóc sức khỏe toàn cầu của Mỹ vẫn gần như ổn định trong thập kỷ qua, mặc dù giá trị tuyệt đối tăng. Tỷ trọng này của EU và Nhật Bản giảm, nhưng của Trung Quốc tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn này, phù hợp với tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, chú trọng vào giáo dục và nỗ lực tập trung cải thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe. Ấn Độ và Indonesia cũng cho thấy sự gia tăng. Sự phát triển của giáo dục ở Trung Quốc và Ấn Độ đi đôi với sự gia tăng sinh viên đại học và đặc biệt là sự gia tưng số lượng tiến sĩ trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Xu hướng toàn cầu trong ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao Giá trị gia tăng toàn cầu của ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao là 1.600 tỷ USD trong năm 2016, chiếm 14% tổng sản lượng ngành công nghiệp sản xuất. Ba ngành công nghiệp sản xuất ICT - chất bán dẫn, máy tính và truyền thông - được toàn cầu hoá cao và liên quan đến các chuỗi giá trị phức hợp trong quá trình sản xuất. Các ngành công nghiệp ICT toàn cầu đã tạo ra 600 tỷ USD. Nhiều sản phẩm ICT như điện tử tiêu dùng có chu kỳ phát triển ngắn đòi hỏi sản xuất với số lượng lớn trong một thời gian ngắn. Quy mô sản xuất nhanh và lớn đòi hỏi địa điểm có thể được mở rộng sản xuất quy mô lớn với lao động có tay nghề cao, bao gồm các kỹ sư và công nhân sản xuất (Donofrio và Whitefoot 2015: 26). Ba ngành công nghiệp công nghệ cao còn lại là dược phẩm (540 tỷ USD); dụng cụ thử nghiệm, đo lường và kiểm soát (280 tỷ USD); và máy bay và tàu vũ trụ (190 tỷ USD). Trong ngành hàng không vũ trụ, Airbus và Boeing đã toàn cầu hóa mạng lưới sản xuất của họ để đáp ứng với các thị trường đang phát triển nhanh chóng ngoài thị trường nội địa và để đối phó với áp lực giảm lao động và các chi phí khác. Các mạng lưới toàn cầu được hưởng lợi từ việc tiếp cận nhanh hơn với nguyên liệu thô và năng lực kỹ thuật và chi phí lao động thấp. Ngành dược phẩm có hai chuỗi giá trị toàn cầu chính. Đối với các vắc-xin sinh học tổng hợp mới và các liệu pháp tế bào gốc, các công ty dược phẩm thường liên kết chặt chẽ với các phòng thí nghiệm nghiên cứu và phát triển y khoa vì các sản phẩm sáng tạo này yêu cầu tích hợp chặt chẽ R&D, thử nghiệm và sản xuất. Đối với các công nghệ hiện có và đã trưởng thành, chẳng hạn như các loại thuốc thông thường và generic, các công ty không cần phải đặt gần các phòng thí nghiệm nghiên cứu vì sự tích hợp chặt chẽ của R&D và sản xuất là không cần thiết (Donofrio và Whitefoot 2015: 25–26). Mỹ là nước sản xuất toàn cầu lớn nhất (31% thị phần toàn cầu) trong các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao. Tuy nhiên, các ngành này của Mỹ chỉ chiếm một phần nhỏ sản lượng công nghiệp và việc làm của Mỹ, mặc dù tỷ lệ đầu tư R&D của họ trong ngành này là khá lớn. Trung Quốc là nước sản xuất toàn cầu lớn thứ hai, với thị phần toàn cầu là 24%, EU lớn thứ ba (16%), Nhật Bản (6%) và Đài Loan (5%). Tại một số nước châu Á, Malaysia, Singapo, Thái Lan và Hàn Quốc, có sự thay đổi nhỏ trong tỷ trọng toàn cầu của họ trong các ngành này trong giai đoạn 2007-2016. Trong thập kỷ qua, các công ty có 47 trụ sở tại các nước này đã dịch chuyển chuỗi