KẾT LUẬN
Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-Hye lên cầm quyền vào năm 2013, khi nền kinh
tế Hàn Quốc trong bối cảnh toàn cầu, đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức. Để nền kinh tế Hàn Quốc vượt qua được trở ngại và phát triển mạnh, Hàn
Quốc cần chuyển đổi mô hình kinh tế từ nền kinh tế định hướng huớng xuất khẩu sang
nền kinh tế sáng tạo vì nếu chỉ dựa vào mô hình tăng trưởng cũ, quốc gia này sẽ đạt
đến ngưỡng giới hạn và không tăng trưởng hơn nữa.
Nền kinh tế sáng tạo, theo quan điểm của Tổng thống Park, là nền kinh tế được
thách thức bởi sự hội tụ của KH&CN với ngành công nghiệp, sự kết hợp của văn hóa
với ngành công nghiệp và sự thăng hoa của đổi mới sáng tạo. Nền kinh tế sáng tạo
vượt ra ngoài sự mở rộng đơn thuần của các thị trường hiện có, tạo lập thị trường mới
và tạo việc làm trên cơ sở của sự hội tụ.40
Để thực hiện chuyển đổi sang nền kinh tế sáng tạo, chính quyền của Tổng thống
Park đã đặt ra ba mục tiêu, sáu chiến lược và hai tư nhiệm vụ rất cụ thể, chi tiết. Thực
sự, đây là những định hướng rất tốt, kết hợp chính phủ, doanh nghiệp tạo thành hệ
sinh thái kinh tế sáng tạo như Tổng thống Park Geun-Hye kỳ vọng.
Ngoài ra, để hiện thực hóa nền kinh tế sáng tạo, Hàn Quốc phải thực hiện một loạt
các cải cách nhằm thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế của quốc gia về trung hạn
bằng cách tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao năng suất. Các cải cách cơ cấu sẽ làm
tăng GDP khoảng 1,25% sau 5 năm và 2,5% sau 10 năm. Trong khi khoảng 2/3 tác
động bắt nguồn từ những lợi ích mà năng suất mang lại, thì việc làm cũng được dự báo
sẽ tăng khoảng 100.000 việc làm sau 5 năm (0,4% lực lượng lao động năm 2014) và
khoảng 180.000 việc làm sau 10 năm.
Một số cải cách cơ cấu theo khuyến nghị nếu được thực thi, sẽ thu hẹp khoảng cách
bất bình đẳng thu nhập giữa hộ gia đình. Ví dụ, trình độ học vấn cao và nỗ lực trau dồi
kỹ năng mở ra cho người lao động nhiều cơ hội việc làm và cũng làm giảm bất công
trong chi trả lương. Bên cạnh đó, việc giảm tính hai mặt của thị trường lao động sẽ hạn
chế tình trạng chênh lệch thu nhập giữa lao động thường xuyên và lao động không
thường xuyên, trong khi đó phụ nữ tham gia làm việc toàn bộ thời gian sẽ làm giảm
bất bình đẳng thu nhập giữa các giới.
40 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Mô hình nền kinh tế sáng tạo của Hàn Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớn tuổi. Việc
loại bỏ tính hai mặt của trường lao động là yếu tố cốt lõi để tăng số lượng
việc làm giữa các nhóm này, đồng thời thúc đẩy sự gắn kết xã hội. Tỷ lệ lao
động nữ là 21 điểm phần trăm thấp hơn lao động nam, có sự cách biệt lớn
nhất trong OECD. Việc tiếp tục đầu tư để nâng cao chất lượng và khả năng
tiếp cận các dịch vụ chăm sóc trẻ em, có thể tác động đặc biệt lớn đến sự
tham gia của phụ nữ vào thị trường lao động.
Các ưu tiên chính sách cho nền kinh tế sáng tạo của Hàn Quốc bao gồm:
1. Đẩy mạnh ĐMST
Năm 2013, Tổng thống Park đưa ra sáng kiến nền "kinh tế sáng tạo" với mục tiêu
tạo việc làm và thị trường mới thông qua ĐMST nhằm củng cố vị trí là nền kinh tế
sáng tạo dẫn đầu toàn cầu và khuyến khích tính sáng tạo trong xã hội Hàn Quốc.
Theo phương thức tự nhiên, việc tăng đối đa tiềm năng của nền kinh tế sáng tạo
Hàn Quốc bao gồm nâng cao năng lực KH&CN, thu được những lợi ích của nền
kinh tế số, đẩy mạnh đổi mới xanh và khắc phục hạn chế về năng suất thấp trong
khu vực dịch vụ. Nhóm các khuyến nghị này được đánh giá sẽ làm tăng 0,2% GDP
trong 5 năm và 0,4% trong 10 năm.
- Lấy KH&CN làm đòn bẩy cho ĐMST và tăng trưởng
Hiện nay, Hàn Quốc là nước đầu tư cho NC&PT nhiều thứ hai thế giới sau Israel
với tỷ lệ đầu tư NC&PT chiếm 4,15% GDP (năm 2013), mặc dù có nhiều đặc điểm
24
của một hệ thống đổi mới phát triển cao. Kế hoạch cơ bản về KH&CN lần thứ 3
(2013-2017) đã đề ra lộ trình của Chính phủ về sự thịnh vượng kinh tế và phúc lợi
công thông qua KH&CN. Kế hoạch cơ bản cũng tìm cách đa dạng hóa nền kinh tế
Hàn Quốc bằng định hướng chính sách theo phạm vi lĩnh vực và công nghệ. Hơn
nữa, sáng kiến nền "kinh tế sáng tạo" nhấn mạnh vai trò của ĐMST trong việc giải
quyết những thách thức xã hội (như bất bình đẳng và thất nghiệp gia tăng, xã hội
già hóa nhanh và các vấn đề môi trường nổi cộm). Tuy nhiên, để đạt được những
mục tiêu chiến lược, một số thách thức trong hệ thống KH&CN và ĐMST của Hàn
Quốc cần được giải quyết. Trong những thập kỷ gần đây, Hàn Quốc vẫn tiếp tục
xây dựng năng lực KH&CN và ĐMST.
