Tài liệu Lạm phát

Tóm lược cuối bài  Lạm phát xảy ra khi mức giá chung tăng lên. Ngược lại, nền kinh tế có giảm phát khi mức giá chung giảm xuống. Ngày nay, chúng ta tính toán lạm phát bằng cách sử dụng chỉ số giá. Hai chỉ số giá được sử dụng rộng rãi để đo lường mức giá chung là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP.  Lạm phát trong mỗi thời kỳ có xu hướng dao động xung quanh một mức nhất định, đó chính là tỷ lệ lạm phát ỳ hay tỷ lệ lạm phát dự kiến. Đó là tỷ lệ lạm phát mà mọi người đã dự đoán trước và được đưa vào trong các hợp đồng lao động và các thỏa thuận khác.  Trong thực tế, các cú sốc cung và cầu thường xuyên tác động đến nền kinh tế, đẩy nền kinh tế trệch khỏi thế cân bằng dài hạn và lạm phát trệch khỏi mức dự tính. Lạm phát do cầu kéo xuất hiện là do tổng cầu tăng lên, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá mức tự nhiên. Lạm phát do chi phí đẩy là một hiện tượng mới của các nền kinh tế hiện đại, xuất hiện là do chi phí sản xuất tăng và kết quả là nền kinh tế trải qua đồng thời cả lạm phát và suy thoái.  Trong dài hạn lạm phát về cơ bản là hiện tượng tiền tệ: lạm phát chỉ xảy ra khi lượng tiền cung ứng tăng nhanh hơn sản lượng thực tế. Do đó, biện pháp cơ bản và lâu dài để chống lạm phát là kiểm soát tốc độ tăng cung ứng tiền tệ.  Rất nhiều người nghĩ rằng lạm phát làm cho họ trở nên nghèo hơn vì nó làm tăng giá hàng hoá mà họ mua. Tuy nhiên, quan niệm như vậy là sai lầm vì lạm phát thường cũng làm tăng thu nhập danh nghĩa.  Các nhà kinh tế đã chỉ ra 6 tác hại của lạm phát: chi phí mòn giày liên quan đến việc cắt giảm lượng tiền nắm giữ; chi phí thực đơn liên quan đến việc điều chỉnh giá thường xuyên hơn; làm tăng sự biến động của giá tương đối; làm tăng gánh nặng thuế vì luật thuế không áp dụng chỉ số trượt giá; gây ra sự nhầm lẫn và bất tiện phát sinh từ sự thay đổi đơn vị hạnh toán; và tái phân phối của cải một cách tuỳ tiện giữa người đi vay và người cho vay. Trong thời kỳ siêu lạm phát, đa số các chi phí này lớn, nhưng qui mô của các chi phí này không rõ ràng lắm khi lạm phát ở mức vừa phải.  Đường Phillips mô tả mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp. Bằng cách mở rộng tổng cầu, các nhà hoạch định chính sách có thể chọn một điểm trên đường Phillips có lạm phát cao hơn và thất nghiệp thấp hơn. Bằng cách thu hẹp tổng cầu, các nhà hoạch định chính sách có thể chọn một điểm trên đường Phillips có lạm phát thấp hơn và thất nghiệp cao hơn.

pdf16 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 6: Lạm phát NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 75 BÀI 6 LẠM PHÁT Hướng dẫn học Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau:  Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn.  Đọc tài liệu: 1. Giáo trình Kinh tế học - Tập II – NXB Kinh tế Quốc dân, 2012 Chủ biên. PGS.TS. Vũ Kim Dung và PGS.TS. Nguyễn Văn Công. 2. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Giáo trình Nguyên lý kinh tế học vĩ mô, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012. 3. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Bài tập Nguyên lý kinh tế vĩ mô, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.  Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.  Trang Web môn học. Nội dung  Khái niệm và đo lường lạm phát  Các nguyên nhân của lạm phát  Tác động của lạm phát Mục tiêu  Giúp học viên nhận biết được bản chất của hiện tượng lạm phát;  Giúp học viên nhận biết được nguyên nhân gây lạm phát;  Giúp học viên nhận biết được tác động của lạm phát; Bài 6: Lạm phát 76 NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 Tình huống dẫn nhập Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2011 theo Tổng cục thống kê là 18,1%. Lạm phát là gì, nó có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống của người dân Việt Nam? Nguyên nhân nào gây ra lạm phát? 1. Để giải quyết các câu hỏi trên, cần làm rõ: bản chất của lạm phát; cách thức đo lường lạm phát; tác động của lạm phát. 2. Tất cả những vấn đề trên được nghiên cứu trong bài học này. Bài 6: Lạm phát NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 77 6.1. Khái niệm và đo lường 6.1.1. Khái niệm Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Lạm phát vẫn có thể xảy ra khi giá của một số hàng hóa giảm, nhưng giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh. Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Trong bối cảnh lạm phát, một đơn vị tiền tệ mua được ngày càng ít đơn vị hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói một cách khác, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều tiền hơn để mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ nhất định. Nếu thu nhập bằng tiền không tăng kịp tốc độ trượt giá, thì thu nhập thực tế, tức là sức mua của thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Do vậy, thu nhập thực tế tăng lên hay giảm xuống trong thời kỳ lạm phát phụ thuộc vào điều gì xảy ra với thu nhập bằng tiền, tức là, phải chăng các cá nhân có nhận thêm lượng tiền đã giảm giá trị đủ để bù đắp cho sự gia tăng của mức giá hay không. Người dân vẫn có thể trở nên khá giả hơn khi thu nhập bằng tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng giá. Một điều quan trọng mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một cú sốc xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường như mức giá chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm trở lại mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không được gọi là lạm phát. Tuy nhiên, trong thực tế mỗi cú sốc thường có ảnh hưởng kéo dài đối với nền kinh tế và do đó có thể gây ra lạm phát. Chúng ta sẽ xét một tình huống như được mô tả trong Bảng 6.1. Trong mỗi trường hợp, chúng ta giả thiết chỉ có một cú sốc xuất hiện vào thời kỳ 3 mà trước đó mức giá được ổn định ở mức 100. Trong trường hợp thứ nhất, mức giá tăng 100% trong thời kỳ 3, sau đó giảm 50% trong thời kỳ 4 và lại ổn định trong các thời kỳ tiếp theo. Như vậy, từ thời kỳ 4 giá cả trở lại mức ban đầu giống như trước khi cú sốc tác động đến nền kinh tế. Trong trường hợp thứ hai, mức giá tăng 100% trong thời kỳ 3, sau đó ổn định trong các thời kỳ tiếp theo. Vấn đề trở nên phức tạp hơn trong trường hợp thứ ba, khi mức giá tăng 50% trong thời kỳ 3, sau đó tăng chậm lại trong các thời kỳ tiếp theo do mọi người điều chỉnh một phần theo sai số dự báo về lạm phát. Trong trường hợp này mức giá chung tăng liên tục và gây ra lạm phát kéo dài nhưng giảm dần theo thời gian. Trường hợp 1 Trường hợp 2 Trường hợp 3 Thời kỳ Mức giá Lạm phát Mức giá Lạm phát Mức giá Lạm phát 1 100 100 100 2 100 0 100 0 100 0 3 200 100 200 100 150 50 4 100 -50 200 0 175 16,7 5 100 0 200 0 187,50 7,1 6 100 0 200 0 193,75 3,3 Bảng 6.1 Tác động của một cú sốc đến tỷ lệ lạm phát Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua của đồng tiền Bài 6: Lạm phát 78 NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 Trong thực tế, việc phân biệt được các sự kiện chỉ xảy ra một lần nhưng có ảnh hưởng kéo dài với sự gia tăng liên tục được lặp lại của mức giá trong mỗi thời kỳ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính phủ thường chỉ điều chỉnh chính sách trước các cú sốc kéo dài, còn các mất cân đối tạm thời thường để thị trường tự giải quyết. Trường hợp ngược lại của lạm phát là giảm phát, diễn ra khi mức giá chung liên tục giảm. Khi đó, sức mua của đồng nội tệ liên tục tăng. 6.1.2. Đo lường lạm phát Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định, các nhà thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công thức sau: t t 1 t t 1 P P 100% P      Trong đó: t : tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quí, hoặc năm) Pt : mức giá của thời kỳ t P t-1 : mức giá của thời kỳ trước đó Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết định sử dụng chỉ số giá nào để phản ánh mức giá. Như chúng ta đã biết từ bài học trước, người ta thường sử dụng chỉ số điều chỉnh GDP (D) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung. Tuy nhiên, nếu mục tiêu là xác định ảnh hưởng của lạm phát đến mức sống, thì rõ ràng chỉ số giá tiêu dùng tỏ ra thích hợp hơn. Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát trên toàn thế giới đều được tính trên cơ sở CPI. 6.2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát Điều gì gây ra lạm phát là một câu hỏi phổ biến, song các nhà kinh tế vẫn còn những bất đồng. Có nhiều lý thuyết giải thích về nguyên nhân gây ra lạm phát mà dưới đây chúng ta sẽ giới thiệu những lý thuyết chính. 6.2.1. Trong ngắn hạn Lạm phát do cầu kéo Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá mức tự nhiên. Thực ra đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát dựa vào nguyên nhân gây ra lạm phát: lạm phát được coi là do sự tồn tại của một mức cầu quá cao. Theo lý thuyết này nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực sản xuất. Tuy nhiên để cho định nghĩa này có sức thuyết phục thì cần phải giải thích tại sao chi tiêu lại liên tục lớn hơn mức sản xuất. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét các thành tố của tổng cầu. Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng và đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại. Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan của các nhà đầu tư làm tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên. Bài 6: Lạm phát NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 79 Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức trong các chương trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt giảm các chương trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức giá sẽ giảm. Hình 6.1. Lạm phát do cầu kéo Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu tác động tới lạm phát trong nước theo một cách khác: khi nhu cầu xuất khẩu tăng, lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng lượng tiền cung ứng. Tình hình ngược lại sẽ xảy ra khi nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn nước ngoài chảy vào giảm do nền kinh tế thế giới hay trong khu vực lâm vào suy thoái. Trong đồ thị tổng cung - tổng cầu, lạm phát do cầu kéo xuất hiện khi có sự dịch chuyển sang bên phải của đường tổng cầu. Như minh họa trong hình 6.1, sự gia tăng của một thành tố nào đó của tổng cầu sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang bên phải. Do đường tổng cung dốc lên trong ngắn hạn, nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn và thất nghiệp thấp hơn, nhưng đồng thời lại phải đối mặt với lạm phát. Rõ ràng lạm phát do cầu kéo sẽ không phải là vấn đề mà thực ra còn cần thiết và có lợi cho nền kinh tế nếu như nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa sử dụng như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD1: lạm phát sẽ khá thấp trong khi sản lượng và việc làm sẽ tăng đáng kể. Ngược lại, lạm phát do cầu kéo sẽ trở thành vấn đề thực sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã sử dụng hết và đường tổng cung trở nên rất dốc như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2. Khi đó, sự gia tăng tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao trong khi sản lượng và việc làm tăng lên rất ít. Lạm phát do chi phí đẩy Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Trong đồ thị tổng cung - tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp và lạm phát đều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát đi kèm suy thoái (stagflation). Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Vòng xoáy đi lên của tiền lương và giá cả sẽ tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu chính phủ tìm cách tránh suy thoái bằng cách mở rộng tiền tệ. B A AD1 AS1P P2 AD2 Y* Y2 Y Bài 6: Lạm phát 80 NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ phí bắt buộc) đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá. Nếu so sánh với các nước phát triển là những nước có tỷ lệ thuế trực thu cao, chúng ta có thể nhận định rằng ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn thu từ thuế, thì thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm phát. Hình 6.2. Lạm phát do chi phí đẩy Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu mà nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng (có thể do giá quốc tế thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng nội tệ giảm giá mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm phát sẽ bùng nổ. Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra tác động tổng hợp, làm cho lạm phát có thể tăng tốc. Nếu chính phủ phản ứng quá mạnh thông qua các chính sách thích ứng, thì lạm phát có thể trở nên không kiểm soát được, như tình hình của nhiều nước công nghiệp trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980. Lạm phát ỳ Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các biến danh nghĩa được thanh toán trong tương lai. Hình 6.3. Lạm phát ỳ Lạm phát ỳ xuất hiện là do lạm phát trong quá khứ ảnh hưởng đến kỳ vọng về lạm phát trong tương lai và kỳ vọng này tác động đến tiền lương và giá cả mà mọi người AD0 AS1 AS0 P P1 E0 E1 Y1 Y* Y AD2 AD1 AD0 E2 AS2 AS1 AS0 P P2 E0 E1 Y* Y Bài 6: Lạm phát NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 81 ấn định. Vào thời kỳ lạm phát cao của những năm 1970 ở Mỹ, R. Solow đã nắm bắt chính xác khái niệm lạm phát ỳ và kết luận “Vì sao đồng tiền của chúng ta (nước Mỹ) lại mất giá? Có lẽ chúng ta có lạm phát đơn giản là do chúng ta dự kiến lạm phát và chúng ta dự kiến lạm phát vì chúng ta có nó”. Hình 6.3 cho thấy lạm phát ỳ xảy ra như thế nào. Cả đường tổng cung và đường tổng cầu cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ như nhau. Sản lượng luôn được duy trì ở mức tự nhiên, trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn định theo thời gian. 6.2.2. Trong dài hạn: cách tiếp cận tiền tệ về lạm phát Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa của hiện tượng lạm phát. Tư tưởng cơ bản của các nhà tiền tệ là luận điểm cho rằng lạm phát về cơ bản là hiện tượng tiền tệ. Tuy nhiên, nhiều tác giả khác, ví dụ như Friedman đã đi xa hơn và đề ra một hình thái mạnh hơn của chủ nghĩa tiền tệ. Họ đã chỉ ra mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa cung tiền và lạm phát: "Lạm phát ở đâu và bao giờ cũng là hiện tượng tiền tệ ... và nó chỉ có thể xuất hiện một khi cung tiền tăng nhanh hơn sản lượng"1. Thực ra, kết luận này dựa trên hai điều. Thứ nhất, các nhà tiền tệ cho rằng lạm phát gây ra bởi sự dư thừa tổng cầu so với tổng cung, và nguyên nhân của sự dư cầu này là do có quá nhiều tiền trong lưu thông. Nếu cách giải thích này đúng về mặt lịch sử, thì nó khẳng định rằng lạm phát gây ra bởi sức ép từ phía cầu, chứ không phải từ phía cung. Thứ hai, các nhà tiền tệ giả thiết rằng mối quan hệ nhân quả bắt nguồn từ cung ứng tiền đến mức giá, chứ không phải ngược lại là giá cả tăng lên làm tăng lượng tiền cung ứng. Để hiểu mối quan hệ đó chúng ta phải xem xét cơ chế lan truyền. Với giả thiết về