Nền kinh tế số là một phần sản lượng kinh tế chỉ bắt nguồn hoặc chủ yếu bắt nguồn từ các
công nghệ số với mô hình kinh doanh dựa vào hàng hóa hoặc dịch vụ số, có tầm quan trọng
ngày càng lớn đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, việc khai thác tiềm năng của nền
kinh tế số vấp phải nhiều thách thức. Hạ tầng số chưa hoàn chỉnh, đắt đỏ và hoạt động kém
hiệu quả. Hệ sinh thái số rộng lớn thiếu nguồn nhân lực, kết hợp với nguồn lực tài chính còn
yếu và quản trị kém. Tăng trưởng kinh tế số đang làm trầm trọng thêm tình trạng loại trừ số,
bất bình đẳng, kết hợp bất lợi và các tác hại khác. Những thách thức nêu trên cần được giải
quyết nhờ có các biện pháp chính sách phù hợp, giúp thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế
số và góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tiềm năng kinh tế số tại Việt Nam rất lớn, nhưng vấn đề là Chính phủ cần quan tâm đến an
ninh dữ liệu của người dùngvới khuôn khổ chính sách pháp luật cần thiết để bảo vệ và thu hút
tiềm lực cho kinh tế số.Việt Nam đã tiếp cận đúng hướng với nền tảng là Luật An ninh mạng,
qua đó có thể thu hút đầu tư nhiều hơn cũng như mở đường cho doanh nghiệp khởi nghiệp và
lan tỏa nền kinh tế số trong các lĩnh vực, từ giao thông, y tế, giáo dục Nhờ có nền kinh tế số,
các ngành công nghiệp có bước chuyển biến đột phá trong mô hình kinh doanh, từ thương mại
điện tử, quảng cáo trực tuyến trên các trang mạng xã hội (Facebook, instagram), giải trí
(Netflix, Pinterest), đến GTVT (Uber, Grab) đến phân phối, bán buôn và bán lẻ (Lazada,
Shoppe). Đây chính là những bước phát triển của kinh tế số hóa trong đời sống của người dân
Việt Nam những năm gần đây.
Để nền kinh tế số thực sự trở thành động lực mới cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
trong thời gian tới, Việt Nam vẫn phải tiếp tục tập trung vào 3 đột phá là thể chế, hạ tầng và
nguồn nhân lực. Về thể chế, bên cạnh việc tiếp tục tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh hấp
dẫn để thu hút các nguồn lực, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, Việt
Nam phải xây dựng môi trường pháp lý để phát triển nền kinh tế số. Đồng thời, Việt Nam phải
tiếp tục xây dựng hạ tầng phát triển kinh tế, trong đó hạ tầng công nghệ phải đi trước một
bước, giờ là hạ tầng mạng 4G thì trong tương lai sẽ là hạ tầng mạng 5G. Còn hạ tầng điện, như
ước tính đến năm 2030, cần có nguồn vốn đầu tư 150 tỉ USD. Về nguồn nhân lực, cần tái đào
tạo lực lượng lao động để họ bắt kịp với xu hướng công nghệ số. Hy vọng những giải pháp
chính sách phát triển kinh tế số của một số quốc gia trong khu vực sẽ cung cấp cho các nhà
hoạch định chính sách thông tin hữu ích trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế số
tại Việt Nam.
46 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Giải pháp chính sách phát triển nền kinh tế số, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạ tầng vật lý sẽ cho phép phát triển hạ tầng số
cung cấp các công nghệ số quan trọng như Thanh toán điện tử (ví dụ PayNow), dịch vụ AI,
chia sẻ dữ liệu và siêu điện toán mà các doanh nghiệp có thể áp dụng để tạo ra các sản phẩm
và dịch vụ.
Hạ tầng vật lý và hạ tầng số kết hợp với nhau cung cấp nền tảng quốc gia để phát triển và phổ
biến các dịch vụ kỹ thuật số.
3.2.Chính sách phát triển nền kinh tế số của Thái Lan
3.2.1. Kế hoạch kinh tế số
Thái Lan đang nỗ lực cải thiện tăng trưởng kinh tế bằng cách chuyển đổi nền kinh tế từ một
28
quốc gia định hướng công nghiệp (theo đó ngành chế tạo chiếm 40% GDP năm 2010) thành
quốc gia theo định hướng công nghệ cao. Từ đó, chính phủ đã đưa ra sáng kiến Thái Lan 4.0
và kế hoạch Thái Lan số vào năm 2016. Mục đích của chính sách Thái Lan 4.0 là đưa quốc gia
này thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và biến Thái Lan thành nền kinh tế dựa vào giá trị bằng
cách:
- Chuyển đổi từ sản xuất “hàng hóa” thành “sản phẩm sáng tạo”;
- Chuyển đổi các hoạt động theo định hướng công nghiệp thành các hoạt động được thúc đẩy
bởi công nghệ, sáng tạo và đổi mới; và
- Thay đổi trọng tâm từ sản xuất sản phẩm sang cung cấp dịch vụ.
Là một phần trong chiến lược Thái Lan 4.0 về nền kinh tế dựa vào công nghệ, mục tiêu của
Chính phủ Thái Lan là xây dựng “nền kinh tế số và xã hội số” để Thái Lan trở thành quốc gia
số đi đầu và cạnh tranh trong cộng đồng kinh tế ASEAN. Mục tiêu của nền kinh tế và xã hội
số được Chính phủ Thái Lan đặt ra; bao gồm việc đưa Thái Lan vào top 40 quốc gia dẫn đầu
về Chỉ số Phát triển CNTT&TT toàn cầu (IDI) và top 15 quốc gia hàng đầu về Chỉ số cạnh
tranh toàn cầu. Hiện nay, Thái Lan tụt hậu so với một số quốc gia trong khu vực như Malaixia
về các chỉ số này và những chỉ số khác như thâm nhập của toàn bộ mạng di động, sở hữu điện
thoại thông minh, triển khai mạng 4G và kỹ năng số (xem Bảng 1).
Bảng 1: Các chỉ số chính của Thái Lan khi so sánh với các nước khác trong khu vực
Quốc gia Phát
triển
CNTT&
TT
Xếp hạng của
IDI toàn cầu
Thâm nhập
toàn bộ mạng
di động
Người
đăng ký
thuê bao
di động
Mạng
3G + 4G
Điện
thoại
thông
minh
Thái Lan 4,8 74 122% 85,47% 82,47% 58,98%
Inđônêxia 3,8 108 126% 58,43% 40,48% 40,37%
Singapo 7,9 19 145% 71,52% 63,14% 78,16%
Malaixia 5,2 64 142% 76,1% 60,3% 64,63%
Philippin 4,0 98 117% 65,09% 44,74% 40,9%
Việt Nam 4,1 102 152% 49,66% 36,48% 27,84%
Nguồn: DTAC n.d
Kế hoạch phát triển số cho nền kinh tế và xã hội số của Bộ CNTT&TT hay Kế hoạch tổng thể
kinh tế số quốc gia đề ra một số mục tiêu và chỉ số chính. Kế hoạch đã được xác định như một
chính sách có tầm quan trọng to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế Thái Lan và được đặt
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Phó Thủ tướng Thái Lan (GSMA 2015: 15).
Khuôn khổ phát triển kinh tế số đã được đề xuất với tầm nhìn cho thấy nền kinh tế số sẽ cho
phép tăng trưởng trong các lĩnh vực kinh tế, kinh doanh, xã hội và chính phủ ở Thái Lan để
hướng đến các mục tiêu chính sách lớn bao gồm:
29
1. Xây dựng hạ tầng số có đủ công suất và phạm vi để hỗ trợ cung cấp dịch vụ liền mạch
2. Sử dụng công nghệ số như một công cụ để mang lại chất lượng cuộc sống tốt hơn và tạo
điều kiện cho tất cả các công dân được tiếp cận với các dịch vụ công.
3. Thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo áp dụng công nghệ số.
4. Xây dựng các kỹ năng số và chuyển đổi các phương thức kinh doanh để các doanh nghiệp
Thái Lan, đặc biệt là DNVVN có khả năng cạnh tranh thành công trong nền kinh tế số.
5. Tăng GDP quốc gia với đóng góp lớn từ các ngành công nghiệp số
6. Xây dựng hệ sinh thái doanh nghiệp số đáp ứng sự năng động của nền kinh tế số
7. Tăng mức độ sẵn sàng về CNTT&TT được đánh giá bởi các chỉ số toàn cầu.
Kế hoạch kinh tế số được chia thành bốn giai đoạn sẽ được kết hợp trong khoảng thời gian 20
năm (xem Bảng 2).