Trong khi chi công của Hàn Quốc cho NC&PT ở mức cao, vẫn có một số trường
đại học đẳng cấp thế giới và tạo ra các ẩn phẩm có tác động lớn theo các tiêu chuẩn
của OECD. Nguyên nhân là do hệ thống nghiên cứu công trước đây đã nghiêng về
nghiên cứu ứng dụng và định hướng phát triển, chủ yếu do các viện nghiên cứu của
Chính phủ (GRI) thực hiện. Mặc dù chính phủ cam kết tăng chi công cho NC&PT
lên mức 92,4 Won (6,2% GDP năm 2014) trong 5 năm, nhưng quan trọng là phải
áp dụng các bước để cải thiện hiệu quả đầu tư công, bao gồm tăng cường nghiên
cứu cơ bản và cải cách hệ thống đánh giá hiệu quả hoạt động của các chương trình
NC&PT quốc gia.
Các GRIs và trường đại học rất tích cực xin cấp sáng chế cho các kết quả nghiên
cứu của họ. Tuy nhiên, liên kết giữa ngành công nghiệp và trường đại học trước
đây còn lỏng lẻo và cần tăng cường mối liên kết này để cải thiện hoạt động chuyển
giao và thương mại hóa công nghệ. Vì vậy, cần xây dựng một hệ sinh thái cho hợp
tác giữa các GRI, trường đại học và ngành công nghiệp để thúc đẩy các doanh
nghiệp áp dụng kết quả NC&PT công trên diện rộng vì mục đích xã hội. Các sáng
kiến hiện nay như chương trình hỗ trợ trao đổi chuyên gia giữa các trường đại học
và GRI và kế hoạch thành lập một số trung tâm NC&PT chung của ngành công
nghiệp, trường đại học và GRI cũng mang lại lợi ích về phương diện này. Bên cạnh
đó, cũng cần phải tái định hướng nghiên cứu của GRIs theo hướng hỗ trợ phát triển
kinh tế-xã hội trên diện rộng và tăng cường liên kết giữa trường đại học và ngành
công nghiệp. Các tập đoàn chế tạo lớn chủ yếu thực hiện hoạt động NC&PT doanh
nghiệp, trong khi đó, các DNNVV và doanh nghiệp trẻ phát huy vai trò rất nhỏ.
Chính phủ đang áp dụng một số sáng kiến nhằm xây dựng năng lực đổi mới của
DNNVV như tăng phần đầu tư NC&PT cho DNNVV (từ 12,4% năm 2011 lên 18%
vào năm 2017); yêu cầu các GRIs dành 15% tổng ngân sách để hỗ trợ DNNVV vào
năm 2017 (tăng từ 7% năm 2012); và tăng cường hỗ trợ công nghệ cho DNNVV.
Đồng thời, chính phủ cần đẩy mạnh đổi mới doanh nghiệp bằng cách hạ thấp hơn
nữa các rào cản đối với tinh thần kinh doanh.
Tỷ lệ đồng tác giả quốc tế và đồng sáng chế của Hàn Quốc nằm ở mức thấp nhất
25
trong OECD. Trước đây, các GRIs chủ yếu tập trung cho nghiên cứu ứng dụng và
phát triển công nghệ phần nào giải thích cho tỷ lệ đồng tác giả thấp. Tỷ lệ đăng ký
sáng chế với các nhà đồng phát minh nước ngoài ở mức thấp một phần là do cơ cấu
công nghiệp của các tập đoàn ở Hàn Quốc có xu hướng duy trì phát triển công nghệ
trong tập đoàn. Vì Hàn Quốc quan tâm xây dựng năng lực nghiên cứu cơ bản và các
công ty Hàn Quốc tích cực hoạt động tại biên giới công nghệ, nên quốc gia này cần
phải khai thác hiệu quả hơn các mạng lưới khoa học và ĐMST toàn cầu. Chính phủ
đã xây dựng Kế hoạch tổng thể về hợp tác toàn cầu, nhấn mạnh đến việc thiết lập
mạng lưới toàn cầu gồm các cơ sở KH&CN và ĐMST ở nước ngoài, mở rộng hỗ
trợ phát triển chính thức KH&CN, tăng cường quan hệ ngoại giao về khoa học,
khuyến khích NC&PT quốc tế và chia sẻ các cơ sở NC&PT lớn. Các biện pháp này
có thể được bổ sung theo hướng có lợi thông qua cải thiện môi trường pháp lý cho
thương mại và đầu tư để thu hút đầu tư nước ngoài cho NC&PT, cũng như giúp
Hàn Quốc liên kết với các mạng lưới khoa học và ĐMST toàn cầu.
- Sử dụng kỹ thuật số để tăng tối đa lợi ích của nền kinh tế số
Trên cơ sở vị thế là nước dẫn đầu thế giới về cung cấp hàng hóa CNTT&TT và
được hưởng lợi từ việc triển khai băng thông rộng, chính phủ Hàn Quốc lập kế
hoạch khai thác tiềm năng của nền kinh tế số để tăng năng suất, tạo việc làm và
thúc đẩy tăng trưởng. Quả thực, sáng kiến nền kinh tế sáng tạo kêu gọi "kết hợp
KH&CN với CNTT để đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp hiện có" và
"phát triển các ngành công nghiệp mới dựa vào phần mềm và Internet".
Một trong những mục tiêu của chiến lược "Hàn Quốc sáng tạo" là triển khai áp
dụng CNTT&TT trong toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt tăng cường áp dụng
CNTT&TT trong DNNVV. Đây là thách thức đối với nhiều quốc gia trong đó có
Hàn Quốc. Cụ thể, năm 2013, chỉ có 15,3% doanh nghiệp tham gia bán hàng thông
qua thương mại điện tử, thấp hơn mức trung bình của OECD (20,8%). Mặc dù
33,8% doanh nghiệp lớn ở Hàn Quốc (>250 nhân viên) bán hàng trực tuyến, nhưng
đây chỉ là trường hợp của 14,9% danh nghiệp nhỏ (10 - 49 nhân viên). Vì vậy, việc
khuyến khích DNNVV áp dụng CNTT&TT thực sự là một ưu tiên của chính phủ.
Trong số nhiều ứng dụng CNTT&TT gần đây của các doanh nghiệp, điện toán
đám mây thu hút sự chú ý đặc biệt. Sử dụng đám mây có thể biến công việc tính
toán thành mô hình kinh doanh cho phép truy cập dễ dàng, linh hoạt hơn theo yêu
cầu phục vụ cho các ứng dụng và công suất tính toán. Do đó, điện toán đám mây
đặc biệt có ích cho các doanh nghiệp nhỏ. Năm 2014, hơn 22% doanh nghiệp sử
dụng dịch vụ điện toán đám mây trong khu vực OECD. Tuy nhiên, ở Hàn Quốc,
năm 2012, chỉ có 10,4% tổng số doanh nghiệp phụ thuộc vào điện toán đám mây,
cho thấy cần triển khai ứng trên phạm vi rộng hơn.