thị trường cân bằng, và bắt đầu từ vị trí cân bằng trên thị trường tiền tệ, khi đó sự gia tăng trong cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự mất cân bằng trên thị trường tiền tệ. Để thiết lập trạng thái cân bằng, một phần của số tiền dư thừa được dùng để mua hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, vì số lượng hàng hoá và dịch vụ được qui định bởi các nguồn lực khan hiếm trong nền kinh tế, do đó xuất hiện dư cầu trên thị trường hàng hoá. Điều này, đến lượt nó sẽ gây áp lực làm giá cả tăng lên để thiết lập trạng thái cân bằng mới trên thị trường hàng hoá. Trong mô hình tổng cung - tổng cầu, sự gia tăng cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự dịch chuyển sang bên phải của đường tổng cầu và làm tăng mức giá do đường tổng cung thẳng đứng trong dài hạn. Điểm khởi đầu cho lý thuyết số lượng là quan sát cho thấy dân cư giữ tiền chủ yếu để mua hàng hóa và dịch vụ. Giả sử Y là mức sản lượng mà nền kinh tế tạo ra trong một năm và P là giá của một đơn vị sản lượng điển hình, khi đó số đồng được trao đổi trong năm bằng P.Y. Vì tiền trao tay khi giao dịch, chúng ta có thể sử dụng thông tin này 1Friedman, M. (1970) 'The Counter-Revolution in Monetary Theory', Institute of Economic Affair, Accasioanl Paper, No 33. Thừa tổng cầu so với tổng cung Bài 6: Lạm phát 82 NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 để dự đoán số lần mà một tờ giấy bạc điển hình trao tay trong năm. Nếu chúng ta ký hiệu V là tốc độ chu chuyển, tức là số lần trung bình mà một tờ giấy bạc điển hình được sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ trong một năm, và M là cung tiền, thì số đơn vị tiền tệ trao đổi trong năm cần phải bằng M.V. Do vậy, chúng ta có đồng nhất thức: M.V = P.Y Đó là phương trình số lượng, bởi vì nó phản ánh mối quan hệ giữa lượng tiền cung ứng (M) và GDP danh nghĩa (P.Y). Phương trình số lượng cho thấy sự gia tăng lượng tiền trong nền kinh tế phải được phản ánh ở một trong ba biến số khác: mức giá phải tăng, sản lượng phải tăng, hoặc tốc độ chu chuyển tiền tệ phải giảm. Nhìn chung, tốc độ chu chuyển tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian. Khi đó, lạm phát (P tăng) chỉ có thể xảy ra khi lượng tiền cung ứng (M) tăng nhanh hơn sản lượng (Y): tốc độ tăng cung tiền càng cao thì tỷ lệ lạm phát càng cao (khi các nhân tố khác không thay đổi). Đồng thời, các biện pháp chính sách mà một nước cần thực hiện để giảm lạm phát chính là cắt giảm tốc độ cung ứng tiền tệ. Như vậy, theo quan điểm này, chính sách tiền tệ sẽ là chính sách then chốt nhằm kiểm soát lạm phát; và chính sách tài khoá cũng có thể ảnh hưởng đến lạm phát bởi vì thâm hụt ngân sách của chính phủ có xu hướng làm tăng cung tiền. Hình 6.4. Tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng cung tiền (M2) hàng năm ở Việt Nam, 1987-2010 Hình 6.4 sử dụng số liệu tăng tiền và tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Việt Nam từ năm 1987 đến năm 2010. Số liệu này xác minh mối tương quan dương giữa tỷ lệ tăng tiền và tỷ lệ lạm phát. Những năm Việt Nam có tỷ lệ tăng cung tiền cao có xu hướng đi kèm với lạm phát cao, còn những năm có tỷ lệ tăng cung tiền thấp có xu hướng đi kèm với lạm phát thấp. 6.3. Tác động của lạm phát 6.3.1. Chi phí của lạm phát Tại sao người dân lại không thích lạm phát? Nếu như thu nhập danh nghĩa luôn tăng cùng với mức giá, thì thu nhập thực tế giữ nguyên không thay đổi. Song điều này thường khó xảy ra. Tính chất của lạm phát có ảnh hưởng quan trọng đến tổn thất mà lạm phát gây ra cho xã hội. Theo tính chất người ta phân biệt lạm phát được dự tính trước và lạm phát không được dự tính trước. Bài 6: Lạm phát NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 83 Đối với lạm phát được dự tính trước Lạm phát hoàn toàn được dự tính trước là trường hợp lạm phát xảy ra đúng như dự tính từ trước của các tác nhân kinh tế. Trong trường hợp này, mọi khoản vay, tiền lương cũng như hợp đồng về các biến danh nghĩa khác nhìn chung được điều chỉnh thích ứng với tốc độ trượt giá. Loại lạm phát này gây ra những tổn thất gì cho xã hội? Thứ nhất, lạm phát hoạt động giống như một loại thuế đánh vào những người giữ tiền và được gọi là thuế lạm phát. Tuy nhiên chúng ta cần thận trọng phân biệt thuế lạm phát với thuế đúc tiền. Như chúng ta đã biết thâm hụt ngân sách xảy ra khi chính phủ chi nhiều hơn thu nhập từ thuế. Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng đi vay hoặc in tiền. Tương tự như thuế, tiền mới phát hành cũng là một nguồn thu của chính phủ bởi vì chi phí phát hành tiền mới rất nhỏ, trong khi chính phủ có thể sử dụng số tiền đó để mua hàng hóa và dịch vụ. Thu nhập mà chính phủ nhận được bằng cách in tiền được gọi là thuế đúc tiền. Tuy nhiên, một số người phải trả cho khoản thu nhập đó của chính phủ. Thực ra, khi in tiền mới, chính phủ đã đánh thuế lạm phát. Lượng tiền được cung ứng nhiều hơn thường gây ra lạm phát và do đó làm giảm giá trị của những đồng tiền đang lưu hành. Có một điều chúng ta cần nhận thức đúng là bản thân thuế không phải là chi phí đối với xã hội, nó chỉ là sự chuyển giao nguồn lực từ các hộ gia đình sang cho chính phủ. Nhưng kinh tế học vi mô lại chỉ ra rằng hầu hết các loại thuế đều làm cho mọi người có động cơ thay đổi hành vi để tránh thuế và gây biến dạng các kích thích này làm cho xã hội bị tổn thất. Giống như các loại thuế khác, thuế lạm phát cũng gây ra tổn thất cho xã hội bởi vì mọi người lãng phí nguồn lực khan hiếm khi tìm cách tránh thuế. Lạm phát làm tăng lãi suất danh nghĩa, và do đó làm giảm cầu tiền. Nếu bình quân mọi người giữ ít tiền hơn, họ cần đến ngân hàng thường xuyên hơn để rút tiền. Sự bất tiện của việc giữ ít tiền hơn tạo nên chi phí mòn giày, vì việc đến ngân hàng nhiều hơn làm cho “giày” của bạn chóng mòn hơn. Tuy nhiên, không nên hiểu khoản chi phí này theo nghĩa đen của nó: chi phí thực tế mà bạn bỏ ra để giữ ít tiền hơn không chỉ ở chỗ giày của bạn nhanh mòn, mà là thời gian và sự tiện lợi mà bạn phải hy sinh khi giữ ít tiền hơn – cái mà bạn không phải trả khi không có lạm phát.  Thứ hai, lạm phát gây ra chi phí thực đơn. Đó là những chi phí phát sinh do các doanh nghiệp có thể phải gửi các catalog mới cho khách hàng, phân phối bảng giá mới cho nhân viên bán hàng của mình, các hiệu ăn cũng phải thay đổi thực đơn mới, khi giá cả thay đổi. Việc này đôi khi cũng tốn kém.  Thứ ba, lạm phát có thể tạo ra những thay đổi không mong muốn trong giá tương đối. Giả sử một doanh nghiệp có phát hành catalog chỉ thay đổi giá cả mỗi năm một lần do phát sinh chi phí liên quan đến việc in và phân phối catalog, và giả sử các doanh nghiệp khác thay đổi giá cả thường xuyên hơn. Nếu trong năm các doanh nghiệp khác tăng giá bán cho các sản phẩm của họ, thì giá tương đối của sản phẩm do doanh nghiệp phát hành catalog sẽ giảm. Như chúng ta đã biết kinh tế vi mô nhấn mạnh đến vai trò của giá tương đối trong việc phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả. Trong chừng mực mà lạm phát gây ra sự thay đổi giá cả không Thuế lạm phát Bài 6: Lạm phát 84 NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 đều và do đó làm méo mó giá tương đối, thì sức mạnh của thị trường tự do sẽ bị hạn chế. Sự phân bổ sai lệch này cũng cần được hiểu là nội dung truyền đạt thông tin của giá cả bị suy yếu.  Thứ tư, lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân thường trái với ý định của những người làm luật. Trên thực tế, luật thuế thường không tính đến tác động của lạm phát, và do vậy khi thu nhập danh nghĩa tăng, mọi người sẽ phải nộp mức thuế cao hơn, ngay cả khi thu nhập thực tế của họ không thay đổi và do vậy làm giảm thu nhập khả dụng của họ. Điều này không khuyến khích mọi người làm nhiều, làm tốt và làm hiệu quả. Lạm phát có ảnh hưởng chủ yếu đến hai loại thuế đánh vào thu nhập từ tiết kiệm: o Tiền lãi vốn là thu nhập có được từ việc bán một tài sản cao hơn giá mua. Lãi vốn danh nghĩa là đối tượng chịu thuế. Giả sử bạn mua một cổ phiếu giá 20 đồng và bán nó với giá 50 đồng. Nếu mức giá tăng gấp đôi trong thời gian sở hữu cổ phiếu đó, thì bạn chỉ thu được một khoản lãi về vốn thực tế là 10 đồng (bởi vì thực ra bạn phải bán cổ phiếu với giá 40 đồng thì mới hòa vốn), nhưng bạn phải đóng thuế trên khoản thu nhập danh nghĩa là 30 đồng, vì luật thuế không tính đến lạm phát. o Tiền lãi danh nghĩa cũng bị đánh thuế, cho dù một phần tiền lãi danh nghĩa đơn thuần chỉ để bù đắp lạm phát. Khi chính phủ đánh thuế theo một tỷ lệ phần trăm cố định của tiền lãi danh nghĩa, thì tiền lãi suất thực tế sau thuế vẫn giảm trong điều kiện có lạm phát ngay cả khi lãi suất danh nghĩa được điều chỉnh hoàn hảo theo lạm phát. Chẳng hạn, chính phủ đánh thuế 30% thu nhập từ tiền lãi. Nếu ban đầu, lãi suất danh nghĩa là 10% và tỷ lệ lạm phát là 5%, thì lãi suất thực tế trước thuế là 5% và lãi suất thực tế sau thuế là 2% [=(1-0,3)10% - 5%]. Sau đó, giả sử tỷ lệ lạm phát tăng lên 10% và lãi suất danh nghĩa được điều chỉnh hoàn toàn theo lạm phát lên 15% để duy trì lãi suất thực tế trước thuế không thay đổi. Tuy nhiên, bây giờ lãi suất thực tế sau thuế giảm xuống chỉ còn 0,5 % [=(1-0,3)15% - 10%]. Bởi vì thuế đánh trên lãi vốn danh nghĩa và tiền lãi danh nghĩa, cho nên lạm phát làm giảm lợi tức thực tế sau thuế cho các khoản tiết kiệm và vì vậy lạm phát không khuyến khích tiết kiệm và không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách đưa lạm phát ra khỏi hệ thống thuế hoặc áp dụng chỉ số trượt giá trong hệ thống thuế sao cho thuế chỉ còn đánh vào thu nhập thực tế.  