giá trị để trở thành các nhà sản xuất chất bán dẫn và các cấu kiện phức tạp khác cung cấp cho Trung Quốc và các nước khác. Sản lượng các ngành công nghiệp này tại Việt Nam tăng gần 8 lần trong giai đoạn 10 năm từ 2007-2016, phần lớn là do tăng trưởng trong ngành công nghiệp sản xuất ICT. Việt Nam đã trở thành một địa điểm chi phí thấp để lắp ráp điện thoại di động và các sản phẩm ICT khác, với một số hãng chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc do chi phí nhân công cao hơn. Sản lượng sản xuất công nghệ cao của Ấn Độ chỉ tăng nhẹ, Ấn Độ là nước sản xuất chính trong ngành dược phẩm (chiếm 2% thị phần toàn cầu), với các công ty Ấn Độ sản xuất thuốc generic và thực hiện thử nghiệm lâm sàng cho các công ty dược đa quốc gia có trụ sở tại Hoa Kỳ và EU. Xu hướng toàn cầu trong các ngành công nghiệp công nghệ trung bình cao Giá trị gia tăng toàn cầu của các ngành sản xuất công nghệ trung bình cao là 3,3 nghìn tỷ USD trong năm 2016, gấp đôi sản lượng ngành sản xuất công nghệ cao, và chiếm 29% tổng sản lượng ngành sản xuất nói chung. Ba ngành công nghiệp lớn nhất trong các ngành công nghiệp công nghệ trung bình cao là hóa chất không bao gồm dược phẩm, máy móc và thiết bị, và xe cơ giới và linh kiện (chiếm sản lượng từ 800 - 1.900 tỷ USD). Ngành công nghiệp lớn thứ tư là máy móc và thiết bị điện (500 tỷ USD). Đường sắt và thiết bị giao thông khác là ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhiều (100 tỷ USD). Mặc dù các ngành này có chuỗi giá trị toàn cầu nhưng hoạt động sản xuất thường nằm gần với thị trường cuối cùng. Bởi vì nhiều đầu vào và cấu phần được sản xuất gần hoặc tại thị trường cuối cùng, giá trị gia tăng có thể được chuyển vào công ty con hoặc nhà thầu của công ty. Ví dụ, trong ngành công nghiệp ô tô và phụ tùng, các cơ sở sản xuất của ba hãng ô tô lớn trên thế giới - General Motors, Toyota và Volkswagen - được phân bố rộng và tập trung tại các khu vực hoặc quốc gia của thị trường cuối cùng của họ. Chi phí vận chuyển cao trong nhiều ngành công nghiệp này vì các sản phẩm cuối cùng và các thành phần chính trong nhiều ngành công nghiệp này lớn và nặng, đặc biệt là ô tô, thiết bị lớn và thiết bị nặng. Hơn nữa, R&D và thiết kế gần khách hàng là thuận lợi cho sự hiểu biết nhu cầu của khách hàng và nhu cầu thị trường địa phương. Trung Quốc là nước sản xuất toàn cầu lớn nhất (32% thị phần toàn cầu) trong các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ trung bình cao, EU đứng thứ hai (20%), tiếp theo là Hoa Kỳ (19%), Nhật Bản thứ tư (10%). Xu hướng toàn cầu trong xuất và nhập khẩu sản phẩm công nghệ cao Xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao chiếm 19% trong tổng số 13 nghìn tỷ USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sản xuất. Giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao toàn cầu (2.600 tỷ USD năm 2016) chủ yếu đến từ các sản phẩm ICT - truyền thông, máy tính và chất bán dẫn - với giá trị 1.400 tỷ USD, chiếm hơn một nửa tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao. Máy bay và tàu vũ trụ; dược phẩm; và các thiết bị đo lường, đo lường và kiểm soát kết hợp thêm vào khoảng 1.100 tỷ USD trong năm 2016. 