Sử dụng nền kinh tế số giúp các doanh nghiệp nhỏ đáp ứng mục tiêu trong kế
hoạch của nền kinh tế sáng tạo để “tăng cường vai trò của các doanh nghiệp đầu tư
26
mạo hiểm và DNNVV". Việc áp dụng phổ biến và chuyên sâu các công nghệ số có
thể làm tăng năng suất của các DNNVV và nâng cao năng lực của doanh nghiệp để
thích ứng với các thị trường đang thay đổi nhanh, qua đó, thu hẹp khoảng cách rộng
về năng suất lao động so với các doanh nghiệp lớn.
Với 150.000 USD PPP trên mỗi lao động có việc làm, năm 2013, năng suất lao
động của lĩnh vực CNTT&TT ở Hàn Quốc xếp thứ ba trong OECD và cao hơn 2,5
lần mức trung bình trong toàn bộ nền kinh tế. Nhưng năng suất lao động của các
DNNVV chỉ bằng khoảng ¼ doanh nghiệp lớn, trong khi tiền lương bằng khoảng
một nửa. Nền kinh tế số còn có thể mang lại lợi ích về năng suất bằng cách hạ thấp
rào cản đối với doanh nghiệp, thông qua giảm số lượng nguồn lực cần để thành lập
doanh nghiệp và mở rộng phạm vi kinh doanh sang các thị trường mới. Tuy nhiên,
để thu được những lợi ích về năng suất thông qua nền kinh tế số, cần có sự tái phân
bổ nguồn lực bằng cách thay đổi thị phần. Theo đó, DNNVV hoạt động hiệu quả
sẽ phát triển lớn mạnh và doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả phải giải thể. Việc
dỡ bỏ những rào cản về cơ cấu sẽ hạn chế sự luân chuyển nguồn lực giữa các doanh
nghiệp, là cần thiết để xác định những lợi ích của nền kinh tế số.
Ngoài ra, lĩnh vực Internet kết nối vạn vật (IoT) cũng sẽ đóng vai trò ngày càng
quan trọng. Hàn Quốc đang thực hiện các dự án IoT trong nhiều lĩnh vực khác như
hành chính công (cải thiện các dịch vụ công), công nghiệp (nâng cao năng suất,
hiệu quả) và chất lượng cuộc sống (nâng cao mức độ an toàn, sự thuận tiện và các
khía cạnh khác liên quan đến chất lượng cuộc sống). Để phát triển hơn nữa IoT, cần
phải điều chỉnh các quy định hiện hành cho phù hợp với các cơ hội mà IoT tạo ra,
ví dụ trong lĩnh vực y học từ xa.
Hàn Quốc là nước dẫn đầu về độ khả dụng và tốc độ của băng thông rộng, cơ sở
hạ tầng thiết yếu của thế kỷ 21. Hàn Quốc có số lượng thuê bao băng thông rộng
cao nhất với tốc độ tải 100 Mbps hoặc cao hơn phản ánh phạm vi triển khai sử dụng
sợi quang ở mức cao. Về mức độ thâm nhập băng thông rộng cố định, Hàn Quốc
xếp vị trí thứ 5 trong OECD, sau Thụy Sĩ, Hà Lan, Đan Mạch và Pháp.
Dữ liệu và phân tích dữ liệu thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế số. Hoạt động
này cung cấp tri thức mới và cải tiến mạnh mẽ hoặc phát triển những sản phẩm, quy
trình, phương thức tổ chức và thị trường mới. Việc cải tiến truy cập dữ liệu và sử
dụng dữ liệu trên phạm vi rộng có thể mang lại giá trị kinh tế cao hơn.
- Thúc đẩy tăng trưởng xanh và sáng tạo thông qua đổi mới xanh
Hàn Quốc đã đưa ra cam kết sớm và liên tục tăng trưởng xanh và sáng tạo. Hàn
Quốc đặt mục tiêu giảm 30% phát thải khí nhà kính vào năm 2020 so với kịch bản
thông thường, nghĩa là giảm 4% so với mức của năm 2005. Mặc dù Hàn Quốc chi
mạnh cho tăng trưởng xanh, nhưng phát thải khí nhà kính vẫn tăng 18% so với giai
đoạn 2007-2011, đảo ngược xu hướng giảm tỷ lệ phát thải so với GDP bắt đầu vào
năm 1997.
27
Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (2014-2018) của Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia
(2009) bao gồm bốn mục tiêu chính:
1) Phát triển công nghệ xanh và doanh nghiệp;
2) Ứng phó với biến đổi khí hậu và tái định hướng chính sách năng lượng để đạt
được sự độc lập năng lượng;
3) Nâng cao chất lượng sống thông qua cải thiện chất lượng môi trường; và
4) Đẩy mạnh các cuộc đàm phán và hợp tác quốc tế có liên quan.
Luật Khung cacbon thấp, tăng trưởng xanh của Hàn Quốc có hiệu lực năm 2010, đã
giữ vững cam kết giảm 30% phát thải khí nhà kính vào năm 2020 của Hàn Quốc theo
Công ước khung Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC) năm 2009. Kế hoạch
thương mại phát thải quốc gia (ETS) mới được công bố, là bước tiến quan trọng để
giải quyết vấn đề phát thải khí nhà kính, vẫn là một trong những thách thức chủ yếu
đối với tăng trưởng xanh. Đồng thời, đầu tư cho nghiên cứu, phát triển và demo công
nghệ xanh vẫn đóng vai trò quan trọng để đạt được mục tiêu quốc gia như dự kiến
(giảm 37% lượng khí thải so với kịch bản thông thường) vào năm 2030.