Cuối cùng, lạm phát gây ra sự nhầm lẫn và bất tiện. Hãy tưởng tượng rằng chúng ta tiến hành thăm dò ý kiến và đặt ra cho mọi người câu hỏi sau: “Hiện tại 1 m bằng 100 cm. Theo bạn, năm tới 1 m nên có độ dài bao nhiêu?” Giả sử mọi người đều trả lời một cách nghiêm túc, thì chắn chắn họ sẽ nói với chúng ta là độ dài của 1 m năm tới vẫn nên bằng 100 cm. Cách làm khác chỉ phức tạp hoá vấn đề một cách không cần thiết. Bài 6: Lạm phát NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 85 Phát hiện này có gì liên quan đến lạm phát? Chúng ta đã biết tiền là đơn vị hạch toán, tức tiền là cái mà chúng ta sử dụng để niêm yết giá và ghi các khoản nợ. Nói cách khác, tiền là thước đo mà chúng ta sử dụng để đo lường các giao dịch kinh tế. Nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tương tự công việc của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường ở chỗ là đảm bảo tính tin cậy của đơn vị đo lường được sử dụng phổ biến. Khi Ngân hàng Nhà nước tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát, nó làm méo mó giá trị thực tế của đơn vị hạch toán. Thật là khó có thể tính toán được tác hại của sự nhầm lẫn và bất tiện gắn với lạm phát. Trên đây chúng ta đã thảo luận việc các luật thuế đo lường sai thu nhập như thế nào khi nền kinh tế có lạm phát. Điều đó cũng giống như các nhà kế toán tính sai các khoản thu nhập của doanh nghiệp khi giá cả thay đổi theo thời gian. Vì lạm phát làm cho đồng tiền có sức mua không giống nhau vào các thời điểm khác nhau, nên việc tính toán lợi nhuận của công ty - phần chênh lệch giữa các khoản thu và chi phí - sẽ phức tạp hơn khi nền kinh tế có lạm phát. Do vậy, trong một chừng mực nào đó, lạm phát làm cho các nhà đầu tư khó phân biệt giữa các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và kết quả là cản trở thị trường tài chính trong trong việc phân bổ một cách hiệu quả các khoản tiết kiệm của nền kinh tế cho các dự án đầu tư. Đối với lạm phát không được dự tính trước Chúng ta đã thảo luận về những tác hại của lạm phát xảy ra ngay cả khi lạm phát ổn định và được dự tính trước. Tuy nhiên, lạm phát có một tác hại nữa khi nó xảy ra khác với dự tính từ trước của các cá nhân trong nền kinh tế. Lạm phát không được dự tính trước dẫn đến sự phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong xã hội không theo nỗ lực, cống hiến và nhu cầu của họ. Xét các hợp đồng tín dụng dài hạn. Các hợp đồng tín dụng thường qui định mức lãi suất danh nghĩa dựa trên tỷ lệ lạm phát dự tính. Khi tỷ lệ lạm phát thực tế khác với tỷ lệ lạm phát dự tính thì lãi suất thực tế thực hiện và lãi suất thực tế dự tính cũng khác nhau. Nếu tỷ lệ lạm phát thực tế lớn hơn tỷ lệ lạm phát dự tính, thì lãi suất thực tế thực hiện thấp hơn lãi suất thực tế dự tính. Điều đó có nghĩa người tiết kiệm có thu nhập thấp hơn dự tính ban đầu, trong khi người đi vay trả vốn gốc và tiền lãi bằng những đồng tiền kém giá trị hơn so với dự tính ban đầu. Điều đó hàm ý có sự phân phối lại của cải từ người cho vay sang người đi vay. Người đi vay sẽ được lợi, còn người cho vay sẽ bị tổn thất. Sự phân phối lại diễn ra theo chiều hướng ngược lại khi tỷ lệ lạm phát thực tế thấp hơn tỷ lệ lạm phát dự tính. Lạm phát không được dự tính trước còn gây tổn thất cho những người nhận thu nhập danh nghĩa cố định hoặc có thu nhập danh nghĩa chậm được điều chỉnh theo lạm phát. Công nhân và doanh nghiệp thường thoả thuận về mức lương danh nghĩa trong các hợp đồng lao động dài hạn dựa trên kỳ vọng về lạm phát. Do vậy, công nhân sẽ bị tổn thất khi lạm phát cao hơn mức dự kiến, ngược lại các doanh nghiệp lại bị tổn thất khi lạm phát thấp hơn mức dự kiến. Trên thực tế, lạm phát cao thường có xu hướng biến động mạnh và khó dự đoán trước, gây ra những bất trắc và rủi ro cho các hoạt động tiết kiệm và đầu tư dài hạn, và do đó Bài 6: Lạm phát 86 NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy ổn định lạm phát ở mức thấp là một mục tiêu quan trọng của điều tiết vĩ mô. 6.3.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp Vào năm 1958, nhà kinh tế A. W. Phillips cho đăng một bài báo với tiêu đề “Mối quan hệ giữa thất nghiệp và tỷ lệ thay đổi tiền lương danh nghĩa ở Anh, 1861-1957” trong tờ tạp chí Kinh tế học của Anh. Ông phát hiện thấy mối tương quan ngược chiều giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát tiền lương. Nghĩa là, những năm nước Anh có thất nghiệp thấp thì tiền lương thường tăng nhanh và ngược lại. Mặc dù phát hiện của Phillips dựa vào số liệu thực nghiệm của nước Anh, nhưng các nhà nghiên cứu đã nhanh chóng mở rộng phát hiện của ông sang các nước khác. Hai năm sau khi Phillips công bố công trình nghiên cứu của mình, Paul Samuelson và Robert Solow cho đăng bài “Các phân tích về chính sách chống lạm phát” trên tờ Điểm báo Kinh tế Mỹ, trong đó họ đã chỉ ra mối quan hệ tương tự giữa lạm phát và thất nghiệp dựa trên số liệu của Mỹ. Họ lập luận rằng mối tương quan này nảy sinh là vì thất nghiệp thấp gắn với tổng cầu cao, đồng thời tổng cầu cao lại tạo áp lực đẩy tiền lương và giá cả tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Samuelson và Robert Solow đã gọi mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp là đường Phillips. Hình 6.5 là một ví dụ về đường Phillips. Hình 6.5 Đường Phillips. Đường Phillips đặc biệt hấp dẫn các nhà hoạch định chính sách bởi vì dường như nó cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách một thực đơn về các kết cục kinh tế có thể xảy ra. Bằng cách thay đổi chính sách tiền tệ và tài khoá để tác động vào tổng cầu, các nhà hoạch định chính sách có thể chọn một điểm bất kỳ trên đường Phillips. Điểm A có thất nghiệp cao và lạm phát thấp. Điểm B có thất nghiệp thấp và lạm phát cao. Các nhà hoạch định chính sách có thể muốn cả thất nghiệp và lạm phát đều thấp, nhưng đường Phillips chỉ ra rằng một kết hợp như vậy không thể xảy ra. Điều này hàm ý các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Việc điều tiết tổng cầu thông qua các chính sách tài khoá và tiền tệ đơn giản chỉ làm nền kinh tế trượt dọc trên một đường Phillips xác định. Ví dụ, bằng cách sử dụng các chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng các nhà hoạch định chính sách có thể cắt giảm được thất nghiệp nhưng phải chấp nhận lạm phát cao hơn. Ngược lại, các chính sách tài khoá và tiền tệ thắt chặt sẽ cho phép cắt giảm được lạm phát nhưng đồng thời phải chấp nhận thất nghiệp cao hơn. Như vậy, các chính sách quản lý tổng Tỷ lệ thất nghiệp, U 0 Tỷ lệ lạm phát,  4 B 6 A 7 2 Đường Phillips Bài 6: Lạm phát NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 87 cầu có thể được sử dụng để lựa chọn một điểm trên đường Phillips, nhưng những chính sách như vậy dường như không thể cải thiện được sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp hàm chứa trong đường Phillips. Tổng cầu, tổng cung và Đường Phillips Mô hình tổng cầu và tổng cung đem lại một cách giải thích dễ dàng cho thực đơn về các kết cục có thể xảy ra mà đường Phillips mô tả. Đường Phillips chỉ ra các kết hợp giữa lạm phát và thất nghiệp xuất hiện trong ngắn hạn khi đường tổng cầu dịch chuyển, làm cho nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cung ngắn hạn. Như chúng ta biết, sự gia tăng tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ dẫn đến sản lượng và mức giá cao hơn trong ngắn hạn. Sản lượng lớn hơn hàm ý việc làm nhiều hơn và do đó tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn. Ngoài ra, mức giá trong năm hiện tại càng cao thì tỷ lệ lạm phát sẽ càng cao cho dù mức giá năm trước là bao nhiêu đi chăng nữa. Như vậy, sự dịch chuyển của đường tổng cầu đẩy lạm phát và thất nghiệp biến động theo các hướng ngược nhau trong ngắn hạn - tức mối quan hệ ngược chiều như được minh họa bằng đường Phillips. Để hiểu rõ hơn tại sao lại như vậy, chúng ta hãy xem xét một ví dụ. Để đơn giản, chúng ta giả sử mức giá (ví dụ tính bằng chỉ số giá tiêu dùng) bằng 100 trong năm 2010. Hình 6.6 chỉ ra hai mức sản lượng có khả năng xảy ra trong năm 2011. Phần (a) nêu ra hai kết cục được xác định bằng mô hình tổng cung-tổng cầu. Phần (b) vẫn minh họa cho hai kết cục đó, nhưng bằng đường Phillips. Hình 6.6 Đường Phillips và mô hình tổng cung và tổng cầu. Trong phần (a), chúng ta có thể thấy các hàm ý đối với sản lượng và mức giá trong năm 2011. Nếu tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ tương đối thấp, nền kinh tế đạt cân bằng tại A với sản lượng là 500 và mức giá là 105. Ngược lại nếu tổng cầu tương đối cao, nền kinh tế đạt cân bằng tại B có sản lượng bằng 600 và mức giá bằng 108. Như vậy, mức tổng cầu cao hơn chuyển nền kinh tế đến điểm cân bằng có sản lượng và mức giá cao hơn. Trong phần (b), chúng ta có thể thấy những kết quả này có hàm ý gì đối với mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát. Bởi vì doanh nghiệp cần nhiều công nhân hơn để tạo ra nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn, nên thất nghiệp thấp hơn ở B so với A. Trong ví dụ này, khi sản lượng tăng từ 500 lên 600, thất nghiệp giảm từ 7% xuống 4%. Hơn nữa, do mức PC 0 (b) Đường Phillips  (%) U (%) 0 (a) Mô hình AS-AD P AD thấp AD cao AS B 600 Y 108 (U = 4%) A 500 105 (U = 7%) B 4 8 (Y= 500) A 7 5 (Y=600) Bài 6: Lạm phát 88 NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 giá cao hơn ở B so với A, nên tỷ lệ lạm phát (phần trăm thay đổi trong mức giá so với năm trước) cũng cao hơn. Cụ thể, do mức giá là 100 trong năm 2010, tại A có tỷ lệ lạm phát 5% và tại B có tỷ lệ lạm phát 8%. Như vậy, chúng ta có thể so sánh hai phương án có thể xảy ra của nền kinh tế cả về sản lượng và mức giá (khi dùng mô hình tổng cầu và tổng cung) hoặc về thất nghiệp và lạm phát (khi sử dụng đường Phillips). Như chúng ta đã thấy trong bài trước, chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm dịch chuyển đường tổng cầu. Do đó, chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm di chuyển nền kinh tế dọc theo đường Phillips. Chính sách tăng cung tiền, tăng chi tiêu chính phủ và cắt giảm thuế làm mở rộng tổng cầu và di chuyển nền kinh tế lên phía trên đường Phillips có thất nghiệp thấp hơn và lạm phát cao hơn. Chính sách cắt giảm cung tiền, cắt giảm chi tiêu chính phủ, hoặc tăng thuế làm thu hẹp tổng cầu và di chuyển nền kinh tế xuống phía dưới đường Phillips có thất nghiệp cao hơn và lạm phát thấp hơn. Theo cách này, đường Phillips đưa ra cho các nhà họach định