Bảng 2: Cảnh quan số của Thái Lan trong vòng 20 năm
Giai đoạn 1 2 3 4
Mục tiêu Nền tảng số
Đầu tư và
xây dựng
nền tảng số
Thái Lan I: sự hòa
nhập
Đảm bảo cho mọi
người thu được lợi
ích của công nghệ
số
Thái Lan II: Biến đổi
hoàn toàn
Đẩy mạnh phát triển
công nghệ số và đổi
mới sáng tạo cho quốc
gia
Dẫn đầu số trên toàn
cầu
Dẫn đầu về công
nghệ số và đổi mới
sáng tạo (trở thành
nước phát triển)
Thời gian 1 năm 6
tháng
5 năm 10 năm từ 10 đến 20 năm
Nguồn: Siriruchatapong (2016)
Các mục tiêu sẽ phải đạt được trong giai đoạn này thông qua sáu chiến lược chồng chéo,
nhưng không hoàn toàn giống nhau về mục tiêu:
1. Xây dựng hạ tầng số dung lượng cao trên toàn quốc: Đảm bảo khả năng tiếp cận, tính sẵn có
và tính kinh tế.
2. Thúc đẩy nền kinh tế nhờ công nghệ số:Tạo đường cong tích lũy chi phí mới (New S-
Curve), tăng năng lực cạnh tranh, xây dựng doanh nghiệp mới và tạo ra giá trị.
3. Xây dựng xã hội số được thúc đẩy bởi tri thức: Thu hút sự tham gia, đảm bảo khả năng sử
dụng toàn bộ theo cách công bằng.
4. Chuyển đổi sang chính phủ số: Xây dựng chính phủ mở, tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân và doanh nghiệp, kết hợp vào một chính phủ.
5. Phát triển lực lượng lao động cho kỷ nguyên số: Xây dựng lực lượng có kỹ năng, tạo việc
làm, tạo sức mạnh từ bên trong.
30
6. Xây dựng niềm tin và sự tự tin trong sử dụng công nghệ số: Cập nhật các luật và quy định,
khuyến khích đầu tư, đảm bảo sự an toàn.
Để đạt được các mục tiêu/chiến lược này, Kế hoạch tổng thể kinh tế số quốc gia đã tập trung
vào 5 trụ cột chính (xem Bảng 3) để thúc đẩy sáng kiến kinh tế số tại Thái Lan:
1. Hạ tầng cứng - theo trụ cột này, chính phủ Thái Lan đề ra mục tiêu giảm khoảng cách số
bằng cách xây dựng hạ tầng số bao gồm cả hạ tầng cố định và di động và các mạng đáng tin
cậy có đủ dung lượng, phạm vi phủ sóng và giá cả phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế số. Mục
tiêu của trụ cột này là cung cấp cho tất cả công dân Thái Lan quyền truy cập vào dịch vụ băng
rộng tối thiểu 30Mb/giây vào cuối năm 2017, bất kể họ đang ở đâu. Nội dung này cũng sẽ bao
gồm đấu giá băng tần để cung cấp dịch vụ băng rộng không dây thế hệ thứ tư (4G), tăng đầu tư
cho các trung tâm dữ liệu, dịch vụ điện toán đám mây và cổng số quốc tế cho cả các tổ chức
công và tư.
2. Hạ tầng dịch vụ - đề cập đến hạ tầng cho phép đổi mới dịch vụ từ cả chính phủ lẫn khu vực
tư nhân. Trụ cột này bao gồm việc xây dựng một nền tảng duy nhất cung cấp quyền truy cập
cho các doanh nghiệp và cá nhân vào các dịch vụ của chính phủ điện tử: không cần giấy tờ,
một cửa, tập trung vào công dân và loại bỏ việc sử dụng các bản phô tô thẻ ID và đăng ký nhà.
3. Hạ tầng mềm - bao gồm tạo niềm tin cho người dân trong việc sử dụng công nghệ số bằng
cách đảm bảo an ninh mạng để sử dụng an toàn các trang web điện tử và thông qua cung cấp
các hệ thống xác minh để xác định các cá nhân và đảm bảo các giao dịch số an toàn và đáng
tin cậy. Điều này liên quan đến việc xây dựng và sửa đổi tất cả các tiêu chuẩn, luật và quy định
hiện hành liên quan đến sự phát triển của nền kinh tế số như giao dịch điện tử, bảo vệ dữ liệu
và luật an ninh mạng. Ngoài thúc đẩy giao dịch điện tử, trụ cột hạ tầng mềm cũng tạo thuận lợi
cho hoạt động thương mại nhờ sử dụng hệ thống trao đổi tài liệu điện tử.
4. Thúc đẩy nền kinh tế số - liên quan đến việc tăng tốc nền kinh tế số thông qua phát triển hệ
sinh thái doanh nghiệp số sôi động hỗ trợ các DNVVN, các doanh nhân và đổi mới sáng tạo.
Trụ cột này cũng kết hợp xây dựng năng lực trong lĩnh vực kinh doanh số, thương mại điện tử
và tiếp thị số để đảm bảo mức độ sẵn sàng của ngành công nghiệp cho kỷ nguyên số.
5. Xã hội và tri thức số liên quan đến việc cung cấp cho mọi người dân Thái Lan quyền truy
cập toàn cầu với chi phí phải chăng, trong khi tạo ra một xã hội số hỗ trợ sử dụng các công
nghệ số để nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm nghèo, cho phép học tập suốt đời và tạo điều
kiện cho công dân có hiểu biết về thông tin và truyền thông.
Bảng 3: Năm trụ cột theo dự kiến của Sáng kiến kinh tế số Thái Lan
Ủy ban kinh tế số quốc gia
Hạ tầng cứng Hạ tầng dịch vụ Hạ tầng mềm Xúc tiến
kinh tế số
Xúc tiến
xã hội số
Băng rộng quốc
gia
Trung tâm dữ liệu Chính phủ số Tạo thuận lợi giao Thương mại số Học tập suốt đời
31
dịch điện tử
Cổng quốc tế Nền tảng dịch vụ Mức độ sẵn sàng
của CERT
Doanh nhân số Tư liệu & thư viện
số
Phát thanh quốc
gia
Logistic điện tử Luật Đổi mới số Kho lưu trữ & Thư
viện số
Vệ tinh Đổi mới dịch vụ
dữ liệu
Hướng dẫn thương
mại điện tử
Nội dung số Chăm sóc sức
khỏe toàn dân
Quản lý tần số
vô tuyến
Chú thích: CERT _ nhóm ứng phó sự cố bảo mật máy tính
Nguồn: Kanchanaporn (2015)
Theo kế hoạch, nhiều dự án thí điểm “thành phố thông minh” đã được đề xuất để phát triển
các thành phố như Phuket và Chiang Mai. Ngoài ra còn có các kế hoạch xây dựng Công viên
Đổi mới sáng tạo để thúc đẩy cụm số công nghệ cao trong các thành phố này như triển khai
chương trình WiFi thông minh. DNVVN chiếm 99% tổng số doanh nghiệp Thái Lan, cũng sẽ
được khuyến khích phát triển kinh doanh thông qua nền kinh tế số.
3.2.2. Kế hoạch số trước đây
Kế hoạch kinh tế số hiện nay được xây dựng dựa vào rất nhiều khuôn khổ và chính sách trước
đây mà Thái Lan đã đưa ra trong nhiều năm qua với trọng tâm là định hình bối cảnh
CNTT&TT. Các văn bản này bao gồm Chính sách CNTT&TT quốc gia Thái Lan (1996-
2000, “IT 2000”); Khung chính sách CNTT&TT Thái Lan (2001-2010, “IT 2010”); Kế hoạch
tổng thể CNTT&TT Thái Lan (2002-2006); Chính sách băng rộng quốc gia (2009); Kế hoạch
tổng thể USO về cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản (2012-2014); và Kế hoạch CNTT&TT
tổng thể giai đoạn 2014-2018 (dự thảo nhưng chưa được phê chuẩn chính thức). Nhiều văn
bản trong số đó đưa ra các mục tiêu chồng chéo và cung cấp định hướng chung thay vì một kế
hoạch hành động cụ thể. Tuy nhiên, việc xây dựng các Khung chính sách CNTT&TT và Kế
hoạch tổng thể, được bổ sung bằng việc thành lập Bộ Công nghệ thông tin và truyền thông
(MICT) vào tháng 10/2002, thể hiện cam kết của chính phủ Thái Lan trong việc khai thác
CNTT&TT phục vụ sự phát triển của quốc gia.