Hàn Quốc đang giải quyết thực trạng đề biến đổi khí hậu bằng cách đẩy mạnh đổi
mới và NC&PT các công nghệ liên quan. Năm 2015, Chính phủ Hàn Quốc đã công bố
"Chính sách NC&PT công nghệ khí hậu" cho giai đoạn 2014-2020 nhằm phát triển sáu
công nghệ cốt lõi (pin mặt trời, pin nhiên liệu, nhiên liệu sinh học, pin thứ cấp, sức
mạnh của CNTT và công nghệ thu và lưu giữ cácbon) để giảm thiểu khí nhà kính và
hình thành các ngành công nghiệp mới. Trong năm 2011, tổng chi công cho NC&PT
các công nghệ năng lượng chiếm 0,049% GDP danh nghĩa, chỉ trên mức trung bình
của OECD. Phần chi tiêu lớn được phân bổ cho các nguồn năng lượng tái tạo (26%),
năng lượng hạt nhân (20%) và hiệu quả năng lượng (16%). Chính phủ đã tăng tỷ lệ
đầu tư NC&PT cho ĐMST xanh từ 13,3% năm 2008 lên 17,1% năm 2012. Ngoài ra,
chính phủ cũng mở rộng các quỹ đầu tư cho công nghệ xanh bao gồm Dự án phát triển
công nghệ đổi mới sinh thái (2011-2020), được sự hỗ trợ của các quỹ quốc gia (1.553
nghìn tỷ Won) cũng như đầu tư tư nhân (600 tỷ Won) để tập trung vào nhiều lĩnh vực
công nghệ, ngoài các công nghệ giảm phát thải khí nhà kính như công nghệ về nước,
xe thân thiện sinh thái và thu hồi tài nguyên chất thải. Hàn Quốc còn cung cấp ưu đãi
khấu trừ thuế cho các dự án NC&PT xanh với tỷ lệ 20% cho các ngành công nghiệp
xanh và 30% cho các doanh nghiệp nhỏ.
Nhiều chính sách cũng được áp dụng để hỗ trợ tiêu thụ và sản xuất bền vững, bao
gồm các kế hoạch cấp chứng nhận sản phẩm xanh, dán nhãn cacbon và các chương
trình khuyến khích mua sắm. Ví dụ, chương trình "Thẻ xanh" của Hàn Quốc tích điểm
hoặc giảm giá các dịch vụ công phục vụ tiêu thụ thân thiện sinh thái, trong khi sáng
kiến "Hệ thống giảm cacbon" cung cấp các khuyến khích để giảm sử dụng năng lượng
tại hộ gia đình. Các yêu cầu xanh cũng được áp dụng cho các quy trình mua sắm công.
Đây là các biện pháp góp phần phát triển công nghệ xanh và khuyến khích các doanh
nghiệp lớn thực hiện đổi mới xanh, đồng thời thúc đẩy DNNVV hướng tới đổi mới
28
xanh.
Vì đầu tư của Chính phủ cho tăng trưởng xanh chiếm đến 2% GDP, nên những nỗ
lực đổi mới xanh cần được tiếp tục duy trì giảm mạnh phát thải thải khí nhà kính. Để
đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh, cần có thêm chuyển đổi gánh nặng thuế từ đầu tư
và lao động sang ô nhiễm.
Ngoài những lợi ích kinh tế tiềm năng, tăng trưởng xanh sẽ cải thiện chất lượng
sống bằng cách khắc phục suy thoái môi trường đi kèm với tốc độ công nghiệp hóa
nhanh. Quả thực, chất lượng không khí trong khu vực thủ đô của Hàn Quốc tệ nhất
trong OECD và chi phí chăm sóc sức khỏe con người do ô nhiễm không khí, cụ thể do
các hạt mịn gây ra, ước tính chiếm 1% GDP năm 2012.
Khuyến nghị chính của OECD
Tạo đòn bẩy cho KH&CN
• Nâng cao toàn bộ hiệu quả đầu tư công cho NC&PT và tăng cường nghiên cứu
cơ bản.
• Tăng mức độ phù hợp và tính thực tiễn của nghiên cứu công bằng cách mở rộng
định hướng của các GRI để hỗ trợ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên diện
rộng.
• Nâng cao vai trò của các trường đại học trong nghiên cứu và ĐMST, cũng như
tăng cường liên kết với ngành công nghiệp và GRI.
• Cải thiện các điều kiện khung cho tinh thần kinh doanh nhằm tận dụng tiềm năng
ĐMST của các doanh nghiệp khởi nghiệp và DNNVV.
• Cải thiện môi trường pháp lý cho đầu tư quốc tế về NC&PT cũng như cạnh tranh
để tham gia vào mạng lưới KH&CN, ĐMST toàn cầu.
Sử dụng kỹ thuật số
• Giảm thiểu những hạn chế về cơ cấu cản trở việc tái phân bổ nguồn lực, qua đó,
giảm năng suất thông qua nền kinh tế số.
• Đẩy mạnh áp dụng CNTT&TT trong các doanh nghiệp, đặc biệt chú trọng đến
DNVVN. Các biện pháp bao gồm các chương trình số hóa toàn bộ chuỗi giá trị,
biệt phái chuyên gia CNTT&TT cho các doanh nghiệp có tỷ lệ áp dụng
CNTT&TT thấp và thúc đẩy đào tạo kỹ năng CNTT&TT phục vụ công việc.
• Đẩy mạnh áp dụng điện toán đám mây. Đặc biệt, hỗ trợ các doanh nghiệp hiểu
được khái niệm này và khắc phục những lo ngại về bảo mật và an ninh.
• Xem xét và tìm cách giảm thiểu ràn cản đối với việc sử dụng và lợi ích của IoT
trong các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe và giao thông. Đặc biệt, sửa đổi luật y
tế để khuyến khích y học từ xa.
Khuyến khích đổi mới xanh
• Tiếp tục đầu tư lớn cho các sáng kiến tăng trưởng xanh và ĐMST xanh, trong khi
vẫn đảm bảo góp phần giảm mạnh phát thải khí nhà kính.
29
2. Nới lỏng gánh nặng pháp lý và thúc đẩy cạnh tranh
Hàn Quốc nằm trong số các quốc gia có các quy định nghiêm ngặt nhất OECD.
Điều này đã tác động lớn đến ngành dịch vụ và tất cả các ngành hạ nguồn phụ thuộc
vào đầu vào của ngành dịch vụ. Quy định nghiêm ngặt đã cản trở Hàn Quốc nắm bắt
các cơ hội tăng trưởng từ thương mại và đầu tư.
Đặc biệt, gánh nặng hành chính và thủ tục pháp lý rắc rối cũng đang gây sức ép cho
các doanh nghiệp khởi nghiệp và DNNVV. Chính phủ đã xác định những cải cách
pháp lý như một ưu tiên quan trọng, được phản ánh trong Kế hoạch đổi mới kinh tế 3
năm. Số lượng các quy định đang được giảm bớt để chuyển hướng sang tập trung vào
chất lượng của quy định và tác động của nó đến cạnh tranh, năng suất và tăng trưởng.