chính sách một thực đơn về các kết hợp giữa lạm phát và thất nghiệp. Đường Phillips dài hạn Phân tích ở trên cho thấy lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ đánh đổi trong ngắn hạn khi nền kinh tế trải qua những thay đổi trong tổng cầu. Vậy thì điều gì xảy ra với mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong dài hạn. Như chúng ta đã biết đường tổng cung thẳng đứng trong dài hạn. Từ đây, chúng ta dễ ràng chứng minh đường Phillips dài hạn (PCLR) cũng thẳng đứng. Trong phần (a) của hình 6.7, sự gia tăng cung tiền làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải, từ AD1 đến AD2. Kết quả của sự dịch chuyển này là trạng thái cân bằng dài hạn chuyển từ điểm A đến điểm B. Mức giá tăng từ P1 đến P2, nhưng vì đường tổng cung thẳng đứng, nên sản lượng không thay đổi. Trong phần (b), sự gia tăng nhanh hơn trong cung tiền làm tăng tỷ lệ lạm phát bằng cách chuyển nền kinh tế từ điểm A đến điểm B. Nhưng vì đường Phillips thẳng đứng, nên tỷ lệ thất nghiệp tại hai điểm này bằng nhau và đều ở mức tự nhiên. Hình 6.7: Đường Phillips dài hạn gắn với mô hình tổng cầu và tổng cung như thế nào. Như vậy, cả đường tổng cung dài hạn thẳng đứng và đường Phillips dài hạn thẳng đứng đều hàm ý rằng trong dài hạn chính sách tiền tệ chỉ tác động đến các biến danh nghĩa (mức giá và tỷ lệ lạm phát), nhưng không tác động tới các biến thực tế (sản lượng và thất nghiệp). Cho dù ngân hàng trung ương theo đuổi chính sách tiền tệ nào, thì sản lượng và tỷ lệ thất nghiệp trong dài hạn vẫn ở mức tự nhiên của chúng. U* PCLR 0 (b) Đường Phillips A Y* 0 P1 AD1 ASLR (a) Mô hình tổng cung – tổng cầu Y U P2 AD2 P B  B A 2 Bài 6: Lạm phát NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 89 Tóm lược cuối bài  Lạm phát xảy ra khi mức giá chung tăng lên. Ngược lại, nền kinh tế có giảm phát khi mức giá chung giảm xuống. Ngày nay, chúng ta tính toán lạm phát bằng cách sử dụng chỉ số giá. Hai chỉ số giá được sử dụng rộng rãi để đo lường mức giá chung là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP.  Lạm phát trong mỗi thời kỳ có xu hướng dao động xung quanh một mức nhất định, đó chính là tỷ lệ lạm phát ỳ hay tỷ lệ lạm phát dự kiến. Đó là tỷ lệ lạm phát mà mọi người đã dự đoán trước và được đưa vào trong các hợp đồng lao động và các thỏa thuận khác.  Trong thực tế, các cú sốc cung và cầu thường xuyên tác động đến nền kinh tế, đẩy nền kinh tế trệch khỏi thế cân bằng dài hạn và lạm phát trệch khỏi mức dự tính. Lạm phát do cầu kéo xuất hiện là do tổng cầu tăng lên, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá mức tự nhiên. Lạm phát do chi phí đẩy là một hiện tượng mới của các nền kinh tế hiện đại, xuất hiện là do chi phí sản xuất tăng và kết quả là nền kinh tế trải qua đồng thời cả lạm phát và suy thoái.  Trong dài hạn lạm phát về cơ bản là hiện tượng tiền tệ: lạm phát chỉ xảy ra khi lượng tiền cung ứng tăng nhanh hơn sản lượng thực tế. Do đó, biện pháp cơ bản và lâu dài để chống lạm phát là kiểm soát tốc độ tăng cung ứng tiền tệ.  Rất nhiều người nghĩ rằng lạm phát làm cho họ trở nên nghèo hơn vì nó làm tăng giá hàng hoá mà họ mua. Tuy nhiên, quan niệm như vậy là sai lầm vì lạm phát thường cũng làm tăng thu nhập danh nghĩa.  Các nhà kinh tế đã chỉ ra 6 tác hại của lạm phát: chi phí mòn giày liên quan đến việc cắt giảm lượng tiền nắm giữ; chi phí thực đơn liên quan đến việc điều chỉnh giá thường xuyên hơn; làm tăng sự biến động của giá tương đối; làm tăng gánh nặng thuế vì luật thuế không áp dụng chỉ số trượt giá; gây ra sự nhầm lẫn và bất tiện phát sinh từ sự thay đổi đơn vị hạnh toán; và tái phân phối của cải một cách tuỳ tiện giữa người đi vay và người cho vay. Trong thời kỳ siêu lạm phát, đa số các chi phí này lớn, nhưng qui mô của các chi phí này không rõ ràng lắm khi lạm phát ở mức vừa phải.  Đường Phillips mô tả mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp. Bằng cách mở rộng tổng cầu, các nhà hoạch định chính sách có thể chọn một điểm trên đường Phillips có lạm phát cao hơn và thất nghiệp thấp hơn. Bằng cách thu hẹp tổng cầu, các nhà hoạch định chính sách có thể chọn một điểm trên đường Phillips có lạm phát thấp hơn và thất nghiệp cao hơn. Bài 6: Lạm phát 90 NEU_ECO102_Bai6_v1.0013101216 Câu hỏi ôn tập 1. Lạm phát là gì? Hãy cho biết cách tính tỷ lệ lạm phát? 2. Hãy giải thích các nguyên nhân gây ra lạm phát trong ngắn hạn? 3. Hãy giải thích nguồn gốc của lạm phát theo cách tiếp cận tiền tệ? 4. Nêu những tổn hại của lạm phát trong trường hợp được dự kiến trước và không được dự kiến trước? 5. Hãy vẽ đường Phillips biểu thị sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp. Liệu chính phủ có thể chuyển nền kinh tế từ điểm này đến điểm khác trên đường đó không? 6. Hãy vẽ đồ thị biểu diễn sự đánh đổi dài hạn giữa lạm phát và thất nghiệp. Hãy cho biết sự đánh đổi ngắn hạn và dài hạn có liên quan với nhau như thế nào?

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftai_lieu_lam_phat.pdf
Tài liệu liên quan