Chính sách CNTT&TT quốc gia đầu tiên của Thái Lan (1996-2000) hay IT 2000, được đề
xuất bởi Ủy ban công nghệ thông tin quốc gia (NITC) và được Nội các phê duyệt vào tháng
2/1996. Khung chính sách 5 năm này tập trung vào ba mục tiêu cơ bản:
- Đầu tư hạ tầng thông tin quốc gia (NII) để trao quyền cho công dân Thái Lan và nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân.
- Đầu tư và thúc đẩy phát triển tri thức CNTT&TT để xây dựng một cộng đồng có hiểu biết và
năng lực CNTT&TT.
- Đầu tư cho quản trị hiệu quả thông qua ứng dụng CNTT&TT trong tất cả các cơ quan chính
phủ để cải thiện hoạt động và dịch vụ, cũng như thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp
32
địa phương, bao gồm phần cứng, phần mềm, nội dung và các DNVVN.
Sau khi IT 2000 cung cấp thành công khuôn khổ cho các chính sách và dự án tiếp theo, Khung
Chính sách CNTT&TT Thái Lan (2001-2010) hay IT 2010 (được Nội các phê duyệt vào
tháng 3/2002) đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của ngành CNTT&TT Thái Lan. Mục tiêu
của khung chính sách IT 2010 là nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng chất lượng cuộc sống
của người dân Thái Lan và đưa Thái Lan hướng tới nền kinh tế và xã hội dựa vào tri thức.
Khung chính sách IT 2010 đề ra ba mục tiêu chính (MICT 2011):
- Nâng thứ bậc của Thái Lan về Chỉ số thành tựu công nghệ (TAI) giữa các quốc gia, từ xếp
hạng hiện nay như là “quốc gia năng động” lên thành “quốc gia dẫn đầu tiềm năng”.
- Tăng tổng số lao động CNTT&TT chiếm đến 30% lực lượng lao động vào năm 2010 bằng
cách trang bị kiến thức cho người lao động Thái Lan.
- Phát triển ngành công nghiệp Thái Lan dựa vào tri thức và đặt mục tiêu đạt giá trị 50% GDP.
Khung chính sách IT 2010 tập trung vào chiến lược 5 Es dài hạn, trong đó nhấn mạnh đến sự
phát triển và ứng dụng CNTT&TT trong năm lĩnh vực chiến lược:
- Chính phủ điện tử - tập trung ứng dụng CNTT&TT trong khu vực công, bao gồm các tổ
chức trung ương, tỉnh và địa phương.
- Công nghiệp điện tử - khuyến khích sử dụng và phát triển CNTT&TT trong khu vực công để
tạo thuậnt lợi cho ngành công nghiệp dựa vào tri thức vào năm 2010.
- Thương mại điện tử - tăng cường năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp Thái Lan
thông qua thương mại điện tử cho xuất khẩu, thương mại, dịch vụ và tiêu dùng trong nước.
- Giáo dục điện tử - phát triển và tăng vốn nhân lực ở tất cả các cấp để thúc đẩy phát triển xã
hội dựa vào tri thức.
- Xã hội điện tử - sử dụng CNTT&TT để cải thiện chất lượng cuộc sống, xây dựng xã hội dựa
vào tri thức và giảm khoảng cách số.
Đến tháng 9/2002, Nội các đã thông qua Kế hoạch tổng thể quốc gia đầu tiên về CNTT&TT
Thái Lan (2002-2006) trong 5 năm đầu của chính sách IT 2010, để đưa ra các biện pháp ngắn
hạn/trung hạn cụ thể nhằm thực hiện khuôn khổ rộng hơn. Kế hoạch, còn có liên quan đến Kế
hoạch Phát triển kinh tế và xã hội quốc gia lần thứ 9 (2002-2006), được phát triển thông qua
nghiên cứu sâu về các phương thức tốt nhất trên thế giới, cũng như phân tích điểm mạnh, điểm
yếu, cơ hội và mối đe dọa của Thái Lan trong việc phát triển CNTT và sự tham gia của các
bên liên quan. Mục tiêu của Kế hoạch tổng thể đầu tiên là:
- Phát triển và cải thiện nền kinh tế thông qua ứng dụng CNTT&TT; Nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành CNTT&TT;
- Phát triển năng lực con người bằng cách tăng cường ứng dụng CNTT&TT trong giáo dục
và đào tạo; và
- Tăng cường phát triển bền vững cộng đồng nông thôn (70% người dân Thái Lan sống bên
33
ngoài thành phố Băng Cốc).
Dựa vào những mục tiêu này, Kế hoạch đã vạch ra 7 chiến lược chính:
• Chiến lược 1: Phát triển ngành CNTT dẫn đầu khu vực: với 75% giá trị xuất khẩu tương
đương 90 tỷ bạt/năm vào năm 2006; thành lập Cơ quan xúc tiến công nghiệp phần mềm
(SIPA) để thúc đẩy đầu tư cho ngành công nghiệp phần mềm; sử dụng các dự án của chính
phủ (với ngân sách hàng năm là 5 tỷ bạt năm 2006) để khởi động sáng kiến thúc đẩy thị trường
phần mềm nội địa; đào tạo 60.000 nhà nghiên cứu và chuyên gia phát triển phần mềm có trình
độ, trong đó ít nhất 30% là các chuyên gia được cấp chứng chỉ.
• Chiến lược 2: Nâng cao chất lượng cuộc sống và xã hội thông qua ứng dụng CNTT&TT:
cung cấp ít nhất bảy đường cáp điện thoại (tối thiểu 32 kbps) tại tất cả các cộng đồng (làng)
vào năm 2005; cung cấp dịch vụ băng rộng với mức giá hợp lý cho tất cả các tỉnh vào năm
2006; lắp đặt trung tâm viễn thông cộng đồng trong mỗi xã vào năm 2006; cho phép ít nhất
300.000 giáo viên sử dụng CNTT&TT hiệu quả vào năm 2006; thành lập một tổ chức chịu
trách nhiệm bảo mật các hệ thống thông tin và truyền thông.
• Chiến lược 3: Tăng cường khả năng NC&PT CNTT&TT: cả khu vực công và tư đạt ít nhất
3% giá trị ngành CNTT&TT hàng năm; cung cấp các dự án phát triển phần mềm quy mô lớn
trị giá 5 tỷ Bạt vào năm 2006; thúc đẩy sử dụng ít nhất 80% máy tính cá nhân sản xuất tại địa
phương và phần mềm được phát triển tại địa phương chiếm gần 50% tổng mức tiêu thụ nội địa
năm 2004; có tỷ lệ các chuyên gia phát triển phần mềm (công nghệ điện toán mạng hoặc dịch
vụ web) chiếm ít nhất 70% tổng số chuyên gia vào năm 2004.
• Chiến lược 4: Tăng cường năng lực xã hội cho khả năng cạnh tranh trong tương lai trên thị
trường toàn cầu: đảm bảo ít nhất 70% lực lượng lao động có thể truy cập CNTT&TT và ít nhất
40% lao động có thể tìm kiếm thông tin trên mạng Internet vào năm 2006; tăng mỗi năm ít
nhất 150.000 lao động có trình độ vào năm 2006.
• Chiến lược 5: Phát triển đội ngũ doanh nhân để mở rộng thị trường quốc tế: tăng số lượng
việc làm liên quan đến CNTT&TT trong các ngành ứng dụng CNTT&TT vào quy trình sản
xuất và dịch vụ cho khoảng 600.000 người (chiếm 1% tổng lực lượng lao động) vào năm
2006; tăng giá trị của thị trường thương mại điện tử ít nhất 20% mỗi năm; tăng 10% giá trị
kinh tế của các ngành sản xuất dựa vào CNTT&TT vào năm 2006.
• Chiến lược 6: Đẩy mạnh ứng dụng CNTT&TT trong các DNVVN: cho phép ít nhất 100.000
DNVVN ứng dụng CNTT&TT trong hoạt động tại văn phòng và 40% DNVVN ứng dụng
CNTT&TT trong các hoạt động kinh doanh chính (như thiết kế và kỹ thuật) vào năm 2006;
tăng 10% số lượng doanh nhân trong chuỗi cung ứng mỗi năm.
• Chiến lược 7: Ứng dụng CNTT&TT trong quản lý và dịch vụ của chính phủ: ít nhất 60%
các cơ quan công quyền ứng dụng hoàn toàn CNTT&TT trong các hoạt động tại văn phòng và
cho phép trao đổi dữ liệu bằng con đường điện tử trong và giữa các bộ/cơ quan vào năm 2006;
thực hiện 90% các dịch vụ giao dịch đơn giản của chính phủ bằng đường điện tử và cho phép
ít nhất 50% các cơ quan cung cấp dịch vụ điện tử liên quan đến thanh toán phí ở mỗi tỉnh vào
34
năm 2006; cung cấp ít nhất 100 dịch vụ công trực tuyến (công dân điện tử) vào năm 2006; ít
nhất 100 tỷ bạt giá trị giao dịch mua sắm của chính phủ được thực hiện trực tuyến (Mua sắm
điện tử); xây dựng các chính sách và quy định bảo mật CNTT&TT.