Các khuyến nghị được được ra dưới đây theo ước tính, sẽ làm tăng 0,7% GDP trong
vòng 5 năm và 1,1% trong hơn 10 năm.
Các quy định nghiêm ngặt của Hàn Quốc cản trở tăng trưởng kinh tế
Điểm số năm 2013 của Hàn Quốc về chỉ số Quy định thị trường sản phẩm (PMR)
của OECD có mức độ chặt chẽ xếp thứ 4 trong OECD. Chỉ số này đã được chứng
minh có quan hệ mật thiết với năng suất tổng. Việc Hàn Quốc nới lỏng quy định thị
trường sản phẩm, sẽ khuyến khích đầu tư tư nhân cho các hoạt động ĐMST, phổ biến
tri thức, cải thiện hiệu quả quản lý và sự ra đời của các doanh nghiệp mới. Gánh nặng
hành chính và thủ tục pháp lý rắc rối cũng đặc biệt gây trở ngại cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp và DNNVV, hạn chế thâm nhập thị trường, tăng năng suất và mở rộng
quy mô.
Cải cách ngành dịch vụ để nắm bắt các cơ hội thương mại và đầu tư
Hàn Quốc đã tích cực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng việc tham gia vào
các hoạt động mang lại giá trị gia tăng cao sẽ góp phần quan trọng để thực hiện thành
công sáng kiến nền kinh tế sáng tạo và duy trì sự phát triển liên tục của nền kinh tế
Hàn Quốc. Cơ sở dữ liệu về Thương mại giá trị gia tăng của OECD-WTO (TiVA)
(2015) cho thấy năm 2012, Hàn Quốc có tỷ trọng xuất khẩu cao nhất trong số các nước
G20 (41,6%). Con số này đã tăng gần gấp đôi trong vòng hai thập kỷ qua. Ở châu Á,
Hàn Quốc có sự hội nhập đặc biệt mạnh mẽ trong lĩnh vực CNTT&TT cũng như điện
tử và ô tô. Có đến 2/3 hàng nhập trong các ngành công nghiệp chủ chốt này là phục vụ
sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Năm 2011, trong tổng giá trị gia tăng nội địa do
ngành chế tạo mang lại ở Hàn Quốc, thì 58,5% bắt nguồn từ nhu cầu của nước ngoài,
cao hơn nhiều mức trung bình của OECD (41,9%). Tuy nhiên, tỷ trọng dịch vụ trong
tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 40,1%, thấp hơn nhiều mức trung bình của OECD,
trong khi các dịch vụ nội địa chỉ chiếm 25% giá trị thặng dư xuất khẩu của Hàn Quốc,
tỷ lệ này thấp thứ 3 trong OECD. Đối với hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chế tạo,
năm 2011, chỉ có 29,7% tổng giá trị gia tăng bắt nguồn từ khu vực dịch vụ, thấp thứ
hai trong OECD. Điều này phản ánh một phần thực tế, đó là các doanh nghiệp có xu
hướng thực hiện các dịch vụ trong nội bộ chứ không ký hợp đồng với bên ngoài. Xuất
khẩu hàng hóa vẫn do các tập đoàn lớn có sự liên kết theo chiều dọc thực hiện. Hơn
30
nữa, Hàn Quốc xuất khẩu ít dịch vụ hơn các nước OECD khác.
Việc tập trung nới lỏng quy định đối với các dịch vụ chính và khu vực mạng lưới có
thể mang lại lợi ích rất lớn, làm tăng năng suất của toàn bộ nền kinh tế và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Theo Chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ của OECD, phạm vi cải
tiến một số lĩnh vực đóng vai trò quan trọng đối với các chuỗi giá trị toàn cầu như vận
tải hàng hải, dịch vụ vận tải hàng hóa, vận tải hàng không, dịch vụ chuyển phát nhanh
và dịch vụ pháp lý. Các rào cản đối với sự thâm nhập của nước ngoài, bao gồm hạn
chế cổ phần của nước ngoài trong các lĩnh vực như viễn thông, vận tải hàng không và
vận tải hàng hải, ngoài việc giới hạn số lượng thành viên hội đồng quản trị và nhà
quản lý đối với một số dịch vụ chuyên nghiệp. Ngoài ra, trong một số lĩnh vực diễn ra
tương đối ít cạnh tranh vì nhà nước vẫn kiểm soát các công ty lớn. Ngược lại, môi
trường có tính cạnh tranh cao hơn là các lĩnh vực như phân phối, bảo hiểm và dịch vụ
kỹ thuật.
Cải cách pháp lý là một ưu tiên của chính phủ
Chính phủ Hàn Quốc đã nhận ra tác động kinh tế tiêu cực của quy định quá nghiêm
ngặt, nên đưa ra một số sáng kiến như Regulatory Guillotine, Thorn under Nail và Sin-
Moon-Go cho phép công dân đề xuất các cải cách pháp lý. Ví dụ, khi một ý tưởng cải
cách pháp lý được đưa ra theo chương trình Sin-Moon-Go, chính phủ có hai tuần để
quyết định chấp nhận hoặc bãi bỏ ý tưởng đó. Vấn đề này phải được giải quyết triệt để
trong vòng ba tháng.
Năm 2014, Chính phủ giảm 10% (995 trong số 9.876) số lượng các quy định về
quản lý hoạt động kinh tế. Các quy định này cam kết tiếp tục loại bỏ hoặc cải tiến các
quy định cốt lõi. Gánh nặng pháp lý cũng giảm bớt do đưa vào áp dụng hệ thống “chi
phí trong, chi phí ngoài” để bù đắp chi phí xây dựng các quy định mới bằng cách bãi
bỏ hoặc nới lỏng các quy định hiện hành mà vẫn gây tác động tương đương. Hệ thống
này đã được áp dụng trong 8 Bộ vào năm 2014 và được mở rộng cho 14 Bộ vào năm
2015. Tùy theo đánh giá của chương trình vào cuối năm 2015, hệ thống có thể được
mở rộng sang hầu hết khác bộ khác vào năm 2016. Thành công trong chương trình cải
cách pháp lý của Chính phủ sẽ phụ thuộc vào phạm vi áp dụng các biện pháp này. Hơn
nữa, hiện nay, Chính phủ không đưa ra một cách có hệ thống các đánh giá về tác động
kinh tế của những cải cách gần đây hoặc cải cách theo kế hoạch, bước phát triển giúp
duy trì hỗ trợ chương trình cải cách trên phạm vi rộng.