48 Trung Quốc là nước xuất khẩu hàng hóa công nghệ cao lớn nhất thế giới (chiếm 24% thị phần toàn cầu) và có thặng dư đáng kể. Tuy nhiên, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc bao gồm nguyên liệu đầu vào và linh kiện nhập khẩu từ các nước khác. EU là khu vực xuất khẩu lớn thứ hai trên toàn cầu (chiếm 17% thị phần toàn cầu), và thặng dư thương mại gần như cân bằng. Mỹ là nước xuất khẩu lớn thứ ba (12%), tiếp theo là Đài Loan (11%). Mỹ có thâm hụt và Đài Loan có thặng dư đáng kể. Từ năm 2011- 2016, xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của Trung Quốc đã tăng 14% đạt 615 tỷ USD và thặng dư thương mại giảm từ 147 tỷ USD xuống còn 93 tỷ USD. Tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao của Trung Quốc đã giảm mạnh trong giai đoạn hậu suy thoái toàn cầu. Xuất khẩu tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm là 3% từ năm 2011-2016, so với 24% trong giai đoạn 2001-2008. Sự suy giảm của Trung Quốc trong xuất khẩu công nghệ cao phản ánh sự tăng trưởng giảm của kinh tế của Trung Quốc. Thị phần toàn cầu của Trung Quốc vẫn ổn định ở mức 24% trong giai đoạn hậu suy thoái toàn cầu, sau khi tăng nhanh trong thập kỷ trước. Trung Quốc là trung tâm của “Nhà máy châu Á”, nơi sản xuất nhiều sản phẩm ICT của thế giới. Mô hình thương mại của Trung Quốc với các đối tác lớn cho thấy sự hội nhập với các nhà sản xuất châu Á khác trong cung cấp linh kiện và phụ tùng. Nhập khẩu từ tám nền kinh tế châu Á - Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam - chiếm 3/4 nhập khẩu sản phẩm ICT của Trung Quốc. Tuy nhiên, thống kê thương mại thông thường không đo lường được sự đóng góp của các nước sản xuất ICT và các sản phẩm khác trong chuỗi giá trị toàn cầu. Về đóng góp của các quốc gia cho hàng hóa được sản xuất trong chuỗi giá trị toàn cầu, cho thấy Hoa Kỳ, EU, Hàn Quốc và Đài Loan là những nguồn đáng kể về nhập khẩu ICT của Trung Quốc dưới dạng đầu vào và các linh kiên. Hơn một nửa xuất khẩu ICT của Trung Quốc đến ba nền kinh tế phát triển lớn - EU (23%), Hoa Kỳ (22%) và Nhật Bản (10%). Thị phần xuất khẩu của Trung Quốc với tám nền kinh tế châu Á là 20%, thấp hơn nhiều so với thị phần nhập khẩu. Xuất khẩu các thiết bị kiểm tra, đo lường và kiểm soát của Trung Quốc tăng nhanh gấp hai lần (30%). Có thể thấy xu hướng rất khác nhau giữa các quốc gia đang phát triển. Xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh nhất trong tất cả các nước đang phát triển, với kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao tăng từ 2 tỷ USD năm 2007 lên 63 tỷ USD năm 2016, tăng hơn 30 lần trong 10 năm. Năm 2016, với giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao đạt 63 tỷ USD, Việt Nam đã vượt Thái Lan (60 tỷ USD) và hiện đứng Top 3 trong ASEAN về xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao, sau Singapo và Malaixia (Bảng 5). Mặc dù giá trị xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với các nước phát triển và một số nước ASEAN khác (như Malaixia 85 tỷ USD, Singapo 124 tỷ USD năm 2016) nhưng tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm này lại cao nhất trong số các nước được xem xét, thậm chí cao hơn rất nhiều so với các nước đang phát triển khác cũng như các nước ASEAN khác trong cùng giai đoạn 2007-2016, thậm chí cao hơn nhiều