Phát triển ngành CNTT&TT (đặc biệt là công nghiệp phần mềm), phát triển nguồn nhân lực
và ứng dụng CNTT&TT trong khu vực công nằm trong số những ưu tiên hàng đầu của 7
chiến lược này.
Tháng 5/2011, chính phủ Thái Lan đã công bố Khung chính sách CNTT&TT (2011-2020)
hay CNTT&TT 2020 (hay ICT 2020). Mục đích là để đảm bảo thiết lập cơ sở hạ tầng
CNTT&TT và đẩy mạnh truy nhập toàn cầu tới mọi công dân Thái Lan vào năm 2020, bao
gồm việc cung cấp các tiêu chuẩn bảo mật.
Trong khuôn khổ này, Kế hoạch tổng thể về CNTT&TT lần thứ ba (2014-2018) đã được đề
xuất nhưng bị cản trở do cuộc đảo chính quân sự xảy ra vào năm 2014. Sau cuộc đảo chính đó,
tăng trưởng kinh tế của Thái Lan đã chậm lại và các doanh nghiệp giữ lại khoản đầu tư
CNTT&TT để giảm chi phí. Sau đó, đến tháng 11/2014, chính phủ quân sự đã đưa ra sáng
kiến mới để thúc đẩy phát triển CNTT&TT thông qua Kế hoạch kinh tế số nhằm tăng cường
sự thịnh vượng kinh tế và xã hội thông qua số hóa và đưa Thái Lan dẫn đầu về số trong khu
vực Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Từ đó dẫn đến sự xuất hiện của các kế
hoạch hiện nay.
3.2.3. Quy định về nền kinh tế số
Nhiều luật và kế hoạch phát triển nằm trong Sáng kiến Thái Lan số nhằm hỗ trợ phát triển nền
kinh tế số. Năm 2015, chính phủ Thái Lan đã đề xuất 8 dự thảo luật mới (đôi khi được gọi là
“Luật số 4.0”) để định hướng thực hiện các mục tiêu kinh tế số và là một phần của chính sách
Kinh tế số mới của chính phủ. Các văn bản đó bao gồm:
- Dự luật giao dịch điện tử (sửa đổi)
- Dự luật tội phạm máy tính (sửa đổi)
- Dự luật an ninh mạng
- Dự luật bảo vệ dữ liệu cá nhân
- Dự luật xúc tiến kinh tế số
- Dự luật Phát triển kinh tế và xã hội số
- Dự luật Quản lý phát thanh và viễn thông (sửa đổi) và
- Dự luật về Cơ quan phát triển giao dịch điện tử (sửa đổi)
Luật giao dịch điện tử năm 2001 đã được sửa đổi để công nhận tính hợp pháp của các giao
dịch trực tuyến. Các luật liên quan đến tội phạm mạng, an ninh mạng và quyền riêng tư dữ liệu
cũng được xây dựng hoặc sửa đổi để phục vụ cho các doanh nghiệp trực tuyến.
Tháng 1/2017, Thái Lan đã ban hành Luật Phát triển kinh tế và xã hội số B.E. 2560 (“Luật
35
phát triển số”). Luật Phát triển số là sự hợp nhất của ba Dự luật gồm Dự luật vềỦy ban Kinh tế
và Xã hội số, Dự luật về Quỹ Phát triển kinh tế và xã hội số và Dự luật xúc tiến kinh tế và xã
hội số.
Ngoài Ủy ban Kinh tế và Xã hội số quốc gia (Ủy ban Kinh tế số) đã được đề cập ở trên do Thủ
tướng làm chủ tịch, Luật Phát triển số đã thành lập Quỹ Phát triển kinh tế và xã hội số (Quỹ
Kinh tế số) trong khuôn khổ nền kinh tế số và kế hoạch tổng thể quốc gia. Mục đích của Quỹ
này là nâng cấp hạ tầng viễn thông Thái Lan thông qua sử dụng tài trợ hạt giống từ chính phủ,
tài trợ từ ngân sách hàng năm của chính phủ, 50% phí cấp phép của Ủy ban Phát thanh và
Viễn thông quốc gia (NBTC) và các nguồn biếu tặng. Một phần cơ chế tài trợ cho phép Quỹ
tạo ra nguồn thu, là sự bổ sung thuế giá trị gia tăng vào các khoản thanh toán cho ứng dụng di
động và một công ty cổ phần quốc gia được thành lập để cho các công ty tư nhân thuê tài sản
sợi quang và tháp của quốc gia.
Luật Phát triển số cũng thành lập Cơ quan Xúc tiến kinh tế và xã hội số (Văn phòng PDES).
Mục tiêu chính của PDES là xúc tiến và hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp số và đổi
mới, cũng như sử dụng các công nghệ số để mang lại lợi ích cho nền kinh tế, xã hội, văn hóa
và an ninh công cộng. Trên thực tế, PDES đã được chuyển đổi thành DEPA: Cơ quan Xúc tiến
kinh tế số.
Dù nỗ lực tạo môi trường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế số, nhưng chính phủ Thái Lan vẫn có
sự kiểm soát chặt chẽ với ngày càng nhiều hành động ngăn chặn nội dung được coi là không
phù hợp hoặc xúc phạm chế độ quân chủ. Ủy ban An ninh mạng quốc gia mới thành lập do
Thủ tướng chủ trì, theo Đạo luật an ninh mạng được đề xuất và Đạo luật tội phạm máy tính
mới sửa đổi, dự kiến sẽ trao cho chính phủ quyền truy cập dữ liệu của các cá nhân trong diện
khả nghi và bắt buộc cả các tổ chức công và tư nhân hỗ trợ các cuộc điều tra an ninh mạng.
Những đề xuất của các nhà hoạt động vì tự do và quyền lợi số cho thấy việc chuyển sang
thành lập MDES là một chiến lược chính trị của chính phủ quân sự để thành lập “cổng thông
tin quốc gia” duy nhất cho phép tăng quyền kiểm soát nội dung được công bố trực tuyến. Một
tài liệu cấp Bộ được công bố gần đây, đã phác thảo đề xuất chi 128,56 triệu bạt (3,8 triệu
USD) cho "hệ thống phân tích dữ liệu mạng xã hội" và phần mềm giám sát người dùng trực
tuyến. Trong khi các luật này được biện minh là nhằm vào những kẻ phạm tội xúc phạm
hoàng gia và để bảo vệ tài sản trí tuệ và bản quyền cũng như bảo vệ chống vi phạm bản quyền
bằng cách chặn các trang web xấu, nhưng không đảm bảo điều đó không gây ảnh hưởng bất
lợi đến phát triển nền kinh tế số.
3.2.4. Hạ tầng số
Nền tảng của bất kỳ nền kinh tế số nào sẽ là hạ tầng CNTT&TT quốc gia. Khi lần đầu tiên
trình bày ý tưởng về Thái Lan 4.0 trong tuyên bố chính sách trước Hội đồng Lập pháp quốc
gia (NLA) vào ngày 12/9/2014, Thủ tướng Thái Lan đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
xây dựng hạ tầng CNTT&TT vững mạnh làm cơ sở phát triển kinh tế số quốc gia. Tương tự,
tại Triễn lãm và Diễn đàn viễn thông quốc thế giới 2016 ITU Telecom World, Phó Thủ tướng
Thái Lan nhấn mạnh vai trò nâng cấp mạng băng rộng quốc gia trong việc đạt được các mục
36
tiêu dự kiến là ứng dụng công nghệ số để phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể, nền tảng cho Kế hoạch kinh tế số đầy tham vọng của Thái Lan là cần tập trung vào các
lĩnh vực chính sau:
- Đảm bảo đủ tốc độ truy cập Internet toàn cầu trên khắp đất nước Thái Lan;
- Phát triển các mô hình chia sẻ hạ tầng thông minh;
- Áp dụng khung pháp lý mạnh mẽ;
- Xây dựng trung tâm dữ liệu hiện đại, đẳng cấp thế giới và nền tảng cho các dịch vụ đám
mây; và
- Đảm bảo đủ năng lực đáng tin cậy cho kết nối quốc tế.
Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2016-2017 do Diễn đàn kinh tế thế giới công bố,
Thái Lan chỉ đứng thứ 63 trong số 138 quốc gia về độ sẵn sàng công nghệ. Thái Lan đứng thứ
94 về số người sử dụng Internet, thứ 70 về công nghệ mới nhất, thứ 72 về chất lượng hạ tầng,
thứ 65 về mua sắm của chính phủ đối với các sản phẩm công nghệ tiên tiến, thứ 34 về thuê
bao băng rộng di động/100 dân và thứ 121 về bảo vệ tài sản trí tuệ. Những thống kê này chứng
minh sự cần thiết phải đầu tư lớn và hành động theo phương thức khác cho hạ tầng
CNTT&TT, cũng như những phát hiện cho thấy thiếu các công nghệ mới như triển khai mạng
4G còn hạn chế, đang tạo rào cản cho đầu tư nước ngoài ở Thái Lan, bao gồm rào cản đối với
đầu tư cho kinh tế số.
Thông tin chi tiết từ một khảo sát của ETDA (2015) về hồ sơ người dùng Internet tại Thái Lan
cho thấy những mặt tích cực trong ứng dụng CNTT&TT: nhiều người dân dưới 15 tuổi và
nhiều người cao tuổi hơn đang sử dụng Internet và các ứng dụng mạng xã hội như Facebook,
Google+ và ứng dụng nhắn tin như LINE ngày càng phổ biến. Hơn nữa, hơn một nửa số
lượng truy cập này được thực hiện để mua hàng trực tuyến thông qua mạng xã hội. Tuy nhiên,
chỉ có 3,5% dân số có quyền truy cập băng rộng, phần lớn ở khu vực thành thị và có khoảng
cách số lớn giữa dân đô thị và nông thôn.
Trong Kế hoạch Kinh tế số, băng rộng được xem là một phương tiện chính để thu hẹp khoản
cách số và mức độ thâm nhập di động khá tốt của Thái Lan hỗ trợ thực hiện mục tiêu này. Ví
dụ, báo cáo của GSMA (Okeleke và Stryjak 2015) cho thấy hạ tầng viễn thông của Thái Lan
tương đối tốt.
Như báo cáo nhấn mạnh, băng rộng cần có điện thoại thông minh thay cho điện thoại có chức
năng cơ bản, nhưng tiềm năng gia tăng thâm nhập di động lên 133 thuê bao/100 dân vào năm
2020 có thể tạo nền tảng quan trọng cho việc triển khai băng rộng. Tiềm năng của băng rộng
di động ở Thái Lan xoay quanh sự sẵn có của các chính sách băng tần và âm thanh 4G. Trong
Kế hoạch kinh tế số, Chính phủ Thái Lan đã công bố kế hoạch bổ sung thêm băng tần 4G,
cùng với các chính sách khác sẽ dẫn đến một lĩnh vực di động cạnh tranh được định hướng bởi
đầu tư. Đảm bảo tính độc lập của cơ quan quản lý viễn thông, đấu giá minh bạch và có sự tư
vấn, cũng như quy trình pháp lý đã được GSMA lập luận là một phần thiết yếu của quá trình
37
này trong tương lai.
3.3. Kế hoạch số của Malaixia
Quá trình Malaixia chuyển đổi từ một quốc gia có thu nhập thấp sang thu nhập ở mức trung
bình cao diễn ra song song với cuộc cách mạng vi điện tử. Từ năm 1960 đến năm 2016, tăng
trưởng GDP của quốc gia này trung bình đạt mức 6,3%/năm. Trong giai đoạn này, chính phủ
đã triển khai nhiều chính sách đầy tham vọng, thúc đẩy sự phát triển của các ngành công
nghiệp mới và cho phép nước này tiến đến các chuỗi giá trị toàn cầu. Ở cấp quốc gia, chính
phủ đã áp dụng các chính sách nhằm tăng mức độ ổn định của nền kinh tế vĩ mô, tăng cường
môi trường đầu tư và kinh doanh, thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và khuyến khích đổi mới
sáng tạo. Ở cấp độ ngành, chính phủ đang nỗ lực nâng cao hiệu quả của thị trường đầu vào và
đầu ra, hỗ trợ phát triển các ngành dịch vụ năng động và tăng số lượng lao động thông qua đầu
tư nâng cao kỹ năng và khuyến khích phụ nữ tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động.
Tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người năm 2017 đã tăng lên 9.650 USD. Nếu
những xu hướng này tiếp tục được duy trì, Malaixia sẽ trở thành quốc gia có thu nhập cao
trong giai đoạn 2020 - 2024, trong đó CNTT&TT đóng góp 18,2% GDP. Để hiện thực hóa
mục tiêu này, Malaixia đã đưa ra nhiều sáng kiến trong đó đề cập đến nội dung số.
Thương mại điện tử: Khoảng 40 sáng kiến và chương trình liên quan đến thương mại điện tử
đã được hơn 20 cơ quan chính phủ ở Malaixia đưa ra. Lộ trình Chiến lược thương mại điện tử
quốc gia dưới sự giám sát của Hội đồng thương mại điện tử quốc gia (NeCC), nhằm mục tiêu
tăng gấp đôi tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của quốc gia từ 10,8% lên 20,8% trong
giai đoạn 2015 - 2020 và đưa Malaixia trở thành trung tâm hàng đầu về thương mại điện tử
trong khu vực ASEAN. Để thúc đẩy chiến lược này, khái niệm Khu thương mại tự do số
(DFTZ) đã được phát triển để tạo thuận lợi cho thương mại điện tử bao gồm trung tâm phân
phối điện tử (e-fulfilment hub) tại Sân bay quốc tế Kuala Lumpur (KLIA) với các đối tác như
công ty Cainiao của Alibaba, Lazada và Pos Malaixia; và Nền tảng thương mại thế giới điện
tử nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thanh toán hướng vào DNVVN. Thách thức đối với
Malaixia là khả năng thu hút các doanh nghiệp thương mại điện tử và logistics trong và ngoài
nước đầu tư và hoạt động trong những khu vực này. Khái niệm DFTZ cũng đã được áp dụng
tại Trung Quốc, nhưng trong trường hợp của Trung Quốc, chỉ riêng quy mô của thị trường nội
địa là một lợi thế lớn cho DFTZ thành công trong tương lai. Tại các thị trường Đông Nam Á
với quy mô nhỏ hơn, cần có các biện pháp bổ sung để đảm bảo thành công, từ khuyến khích
đầu tư và thuế đến thủ tục kinh doanh nhanh chóng.
Cung cấp dịch vụ công: Đơn vị lập kế hoạch quản lý và hiện đại hóa hành chính Malaixia
(MAMPU) trực thuộc Văn phòng Thủ tướng được thành lập để chuyển đổi hoạt động cung
cấp dịch vụ công thông qua đẩy nhanh việc áp dụng CNTT&TT vào năm 2020. Mục tiêu
chính của MAMPU về dữ liệu số, đám mây và an ninh mạng được đề cập trong Kế hoạch
chiến lược CNTT&TT của khu vực công (2016-2020). Theo Kế hoạch, một số dịch vụ của
chính phủ sẽ chỉ được cung cấp theo phương thức số và công dân sẽ được nhận thẻ định danh
người sử dụng (ID) để truy cập các dịch vụ trực tuyến. Dự kiến, chính phủ cũng sẽ cho phép
38
thanh toán trực tuyến với 19 cơ quan cung cấp dịch vụ thanh toán di động vào năm 2020.
MAMPU sẽ xem xét khuyến khích sử dụng dữ liệu trong chính phủ trên phạm vi rộng, với các
phân tích được sử dụng để cải thiện khả năng phân phối số. MAMPU sẽ xây dựng Nền tảng
đám mây hợp nhất để các cơ quan cùng nhau chia sẻ dữ liệu.
Nhận thấy tầm quan trọng của nền kinh tế số, Chính phủ Malaixia đang nỗ lực phối hợp để
thúc đẩy chuyển đổi số. Tập đoàn Kinh tế số Malaixia (MDEC) được giao nhiệm vụ đứng đầu
Trung tâm số Malaixia và các chương trình Technopreneurship để thu hút các công ty khởi
nghiệp công nghệ toàn cầu và địa phương. Kết quả dẫn đến sự xuất hiện của khoản đầu tư 16,3
tỷ USD trong năm 2016. Sáng kiến Khu vực thương mại tự do số (DFTZ) được đưa ra vào
năm 2017 theo Lộ trình Chiến lược thương mại điện tử quốc gia nhằm tăng đóng góp cho xuất
khẩu của DNVVN lên 38 tỷ USD và tạo ra 60.000 việc làm vào năm 2025. Để đạt được bước
tiến trong phân tích dữ liệu lớn, sáng kiến Trao đổi phân tích dữ liệu (ADAX) cung cấp hoạt
động đào tạo cho các công ty và tạo điều kiện thử nghiệm các giải pháp mới. Bên cạnh đó,
MDEC đã phát triển mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và ngành công nghiệp để tích
lũy thêm chuyên môn cần thiết về chuyên gia dữ liệu và an ninh mạng.