Chất lượng quy định ở Hàn Quốc cũng không bằng các nước có điểm số cao nhất
trong việc áp dụng các công cụ kiểm soát chất lượng pháp lý, đặc biệt liên quan đến
đánh giá sau. Tiến tới, Chính phủ nên chuyển hướng từ các mục tiêu định lượng để
giảm số lượng quy định sang nâng cao chất lượng quy định. Đặc biệt, Hàn Quốc cần
có phương thức rõ ràng và bắt buộc đối với việc xây dựng các luật và quy định mới.
Tính trung bình từ năm 2011 - 2013, chỉ có 15% tổng số luật và quy định mới được
khởi xướng bởi nhánh hành pháp, đề cập đến các biện pháp kiểm soát chất lượng như
đánh giá tác động và tham vấn cộng đồng. Các tiêu chuẩn tương tự cần được áp dụng
31
đối với các luật và quy định do Quốc hội đưa ra. Các đánh giá mang tính cạnh tranh
cũng được quy định là bắt buộc với các đề xuất mới hoặc sửa đổi của nhánh hành
pháp.
Khoảng 60% khuyến nghị của Ủy ban hội chợ thương mại Hàn Quốc trên cơ sở
thực hiện các đánh giá mang tính cạnh tranh đối với các luật được đề xuất, đã được
đưa vào quy định dự thảo. Ủy ban này không thể đưa ra các đánh giá đối với các quy
định mà Quốc hội khởi xướng. Điều này tạo kẽ hở cho quy định chống cạnh tranh, cần
được khắc phục.
Khuyến nghị chính của OECD
• Coi ngành dịch vụ và đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp và DNNVV là ưu
tiên cho cải cách pháp lý trên diện rộng để tăng năng suất.
• Ưu tiên cải cách để tăng khả năng cạnh tranh trong khu vực dịch vụ, đặc biệt là
vận tải biển, dịch vụ vận tải hàng hóa, vận tải hàng không, dịch vụ chuyển phát
nhanh và dịch vụ pháp lý.
• Chuyển hướng từ chú trọng đến số lượng sang chất lượng quy định.
• Thực hiện các đánh giá trước và sau về lợi ích kinh tế của các cải cách quy định.
• Mở rộng sử dụng các công cụ kiểm soát chất lượng pháp lý bao gồm đánh giá
cạnh tranh cho tất cả các quy định mới kể cả quy định do Quốc hội khởi xướng.
3. Đẩy mạnh tinh thần kinh doanh3 và đầu tư mạo hiểm
Các DNNVV được Hàn Quốc đặt vào vị trí trung tâm thậm chí còn hơn hầu hết các
nền kinh tế OECD. Tuy nhiên, năng suất sụt giảm cản trở đóng góp của các DNNVV
vào tăng trưởng kinh tế dù được Nhà nước hỗ trợ mạnh mẽ. Việc tháo gỡ khó khăn
cho các DNNVV trong tiếp cận tài chính, đặc biệt là từ các nguồn phi ngân hàng, có
thể giúp cải thiện hiệu quả họat động của các DNNVV, đặc biệt là doanh nghiệp có
tiềm năng lớn.
Năm 2013, các DNVVN chiếm 99,9% tổng số doanh nghiệp và cung cấp 86,8%
việc làm, cao hơn nhiều mức trung bình của OECD (68%). Doanh nghiệp nhỏ (dưới 10
lao động) chiếm ưu thế trong nền kinh tế Hàn Quốc, đạt 93,1% số doanh nghiệp và
giải quyết 44,2% việc làm (trong OECD tỷ lệ này tương ứng là 89,9% và 29,1%).
DNNVV của Hàn Quốc duy trì khoảng cách năng suất ngày càng lớn so với các doanh
nghiệp lớn trong các lĩnh vực thâm dụng vốn, trái ngược với các nước OECD khác,
trong đó, các doanh nghiệp vừa thường vượt trội hơn các doanh nghiệp lớn. Khoảng
cách năng suất lớn hạn chế đóng góp của DNNVV vào tăng trưởng kinh tế.
Ở Hàn Quốc, tỷ lệ tinh thần kinh doanh được định hướng bởi sự đổi mới (46%)
tương đối thấp so với các nước OECD khác, trong khi tinh thần kinh doanh được định
hướng bởi sự cần thiết (36%) phổ biến hơn. Ở Hàn Quốc, tinh thần kinh doanh theo
3 Tinh thần kinh doanh được định nghĩa là "định hướng bởi sự cần thiết" khi các cá nhân bắt buộc phải làm vì
họ không có lựa chọn công việc khác và được định nghĩa là “định hướng bởi đổi mới" khi động lực chính của họ
khả năng độc lập hoặc tăng thu nhập.
32
định hướng của sự cần thiết có đặc trưng là các doanh nghiệp nhỏ không mở rộng quy
mô hoặc không phát triển. Hơn nữa, dữ liệu khảo sát cho thấy người Hàn Quốc nắm
bắt ít cơ hội kinh doanh và tự nhận thấy ít có khả năng trở thành doanh nhân hơn so
với hầu hết các nước khác, ngoại trừ Nhật Bản. Họ cũng sợ thất bại nhiều hơn và tinh
thần kinh doanh được xem là lựa chọn nghề nghiệp ít được ưa chuộng tại Hàn Quốc.
Trong hầu hết các nước OECD khác, thanh niên và đặc biệt là phụ nữ có ít khả năng
trở thành doanh nhân. Do đó, quan trọng là phải dỡ bỏ các rào cản văn hóa đối với tinh
thần kinh doanh để thúc đẩy mạnh mẽ hơn tinh thần kinh doanh theo hướng đổi mới.
Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng những biện pháp để giải quyết các thách thức văn
hóa này và cải thiện các kỹ năng và cơ hội kinh doanh. Ví dụ, năm 2009, Hàn Quốc đã
xây dựng "Đạo luật hỗ trợ doanh nghiệp do nữ làm chủ", theo đó, Chính phủ cung cấp
cho các doanh nghiệp do nữ làm chủ ưu đãi về tài chính, mua sắm chính phủ và các
dịch vụ đào tạo. Năm 2011, Chính phủ đã thành lập "Viện hàn lâm khởi nghiệp quy tụ
các doanh nhân trẻ" để hỗ trợ tài chính và phi tài chính cho hoạt động kinh doanh mạo
hiểm theo hướng ĐMST cho người dưới 39 tuổi. Năm 2015, kế hoạch lập Quỹ phát
triển thanh niên trị giá 300 tỷ Won để khuyến khích thanh niên ĐMST, bao gồm trợ
cấp dưới dạng vốn đối ứng cho các tổ chức phi chính phủ.