so với Trung Quốc. Trong khi giá trị xuất khẩu các sản 49 phẩm công nghệ cao của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh và đều qua các năm, thì giá trị này của các nước ASEAN khác vẫn tăng chậm hoặc không tăng. Việt Nam đã trở thành một địa điểm chi phí thấp cho lắp ráp điện thoại di động và các sản phẩm ICT khác. Một số công ty đã chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc để sang các nước đang phát triển khác trong đó có Việt Nam, do chi phí lao động ở Trung Quốc đã cao hơn. Trong khu vực châu Á, ngoài Việt Nam và Trung Quốc, trong giai đoạn 2007-2016, giá trị xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao của Ấn Độ cũng tăng cao nhờ sự đóng góp lớn của ngành dược phẩm và các sản phẩm ICT. Trong các nước BRIC, Trung Quốc vẫn đứng đầu và bỏ xa các nước còn lại. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của Nga và Braxin ổn định ở mức thấp (dưới 10 tỷ USD/năm). Mặc dù giá trị xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam tăng nhanh, nhưng giá trị nhập khẩu các sản phẩm này cũng tăng mạnh. Giá trị nhập khẩu các sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới, cũng như so với một số nước trong ASEAN. Tuy nhiên, tốc độ tăng giá trị nhập khẩu các sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam lại cao hơn nhiều so với hầu hết các nước, từ 6 tỷ USD năm 2007 lên 44 tỷ USD năm 2016, tăng hơn 7 lần trong giai đoạn này (Bảng 5). Bảng 5. Giá trị xuất và nhập khẩu các sản phẩm công nghệ cao của các nước/khu vực trên thế giới trong 10 năm từ 2007-2016 (tỷ USD giá hiệ hành) Khu vực/ nước/ nền kinh tế 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Xuất khẩu Thế giới 1.833 1.919 1.718 2.089 2.248 2.308 2.404 2.480 2.465 2.555 Mỹ 260 254 236 252 261 280 287 297 301 303 Brazil 9 10 8 9 9 9 8 8 7 8 EU 335 363 325 361 405 410 429 437 419 423 Pháp 59 69 62 70 73 75 77 76 70 68 Đức 83 88 78 87 102 109 118 123 117 113 Anh 45 48 44 47 49 50 52 52 51 49 Nga 3 4 3 4 6 6 7 6 6 6 Trung Quốc 365 404 364 488 539 545 564 600 597 615 Ấn Độ 9 12 15 17 22 23 25 26 28 31 Indonesia 9 10 9 11 11 10 9 9 9 9 Nhật Bản 152 154 124 153 156 151 133 129 118 122 Malaysia 80 71 71 83 85 80 81 86 83 85 Philippines 33 30 22 32 27 28 28 32 33 36 Singapore 91 96 77 108 117 117 120 121 119 124 Hàn Quốc 118 116 106 133 132 131 143 148 143 140 Đài Loan 152 150 130 168 177 192 224 233 251 274 50 Thái Lan 47 52 48 58 57 56 54 57 58 60 Việt Nam 2 4 4 7 13 29 42 42 57 63 Nhập khẩu Thế giới 1.833 1.919 1.718 2.089 2.248 2.308 2.404 2.480 2.465 2.555 Mỹ 288 290 263 305 326 331 333 353 365 364 Brazil 24 36 30 38 42 44 45 44 36 34 EU 388 407 356 416 435 416 417 426 417 435 Pháp 48 51 48 51 55 57 57 56 57 60 Đức 94 98 87 105 110 102 99 107 103 107 Anh 51 51 43 54 57 52 50 53 54 56 Nga 29 36 25 34 40 47 47 42 31 31 Trung Quốc 295 301 281 367 393 421 456 482 500 522 Ấn Độ 29 30 30 34 38 37 39 40 40 41 Indonesia 7 13 13 17 18 20 21 19 19 18 Nhật Bản 103 106 94 118 127 140 138 139 130 132 Malaysia 50 44 39 54 52 52 54 55 51 54 Philippines 23 22 16 21 18 21 22 23 22 26 Singapore 86 86 72 93 94 97 103 103 97 98 Hàn Quốc 64 65 57 71 77 77 81 89 93 102 Đài Loan 54 49 44 59 63 63 66 72 72 80 Thái Lan 29 29 26 33 36 40 41 