3.3.1. Lộ trình Chiến lược thương mại điện tử quốc gia
Lộ trình này đặt mục tiêu tăng gấp đôi tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng năm từ
10,8% năm 2016 lên 20,8% vào năm 2020, như một nỗ lực để đảm bảo thương mại điện tử trở
thành một trong những động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Malaixia.
Lộ trình, do Thủ tướng Datuk Seri Mohd Najib Razak công bố tháng 10/2016, nhằm tăng
đóng góp của ngành vào tổng sản phẩm quốc nội lên mức 170 tỷ RM vào năm 2020. Thương
mại điện tử được nhấn mạnh như một nội dung rất quan trọng của kế hoạch kinh tế số tổng thể
của Malaixia. Đây là hướng phát triển phù hợp đặc biệt trong bối cảnh của các hiệp định
thương mại quốc tế như Thỏa thuận đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPPA).
Lộ trình do Hội đồng thương mại điện tử quốc gia (NECC), liên minh gồm 13 Bộ và cơ quan
soạn thảo, bao gồm 6 lĩnh vực can thiệp đã được xác định như: dỡ bỏ các hàng rào phi thuế
quan, sắp xếp lại các khuyến khích kinh tế hiện có và xúc tiến thương hiệu quốc gia để đẩy
mạnh thương mại điện tử xuyên biên giới.
Mười một chương trình sẽ được thực hiện theo lộ trình dưới sự chỉ đạo của các cơ quan đầu
ngành như Bộ Thương mại và Công nghiệp quốc tế (MITI), Công ty điều phối DNVVN, Cơ
quan Phát triển đầu tư Malaixia, Ủy ban Truyền thông và Đa phương tiện Malaixia, Ngân
hàng Negara Malaixia và Bộ Tài chính.
3.3.2. Khu vực thương mại tự do số (DFTZ)
DFTZ là sáng kiến để khai thác sự tăng trưởng kết hợp theo cấp số nhân của nền kinh tế
Internet và các hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới. DFTZ được đưa ra để tạo thuận
lợi cho thương mại xuyên biên giới một cách có hệ thống và cho phép các doanh nghiệp địa
phương xuất khẩu hàng hóa của họ, trong đó ưu tiên thương mại điện tử. DFTZ sẽ cung cấp
các khu vực thực tế và khu vực ảo để DNVVN có thể khai thác sự hội tụ giữa tăng trưởng theo
39
cấp số nhân của nền kinh tế Internet và các hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới.
DFTZ hướng đến thực hiện các mục tiêu sau:
• Giúp DNVVN dễ dàng xuất khẩu sản phẩm;
• Cho phép thị trường toàn cầu lấy hàng hóa từ các nhà sản xuất/thương gia ở Malaixia;
• Biến Malaixia thành trung tâm phân phối của khu vực để các thương hiệu toàn cầu tiếp cận
với người mua trong khu vực ASEAN
• Nuôi dưỡng một hệ sinh thái nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong nền kinh tế thương mại
điện tử và Internet
Ba thành phần trong cả khu vực thực tế và khu vực ảo gồm có:
• Trung tâm phân phối điện tử: Giúp DNVVN/doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa một cách dễ
dàng với sự giúp đỡ của các nhà cung cấp dịch vụ hàng đầu.
• Trung tâm dịch vụ vệ tinh: Kết nối DNVVN/doanh nghiệp với các doanh nghiệp hàng đầu
về cung cấp các dịch vụ như cấp vốn, bảo hiểm và các dịch vụ khác quan trọng trong thương
mại xuyên biên giới.
• Nền tảng dịch vụ điện tử: Quản lý hiệu quả thông quan hàng hóa và các quá trình khác cần
cho thương mại xuyên biên giới.
Sự ra đời của sáng kiến DFTZ sẽ thúc đẩy lộ trình thương mại điện tử của Malaixia được đưa
ra vào năm 2016 nhằm tăng gấp đôi tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử quốc gia và tăng
mức đóng góp cho GDP lên 211 tỷ RM (khoảng 47,68 tỷ USD) vào năm 2020.
3.3.3. Trao đổi phân tích dữ liệu ASEAN (ADAX)
ADAX là sáng kiến của Tập đoàn Kinh tế số Malaixia (MDEC) cho phép các doanh nghiệp,
chính phủ, viện nghiên cứu và chuyên gia nhanh chóng sử dụng Dữ liệu lớn và Phân tích dữ
liệu như một công cụ để trao quyền ra quyết định và đổi mới sáng tạo. Đây là kết quả hợp tác
công - tư thành công giữa MDEC và doanh nghiệp Ansys Sdn Bhd để xây dựng và tăng cường
hệ sinh thái dữ liệu lớn của Malaixia.
ADAX được công bố lần đầu tiên vào tháng 3/2017 như hoạt động trao đổi dữ liệu vật lý đầu
tiên của Malaixia và thế giới. ADAX có trụ sở tại Bangsar South, Kuala Lumpur và tìm cách
trở thành Trung tâm trao đổi phân tích dữ liệu về tri thức, thông tin, tài nguyên và cộng tác
trong khu vực ASEAN.
ADAX được ủy nhiệm xây dựng đội ngũ nhân tài quan trọng chuyên phân tích dữ liệu lớn,
đồng thời phát triển hệ sinh thái và thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp, công ty khởi
nghiệp, viện nghiên cứu và chuyên gia để phân tích dữ liệu trở thành bộ phận không thể thiếu
trong đổi mới kinh doanh và ra quyết định.
ADAX tập trung vào bốn trụ cột để thúc đẩy phát triển các sáng kiến:
Giáo dục & Đào tạo - Dành cho sinh viên & các chuyên gia phát triển các kỹ năng phân tích
40
dữ liệu mới, tiên tiến và tinh thần khởi nghiệp trong các lớp học vật lý và ảo.
Thực tiễn tốt nhất - Cung cấp tri thức cho các công ty khởi nghiệp và tổ chức về phân tích dữ
liệu.
Phát triển ngành công nghiệp - Thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp và các tổ chức giáo
dục để nuôi dưỡng và khai thác các phân tích thông qua các sáng kiến khác nhau.
Khuyến nghị chính sách - Hợp tác với các đối thủ trong ngành để phát triển hệ sinh thái phân
tích và dữ liệu lớn.
ADAX phối hợp với các nhà lãnh đạo của ngành công nghiệp và nhà cung cấp hoạt động giáo
dục để cung cấp các khóa học trực tuyến mở rộng, đánh giá ứng viên thông qua vị trí ứng
tuyển, Phòng thí nghiệm đào tạo & công nghệ chung, tổ chức các cuộc thi phát triển phần
mềm (Hackathon), cung cấp chương trình xúc tiến và tạo điều kiện hợp tác trong ngành.
Chương trình ngôi sao dữ liệu
Nhằm thúc đẩy sự phát triển các chuyên gia dữ liệu tài năng ở Malaixia, ADAX và MDEC
hợp tác với các trường đại học và đối tác công nghiệp hàng đầu để giới thiệu chương trình
ngôi sao dữ liệu. Chương trình kéo dài 6 tháng dành cho sinh viên tốt nghiệp, trong đó có hai
tháng có sự tư vấn của các nhà khoa học dữ liệu lâu năm về khoa học dữ liệu chuyên sâu và
sắp xếp việc làm tại các đơn vị đối tác trong ngành. Chương trình dự kiến sẽ giúp Malaixia
đào tạo được 20.000 chuyên gia dữ liệu vào năm 2020.
Các lộ trình học tập được quản lý theo Khung kỹ năng chuyên gia dữ liệu, một nền tảng hỗ trợ
phát triển tri thức về dữ liệu và phân tích tập trung vào ba lĩnh vực: Kỹ sư dữ liệu, Nhà phân
tích dữ liệu và Nhà khoa học dữ liệu.
Học sinh sẽ được cung cấp những bộ kỹ năng nền tảng cho từng lĩnh vực kiến thức. Các khóa
học sẽ bao gồm các bài giảng và các buổi thí nghiệm, lập trình thực hành và các buổi tương
tác. Mỗi lộ trình học tập bao gồm cố vấn, trình bày dự án và phát triển kỹ năng mềm.
Sinh viên tốt nghiệp bằng tiến sĩ, thạc sĩ hoặc cử nhân toán học/thống kê, khoa học máy tính,
khoa học tính toán, kỹ thuật, kinh tế hoặc khoa học được mời để áp dụng trong khi kiến thức
về lập trình là một lợi thế bổ sung.