Các DNNVV trẻ theo định hướng tăng trưởng phải đối mặt với khó khăn trong việc
tiếp cận tài chính không vay nợ.
Tăng trưởng của DNNVV và sự thành lập của doanh nghiệp mới có thể là động lực
chính để cải thiện năng suất, đặc biệt là khi các doanh nhân nắm bắt cơ hội liên quan
đến ĐMST. Tiếp cận tài chính là một rào cản quan trọng đối với việc thành lập và mở
rộng DNNVV, đặc biệt là các doanh nghiệp trẻ và ĐMST có mức đóng góp cho tăng
trường không đều nhau. Tại Hàn Quốc, sự hỗ trợ tài chính mạnh mẽ của chính phủ cho
DNNVV trong những thập kỷ qua, đã tập trung vào nợ truyền thống như bảo lãnh cho
vay và tín dụng trực tiếp, gây thiệt hại đến việc cung cấp chính cho DNNVV dựa vào
thị trường. Tuy nhiên, hình thức cho vay của ngân hàng thường không phù hợp với các
doanh nghiệp mới đang phát triển nhanh. Trong khi tài chính ngân hàng rất cần thiết
cho nhiều DNNVV, thì cần có các lựa chọn đa dạng hơn để thúc đẩy đầu tư lâu dài cho
DNNVV cũng như tạo điều kiện cho sự thâm nhập và tăng trưởng của doanh nghiệp
ĐMST.
Trong những năm gần đây, sự hỗ trợ tích cực của chính phủ thông qua các ưu đãi
thuế và đầu tư trực tiếp, đã góp phần mở rộng thị trường vốn đầu tư mạo hiểm trên quy
mô lớn: đầu tư vốn mạo hiểm đã tăng 12,3% trong khoảng năm 2012-2013 và 18,4%
từ năm 2013 và 2014 và dự kiến đến năm 2017 sẽ vượt mức 2 nghìn tỷ Won. Ngoài ra,
các khoản đầu tư của mạnh thường quân đã giảm hơn 90% trong giai đoạn 2000 -
2011. Nhưng, trong những năm gần đây, đã tăng lên nhờ có các sáng kiến chính sách
như tăng khấu trừ thuế cho đầu tư của mạnh thường quân, thành lập "Trung tâm hỗ trợ
đầu tư của mạnh thường quân" để thúc đẩy kết nối giữa các nhà đầu tư là mạnh
thường quân với doanh nghiệp trẻ; và xây dựng kế hoạch phối hợp đầu tư.
33
Các sáng kiến chính sách khác gần đây nhằm hỗ trợ các kênh tài chính luân phiên
dành cho các DNNVV mới theo định hưởng tăng trưởng, bao gồm đưa vào áp dụng
khung pháp lý cho hình thức tài trợ đám đông, tăng khấu trừ thuế cho các khoản tư
bằng cổ phần, công bố New Korea Exchange (KONEX), hệ thống lập danh sách
DNNVV theo hướng công khai và đưa vào áp dụng các biện pháp khuyến khích (như
ưu đãi thuế và nới lỏng quy định) hoạt động M&A của các doanh nghiệp khởi nghiệp
và doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm. Bên cạnh đó, chính phủ còn cung cấp vốn đầu tư và
tái cơ cấu nợ cũng như mở rộng phạm vi của các tài sản được bảo vệ trong quá trình
phá sản để mang đến cho các doanh nhân cơ hội thứ hai. Việc tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp mới và DNNVV theo định hướng tăng trưởng tiếp cận
nhiều hơn với hình thức huy động thêm vốn cổ đông là cần thiết để xây dựng đất nước
“Hàn Quốc sáng tạo” và thu hẹp khoảng cách năng suất. Vấn đề quan trọng là phải
tiếp tục cải thiện khả năng của DNNVV trong việc cung cấp các dự án có sẵn nhà đầu
tư; cải thiện văn hóa kinh doanh và cung cấp cho các doanh nhân cơ hội thứ hai sau
khi họ gặp thất bại ở lần đầu; tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân vào thị
trường vốn mạo hiểm; và tăng nguồn vốn cho tài chính hạt giống và giai đoạn sớm
Hơn nữa, tín dụng thuế NC&PT của Hàn Quốc khá lớn, chiếm đến 9,6% tổng tín
dụng thuế quốc gia năm 2014, nhưng chưa đáp ứng hiệu quả nhu cầu của các doanh
nghiệp trẻ, sáng tạo. Đặc biệt, thiếu các quy định về trì hoãn chi trả hoặc hoàn tiền đã
cản trở các doanh nghiệp trẻ và nhỏ sử dụng khoản tín dụng, vì các doanh nghiệp này
thường chưa có lợi nhuận trong những năm đầu thực hiện dự án NC&PT. Các ưu đãi
tín dụng này cần được xem xét lại để tăng hiệu quả kích thích tinh thần kinh doanh
sáng tạo.
Khuyến nghị chính của OECD:
• Tiếp tục nỗ lực phát triển văn hóa kinh doanh, đặc biệt là ở phụ nữ và thanh niên
thông qua cải thiện giáo dục tinh thần kinh doanh, giáo dục tài chính và các cải
cách để tạo cơ hội thứ hai cho doanh nhân.
• Khuyến khích cung cấp tài chính dựa vào thị trường cho DNNVV và doanh
nhân, đồng thời, đẩy mạnh đa dạng hóa các nguồn tài chính, ngoài khoản vay từ
ngân hàng truyền thống.
• Thực hiện áp dụng các chính sách mục tiêu để tận dụng nguồn lực tư nhân và
phát triển các cơ chế chia sẻ rủi ro phù hợp với khu vực tư nhân.
• Đảm bảo cho chương trình tín dụng thuế NC&PT cung cấp ưu đãi cho các doanh
nghiệp trẻ và nhỏ, cũng như khuyến khích hợp tác giữa ngành công nghiệp và
trường đại học.