40 40 41 Việt Nam 6 6 8 10 14 21 29 33 40 44 Nguồn: Science and Engineering Indicators 2018 KẾT LUẬN Hầu hết các tổ chức quốc tế đều đã nhìn nhận là bức tranh kinh tế toàn cầu năm 2018 được kém tươi sáng do bị tác động bởi cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, xu hướng bảo hộ mậu dịch gia tăng, nội bộ châu Âu chia rẽ, bất đồng giữa các nước lớn vẫn chưa được giải quyết, các cuộc xung đột địa - chính trị vẫn đang tiếp diễn... Năm 2019-2020, kinh tế toàn cầu được dự báo còn phải hứng chịu những cú sốc mới khắc nghiệt hơn so với năm 2018. Những nhân tố tiêu cực của năm 2018 vẫn còn tồn tại và chưa tìm được lối thoát. Những nhân tố này dự báo sẽ tiếp tục gây bất ổn cho nền kinh tế toàn cầu. Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung dù đang trong giai đoạn được coi là tạm “đình chiến”, nhưng vẫn có nguy cơ bùng phát bất cứ lúc nào. Cuộc chiến thương mại này không chỉ là nguy cơ bên ngoài lớn nhất đối với chính nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc, mà còn là trở lực lớn nhất đối với kinh tế thế giới thời gian tới. Do vậy, cả UN, WB, IMF và OECD đều đã dự báo tăng trưởng toàn cầu trong hai năm 2019 và 2020 đều giảm so với 2018. Tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển được dự báo giảm xuống mức 2,1% trong năm nay, so với 2,2% năm 2018. Tốc độ chậm lại chủ yếu do các trung tâm kinh tế, các nước phát 51 triển được xem là đầu tàu của kinh tế toàn cầu đều đánh mất đà tăng trưởng. Trong khi đó, theo WB, thị trường xuất khẩu giảm dần, chi phí vốn vay tăng lên và chính sách thiếu ổn định sẽ là gánh nặng đối với viễn cảnh của các quốc gia đang phát triển và các quốc gia mới nổi. Tăng trưởng cho nhóm này được kỳ vọng giữ vững mức 4,2% trong năm nay, thấp hơn so với dự báo trước đó. Xu hướng tăng xuất khẩu hàng hóa đang chững lại, trong khi các hoạt động nhập khẩu có dấu hiệu giảm dần. Tăng trưởng bình quân đầu người của 35% các quốc gia đang phát triển và quốc gia mới nổi không đủ để thu hẹp khoảng cách thu nhập với các quốc gia phát triển trong năm 2019. Tỷ lệ này đối với các quốc gia dễ bị tổn thương, xung đột và bạo lực lên đến 60%. Theo WB, thương mại quốc tế và các hoạt động sản xuất đang sụt giảm, trong khi căng thẳng thương mại ngày càng leo thang có thể tác động xấu đối với tăng trưởng kinh tế thế giới và làm gián đoạn chuỗi giá trị liên kết toàn cầu. Rủi ro nợ ở các quốc gia có thu nhập thấp đang tăng lên. Mặc dù vốn vay có vai trò hiệu quả trong việc hỗ trợ nhiều quốc gia đối phó với các nhu cầu phát triển quan trọng, tuy nhiên tỉ lệ nợ so với GDP ở các quốc gia này đang leo thang, và tỉ trọng nợ đang nghiêng dần về các nguồn vốn thị trường có chi phí cao. Đồng thời, việc thực hiện nhiều hoạt động phát triển cùng lúc có thể làm chậm tốc độ phát triển. Chi phí vốn vay thắt chặt ảnh hưởng tiêu cực đến dòng vốn chảy vào và tốc độ tăng trưởng ở nhiều quốc gia đang phát triển và quốc gia mới nổi. Nợ công và nợ tư nhân leo thang trong thời gian qua có thể làm tăng mức độ dễ bị tổn thương của những thay đổi trong điều kiện tài chính và tâm lý thị trường. Căng thẳng thương mại gia tăng có thể tác động xấu đối với tăng trưởng kinh tế thế giới và làm gián đoạn chuỗi giá trị liên kết toàn