Những người tham gia chương trình Ngôi sao dữ liệu được sự cố vấn của các nhà khoa học dữ
liệu có kinh nghiệm trong ngành, tiếp xúc với các doanh nghiệp liên quan và được hỗ trợ kinh
phí đào tạo và thực tập.
Hỗ trợ khoa học dữ liệu
ADAX hoạt động như hạ tầng vật lý cho các công ty khởi nghiệp và trao cho các thành viên
quyền truy cập vào nền tảng phân tích dữ liệu có sẵn. ADAX cung cấp hoạt động giáo dục và
đào tạo cho các doanh nghiệp và tổ chức trong lĩnh vực này.
Đối tác phân phối, công nghệ và công nghiệp
ADAX hợp tác chặt chẽ với một số đối tác phân phối nổi tiếng trong nước và quốc tế để đảm
41
bảo chất lượng dịch vụ cao nhất như IBM, Microsoft, Trung tâm Khoa học dữ liệu ứng dụng
(CADS), công ty SAS, Viện dữ liệu mở, công ty FusionEx. ADAX cũng coi công ty
Cloudera, công ty Sedania Innovator Berhad, doanh nghiệp Hewlett Packard, công ty TDATA
(Malaixia) Sdn Bhd và công ty DataMicron như là các đối tác công nghệ.
Hiện tại, ADAX có một số đối tác cung cấp các khóa thực tập cho những người tham gia vào
các chương trình của ADAX. Những đối tác trong ngành bao gồm công ty Kasatria, Fave,
Celcom, Petronas, GHL, Leo Burnett, Hong Leong Bank, Tapway, Datalynx, FusionEx,
MDEC, Astro, Maybank và Quandatics.
3.4.Chính sách hỗ trợ nền kinh tế số tại Việt Nam
Nền kinh tế số đang bùng nổ tại Việt Nam. Năm 2016, Tạp chí PC mô tả Việt Nam là Thung
lũng Silicon của Đông Nam Á. Các ngành mới nổi và ngành công nghiệp phát triển nhanh ở
Việt Nam bao gồm công nghệ tài chính, viễn thông, điện tử và sản xuất máy tính và dịch vụ
CNTT&TT.
Năm 2016, theo ước tính, Việt Nam có khoảng 24.501 doanh nghiệp bao gồm các doanh
nghiệp phần cứng, phần mềm và nội dung số. Có nhiều trung tâm đào tạo chuyên gia và khu
công nghệ cho các lập trình viên và kỹ sư CNTT&TT tại tám địa điểm, bao gồm các thành
phố lớn của Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Chính phủ Việt Nam đã ưu tiên phát triển ngành CNTT&TT với Kế hoạch tổng thể
CNTT&TT, 6 ưu đãi thuế và xây dựng hạ tầng giáo dục để hỗ trợ các công ty CNTT&TT mới
thành lập mong muốn phát triển hoặc đầu tư.
Việt Nam có một cộng đồng lớn các chuyên gia phần mềm và công ty khởi nghiệp chuyên
phát triển các sản phẩm và dịch vụ số được sử dụng tại Việt Nam, cũng như thực hiện phát
triển phần mềm ở nước ngoài từ các nền kinh tế tiên tiến.
Chính phủ Việt Nam coi chuyển đổi số toàn bộ nền kinh tế là rất quan trọng cho sự tăng
trưởng liên tục và thịnh vượng. Cam kết của Việt Nam được thể hiện trong các chính sách, kế
hoạch tổng thể và chỉ thị được ban hành trong 30 năm qua, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải đầu
tư cho hạ tầng quan trọng, xây dựng ngành CNTT&TT, thúc đẩy thương mại điện tử và áp
dụng công nghệ như một phương tiện để tăng năng suất. Các văn bản chính sách gần đây hỗ
trợ xây dựng nền kinh tế số bao gồm:
Quyết định 392/QĐ-TTg (2015) đề ra mục tiêu phát triển CNTT đến năm 2020 với tầm nhìn
hướng đến năm 2025;
Quyết định 149/QĐ-TTg (2016) đưa ra mục tiêu phát triển hạ tầng băng rộng và viễn thông
đến năm 2020; và
Chỉ thị 16/CT-TTg (2017), do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ban hành nhằm tăng cường năng
lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Các chỉ thị và quyết định này đáp ứng nhu cầu mở rộng mạnh mẽ hạ tầng thông tin quốc gia
42
của Việt Nam, phát triển nguồn nhân lực (đặc biệt là các chuyên gia CNTT) và tự do hóa môi
trường pháp lý để khuyến khích đầu tư nước ngoài nhiều hơn cho lĩnh vực CNTT&TT.
Ví dụ, trong Chỉ thị 16/CT-TTg (2017), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo Chính phủ
Việt Nam tăng cường hỗ trợ để hiện đại hóa công nghệ cho ngành công nghiệp cụ thể thông
qua:
- Tập trung phát triển mạng lưới và hạ tầng số
- Đẩy mạnh cải cách để khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới, bao
gồm triển khai ứng dụng chính phủ điện tử trong hoạt động của các cơ quan chính phủ và xem
xét các quy định và dịch vụ liên quan.
- Ưu tiên phát triển ngành CNTT&TT của Việt Nam là điểm nhấn trong chính sách và
cải cách của chính phủ và đẩy mạnh tiếp nhận các công nghệ thông minh trong tất cả các
ngành.
- Xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo thông qua tài trợ thêm cho hạ tầng và tổ chức
khoa học và nghiên cứu, xây dựng mối quan hệ quốc tế và thúc đẩy phát triển các doanh
nghiệp khởi nghiệp công nghệ.
- Xây dựng các kỹ năng công nghệ thông qua tập trung vào giáo dục và đào tạo STEM
từ giáo dục trẻ nhỏ đến người lớn.
- Nâng cao nhận thức trong tất cả các cấp và các ngành về những cơ hội và thách thức
của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đảm bảo cho xã hội và ngành công nghiệp có sự
chuẩn bị cho những thay đổi trong tương lai.
Chú trọng khả năng sáng tạo và tự do để nâng cao tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng
tạo
Chính phủ Việt Nam cũng đã tạo sự liên kết giữa đổi mới sáng tạo gia tăng (bao gồm sự phát
triển của nền kinh tế số) - một động lực tăng trưởng kinh tế, với khả năng sáng tạo và thử
nghiệm ngày càng lớn và văn hóa cởi mở và tự do.
Năm 2016, Bộ Kế hoạch đầu tư và Ngân hàng thế giới đã công bố báo cáo với tiêu đề “Việt
Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ”, trong đó nêu rõ: Về lâu
dài, các quốc gia có thể chế chính trị cởi mở và toàn diện hơn, sẽ mở ra nhiều cơ hội cho đổi
mới và sáng tạo của cá nhân, do đó, khuyến khích cải thiện năng suất và nâng cao mức sống.
Đối với Việt Nam, việc tìm cách xây dựng các thể chế chính trị cởi mở và có trách nhiệm hơn
cuối cùng sẽ là cần thiết.
Cải thiện khung pháp lý
Tại Việt Nam, nhiều cơ quan chịu trách nhiệm hỗ trợ và điều chỉnh các khía cạnh khác nhau
của nền kinh tế số và không có quy định nào chi phối tất cả các khía cạnh của nền kinh tế số:
khung pháp lý hiện hành là sự kết hợp giữa các nghị định và quy định thương mại của nhiều
bộ. Cơ quan chính đưa ra quy định về viễn thông và CNTT&TT là Bộ Thông tin và Truyền
43
thông. Ngoài ra còn có các cơ quan khác hỗ trợ phát triển nền kinh tế số tại Việt Nam (Xem
hình 4). Các văn pháp quy định quan trọng nhất trong lĩnh vực này được tóm tắt trong Hình 5.
Các luật mới được áp dụng cho giao dịch điện tử (2005), CNTT (2006), viễn thông (2009), tần
số vô tuyến (2009) và bảo mật thông tin mạng (2015). Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định
và quyết định để cung cấp hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các luật này. Khung pháp lý được
tăng cường hơn nữa bởi các hiệp định thương mại quốc tế và thương mại tự do Việt Nam (ví
dụ Hiệp định AEC, EU-VN) và các hiệp định song phương với Hàn Quốc và Nhật Bản.