cầu. Các chuyên gia WB cho rằng, việc duy trì tỉ lệ lạm phát ở mức thấp và ổn định như thời gian trước sẽ không còn dễ dàng đối với các quốc gia đang phát triển và quốc gia mới nổi. Duy trì tỉ lệ lạm phát toàn cầu ở mức thấp trở thành thách thức khó khăn không kém việc đạt tỉ lệ này trước đây. Cho dù kinh tế thế giới trong nhiều năm qua luôn biến động, nhưng các ngành công nghiệp thâm dụng tri thức và công nghệ (KTI) vẫn luôn có mức đóng góp ngày càng tăng cho GDP. Các ngành KTI có liên quan mật thiết với nghiên cứu và phát triển (R&D). Những thành quả của đầu tư cho R&D là hoàn thiện hoặc tạo ra các công nghệ mới, sản phẩm mới, lĩnh vực kinh doanh mới cũng như việc làm mới. Các ngành công nghiệp KTI chiếm 31,37% (tương đương 23,58 nghìn tỷ USD) GDP toàn cầu năm 2016, so với 30,09% năm 2015, 30,05% năm 2014, 29,28% năm 2011. Xu hướng đóng góp ngày càng tăng của các ngành công nghiệp KTI vào GDP là rất rõ ràng cả về giá trị tuyệt đối và tương đối. Tỷ trọng KTI trong các nền kinh tế phát triển cao hơn nhiều so với các nền kinh tế đang phát triển, chủ yếu là do các dịch vụ KI trong các nền kinh tế phát triển nhiều hơn. Xu hướng sản xuất sản phẩm công nghệ cao (HT), đặc biệt là hàng điện tử, CNTT đã và đang dịch chuyển từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển và mới nổi ở châu Á, nhất là khu vực ASEAN. Hoa Kỳ và Trung Quốc là những nhà sản xuất lớn nhất thế giới của các ngành công nghiệp sản xuất HT. Khối lượng xuất khẩu sản phẩm HT toàn cầu chủ yếu là các sản phẩm CNTT, máy tính và bán dẫn. Xuất khẩu sản phẩm HT của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh nhất 52 trong số tất cả các nước đang phát triển. Việt Nam đã trở thành một địa điểm chi phí thấp cho lắp ráp điện thoại di động và các sản phẩm CNTT khác, với một số công ty chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc, nơi có chi phí lao động cao hơn, để sản xuất tại Việt Nam. Trong thế giới ngày nay, trình độ và năng lực KH&CN của một quốc gia là yếu tố quyết định quyết định năng lực cạnh tranh quốc tế. Việc ứng dụng nhanh chóng những đổi mới công nghệ, cũng như tận dụng có hiệu quả những thành tựu mới nhất của R&D trong các lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Mặc dù sẽ còn nhiều khó khăn và thách thức đối với kinh tế toàn cầu trong năm 2019-2020, nhưng chi cho R&D, đổi mới sáng tạo vẫn tiếp tục tăng trưởng. Điều đó cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của R&D, bởi chỉ có nó mới có thể sẽ giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như kinh tế toàn cầu tăng trưởng ổn định và bền vững trong tương lai. KH&CN, thông qua các ngành KTI, có xu hướng đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế. P.A.T (Trung tâm Thông tin và Thống kê KH&CN) Tài liệu tham khảo chính 1. Kinh tế thế giới năm 2018, triển vọng năm 2019, Tạp chí Cộng Sản, 2/2019; 2. Global Economic Prospects 2019, World Bank; 3. World Economic Outlook, 1/2019, IMF; 4. World Economic Situation and Prospects, 2019, UN; 5. Economic Outlook, 11/2018, OECD; 6. Science and Engineering Indicators 2018; 7. 8.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftai_lieu_du_bao_kinh_te_the_gioi_2019_2020_va_dong_gop_cua_c.pdf
Tài liệu liên quan