Bộ Khoa
học và
Công nghệ
(MOST)
Bộ Thông
tin và
Truyền
thông
(MIC)
Bộ Giáo
dục và Đào
tạo
(MOET)
và Bộ Lao
động –
Thương
binh và Xã
hội
(MOLISA)
Bộ Tài
chính
(MOF)
Bộ Công
nghiệp
và
Thương
mại
(MOIT)
Bộ Kế
hoạch và
Đầu tư
(MPI)
Các Bộ
khác và
Ủy ban
tỉnh
Ủy
ban
quốc
gia về
Ứng
dụng
CNTT
Điều tiết
hoạt động
có liên
quan đến
NC&PT và
ĐMST; đẩy
mạnh ứng
dụng,
nghiên cứu,
phát triển
và chuyển
giao các
công nghệ
cốt lõi của
Cuộc cách
mạng lần
thứ 4
Điều tiết và
xây dựng
các kế
hoạch liên
quan đến
xuất
bản,phương
tiện truyền
thông tin
tức, bưu
chính,
CNTT&TT,
phát thanh
truyền hình
và hạ tầng
thông tin
quốc gia
Phát
triển
nguồn
nhân lực
CNTT&
TT
Điều tiết
ứng
dụng
thương
mại điện
tử và
CNTT&
TT trong
các
ngành
công
nghiệp
Phát
triển các
chiến
lược và
kế hoạch
kinh tế -
xã hội để
đẩy
mạnh
ứng
dụng
CNTT&
TT và số
hóa
Phát
triển các
kế hoạch
hành
động và
đẩy
mạnh
ứng
dụng
CNTT&
TT trong
các lĩnh
vực liên
quan và
các tỉnh
Điều tiết
ngân
hàng
điện tử
và tài
chính
điện tử;
xây
dựng các
chính
sách
thuế và
tài chính
để đẩy
mạnh
ứng
dụng
CNTT&
TT
Giám sát việc thực hiện các kế
hoạch CNTT&TT quốc gia
Văn phòng chính phủ
Hình 4: Các cơ quan quản lý nền kinh tế số Việt Nam
44
Các luật chính
Luật
Viễn
thông
2009
Luật Công
nghệ thông
tin 2006
Luật Tần
số vô
tuyến
2009
Luật Bảo
mật thông
tin mạng
2015
Luật Giao
dịch điện
tử 2005
Luật
Công
nghệ cao
2008
Luật Sở
hữu trí
tuệ
2005
Các Nghị định và quyết định chính
Nghị định
25/2011/
NĐ-CP
hướng
dẫn thực
hiện Luật
Viễn
thông
Nghị định
154/2013
/NĐ-CP
về khu
công
nghiệp
thông tin
tập trung
Nghị định
26/2007/N
Đ-CP quy
định chi
tiết thi
hành Luật
Giao dịch
điện tử
Nghị định
71/2007/N
Đ-CP quy
định chi
tiết thi
hành Luật
Công nghệ
thông tin
Chỉ thị số
16/CT-TTg
tăng cường
năng lực
tiếp cận
cuộc cách
mạng 4.0
Nghị định
35/2007/N
Đ-CP và
Nghị định
27/2007/
NĐ-CP về
ngân hàng
điện tử và
tài chính
điện tử
Nghị
định
52/2013
/ NĐ-
CP về
thương
mại
điện tử
Nghị định
97/2008/N
Đ-CP về
các dịch vụ
Internet và
thông tin
điện tử trên
Internet
Các chiến lược, kế hoạch tổng thể, sáng kiến chính
Chiến
lược phát
triển Bưu
chính -
Viễn thông
Việt
Nam đến
năm 2010
và định
hướng đến
năm 2020
Kế hoạch
tổng thể phát
triển ngành
công nghiệp
điện tử Việt
Nam đến
năm 2010
với tầm nhìn
hướng đến
năm 2020
Kế hoạch
quốc gia
phát triển
bảo mật
CNTT đến
năm 2020
Chương
trình mục
tiêu phát
triển
CNTT đến
năm 2020
với tầm
nhìn hướng
đến năm
2050
Chương
trình phát
triển hạ
tầng viễn
thông băng
rộng đến
năm 2020
Kế hoạch
hỗ trợ hệ
sinh thái
khởi
nghiệp đổi
mới sáng
tạo quốc
gia đến
năm 2025
Chiến lược
phát triển
CNTT&TT
Việt Nam
đến năm
2010 và định
hướng đến
năm 2020
Hình 5: Cập nhật các quy định liên quan đến nền kinh tế số
45
KẾT LUẬN
Nền kinh tế số là một phần sản lượng kinh tế chỉ bắt nguồn hoặc chủ yếu bắt nguồn từ các
công nghệ số với mô hình kinh doanh dựa vào hàng hóa hoặc dịch vụ số, có tầm quan trọng
ngày càng lớn đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, việc khai thác tiềm năng của nền
kinh tế số vấp phải nhiều thách thức. Hạ tầng số chưa hoàn chỉnh, đắt đỏ và hoạt động kém
hiệu quả. Hệ sinh thái số rộng lớn thiếu nguồn nhân lực, kết hợp với nguồn lực tài chính còn
yếu và quản trị kém. Tăng trưởng kinh tế số đang làm trầm trọng thêm tình trạng loại trừ số,
bất bình đẳng, kết hợp bất lợi và các tác hại khác. Những thách thức nêu trên cần được giải
quyết nhờ có các biện pháp chính sách phù hợp, giúp thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế
số và góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tiềm năng kinh tế số tại Việt Nam rất lớn, nhưng vấn đề là Chính phủ cần quan tâm đến an
ninh dữ liệu của người dùngvới khuôn khổ chính sách pháp luật cần thiết để bảo vệ và thu hút
tiềm lực cho kinh tế số.Việt Nam đã tiếp cận đúng hướng với nền tảng là Luật An ninh mạng,
qua đó có thể thu hút đầu tư nhiều hơn cũng như mở đường cho doanh nghiệp khởi nghiệp và
lan tỏa nền kinh tế số trong các lĩnh vực, từ giao thông, y tế, giáo dục Nhờ có nền kinh tế số,
các ngành công nghiệp có bước chuyển biến đột phá trong mô hình kinh doanh, từ thương mại
điện tử, quảng cáo trực tuyến trên các trang mạng xã hội (Facebook, instagram), giải trí
(Netflix, Pinterest), đến GTVT (Uber, Grab) đến phân phối, bán buôn và bán lẻ (Lazada,
Shoppe)... Đây chính là những bước phát triển của kinh tế số hóa trong đời sống của người dân
Việt Nam những năm gần đây.
Để nền kinh tế số thực sự trở thành động lực mới cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
trong thời gian tới, Việt Nam vẫn phải tiếp tục tập trung vào 3 đột phá là thể chế, hạ tầng và
nguồn nhân lực. Về thể chế, bên cạnh việc tiếp tục tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh hấp
dẫn để thu hút các nguồn lực, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, Việt
Nam phải xây dựng môi trường pháp lý để phát triển nền kinh tế số. Đồng thời, Việt Nam phải
tiếp tục xây dựng hạ tầng phát triển kinh tế, trong đó hạ tầng công nghệ phải đi trước một
bước, giờ là hạ tầng mạng 4G thì trong tương lai sẽ là hạ tầng mạng 5G. Còn hạ tầng điện, như
ước tính đến năm 2030, cần có nguồn vốn đầu tư 150 tỉ USD. Về nguồn nhân lực, cần tái đào
tạo lực lượng lao động để họ bắt kịp với xu hướng công nghệ số. Hy vọng những giải pháp
chính sách phát triển kinh tế số của một số quốc gia trong khu vực sẽ cung cấp cho các nhà
hoạch định chính sách thông tin hữu ích trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế số
tại Việt Nam.
46
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Rumana Bukht & Richard Heeks (2018), Digital Economy Policy in Developing
Countries
2. Infocomm Media Development Authority (2018), Digital Economy Framework for
Action, Singapore
3. Rumana Bukht & Richard Heeks (2018), Digital Economy Policy: The Case Example
of Thailand
4. Rumana Bukht & Richard Heeks (2017), Defining, Conceptualising and Measuring
the Digital Economy
5. CISRO, Ministry of Science and Technology, Vietnam (2018), First report of the
Vietnam’s Future Digital Economy Project
6. https://tuoitre.vn/kinh-te-so-phai-la-co-may-tien-phong-20190117232849667.htm
7. https://baodautu.vn/viet-nam-co-co-hoi-thu-hut-nguon-luc-dau-tu-vao-kinh-te-so-
d90568.html
8.
&bb=%20file
9. https://themalaysianreserve.com/2017/04/03/national-roadmap-to-double-e-
commerce-growth-by-2020/
10.
11. https://www.massa.net.my/adax/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_giai_phap_chinh_sach_phat_trien_nen_kinh_te_so.pdf