4. Tạo sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa giáo dục và đào tạo với thị trường lao động
Trong khi lao động trẻ có kỹ năng cao đang phải đối mặt với những khó khăn khi
chuyển đổi từ môi trường giáo dục sang môi trường làm việc, thì lao động lớn tuổi có
kỹ năng thấp lại phải chật vật tìm việc nếu bị buộc phải nghỉ hưu sớm. Các chính sách
34
mục tiêu nhằm tăng cường sự gắn kết giữa thị trường lao động với các chương trình
giáo dục và đào tạo có thể mang lại lợi ích gấp 3 lần: thúc đẩy sự hội nhập xã hội trong
khi vẫn đảm bảo rằng Hàn Quốc có lực lượng lao động tay nghề cao cần để xây dựng
“Nền kinh tế sáng tạo” lớn mạnh và giúp hạn chế sự suy giảm nguồn cung ứng lao
động khi xã hội già hóa.
Theo Chương trình đánh giá quốc tế năng lực người trưởng thành (PIAAC) của
OECD, năm 2013, mặc dù giới trẻ Hàn Quốc được đánh giá nằm trong số những lao
động có kỹ năng thành thạo nhất, nhưng tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi từ 15-29 tham
gia vào lực lượng lao động chỉ chiếm 42% đối với nam và nữ là 44,4%. Tỷ lệ này thấp
hơn mức trung bình của OECD (tương ứng là 64,1% và 53%). Ngoài ra, dù tỷ lệ thanh
niên thất nghiệp ở mức tương đối thấp, nhưng đã tăng từ cuối năm 2012 lên gần 10,9%
trong 4 tháng đầu năm 2015.
Bên cạnh những thanh niên có trình độ đại học, còn có bộ phận lớn thanh niên trong
độ tuổi từ 15-24 không việc làm, không học hành và không đào tạo (NEET). Tuy
nhiên, tình trạng này có thể được giảm bớt bởi thực tế nhiều thanh niên NEET ở Hàn
Quốc đang học tập chuẩn bị cho các kỳ thi tuyển dụng để được vào làm việc trong khu
vực công hoặc các doanh nghiệp lớn, mặc dù họ không được tính đến khi đăng ký
chính thức vào một khóa học hoặc đào tạo.
Sự không phù hợp về kỹ năng là lý do chính gây ra tình trạng trì trệ trong bộ phận
thanh niên đang phải đối mặt với khó khăn trong việc chuyển đổi từ môi trường học
tập sang môi trường làm việc. Do trình độ giáo dục tăng nhanh trong hơn 30 năm qua
và tỷ lệ lớn sinh viên tốt nghiệp đại học, do đó, nhu cầu lao động trình độ cao không
thể bắt kịp nguồn cung. Tuy nhiên, thay vì cản trở các sinh viên muốn tiến xa trên con
đường giáo dục đại học hoặc kết nối lao động trình độ cao với công việc đòi hỏi kỹ
năng thấp, cách tiếp cận tốt hơn sẽ là đẩy mạnh sự gắn kết giữa thị trường lao động với
giáo dục đại học và cung cấp cho sinh viên những lựa chọn thay thế giáo dục đại học
như giáo dục và đào tạo nghề gây tác động mạnh mẽ đến thị trường lao động.
Ví dụ, các viện giáo dục đại học và cơ sở đào tạo nghề có thể đưa ra nhiều môn học
có liên quan nhiều hơn đến công việc, tăng cường sự tham gia của người sử dụng lao
động vào việc xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo, cũng như thu hút người
lao động có kinh nghiệm trong ngành công nghiệp tham gia vào công tác giảng dạy.
Các cơ sở đào tạo nghề hoạt động hiệu quả cao như trường trung học Meister với tỷ
lệ sinh viên có việc làm cao hơn các viện giáo dục đại học, nên được sử dụng làm
chuẩn mực về hiệu quả hoạt động. Ngoài ra, cần phối hợp hiệu quả hơn giữa các bên
liên quan để đảm bảo phản ứng chính sách nhất quán.
Việc tăng cường cơ chế đóng vai trò quan trọng để lôi kéo các bên liên quan tập
trung vào những mục tiêu cụ thể và tiến độ thực tế. Nghiên cứu của OECD chứng tỏ
Hàn Quốc đã phát triển được các công cụ phân tích để đánh giá nhu cầu về kỹ năng
hiện tại và dự báo sự mất cân bằng kỹ năng trong tương lai.
Tuy nhiên, hiệu quả của các công cụ “dự báo kỹ năng” bị ảnh hưởng do khó thống
35
nhất giữa phản ứng chính sách nhất quán với các yêu cầu kỹ năng của các bên liên
quan.
Tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa hệ thống đào tạo với thị trường lao động
Ở Hàn Quốc, các cấp độ kỹ năng có sự khác biệt lớn giữa các nhóm tuổi. Ví dụ,
thanh niên Hàn Quốc nằm trong số các quốc gia có chỉ số thành thạo kỹ năng cao nhất
theo Chương trình đánh giá kỹ năng người trưởng thành của OECD, trong khi những
người từ 45 tuổi trở lên lại có chỉ số này thấp hơn mức trung bình của OECD. Do bị
bắt buộc nghỉ hưu sớm và thiếu kỹ năng phù hợp, nên lao động cao tuổi thường phải
tiếp tục làm việc trong những điều kiện không ổn định và có nguy cơ cao rơi vào cảnh
nghèo khó.
Sự tham gia của lao động lớn tuổi vào các chương trình đào tạo chiếm tỷ lệ thấp.
Các chương trình hỗ trợ người sử dụng lao động và người tìm việc ít có thiện chí đào
tạo lao động lớn tuổi do khả năng sử dụng lâu dài nguồn lao động này ở mức thấp hơn.
Điều này góp phần vào sự phân khúc cao của thị trường lao động với tỷ lệ lớn việc làm
không thường xuyên cho lao động thứ yếu như lao động lớn tuổi. Vì vậy, sự tham gia
của lao động lớn tuổi vào các chương đào tạo cần được người sử dụng lao động
khuyến khích, hỗ trợ và chấp thuận. Thông tin về các cơ hội đào tạo phải dễ tìm kiếm
và được bổ sung bằng các dịch vụ hướng dẫn và tư vấn để lao động thứ yếu kỹ năng
thấp có thể tiếp cận.
Ở quy mô địa phương, hệ thống kỹ năng thiết thực cần có sự kết hợp giữa các chính
sách việc làm, kỹ năng và phát triển kinh tế. Hàn Quốc đã đạt được tiến bộ đáng kể
trong việc phân cấp quản lý các chính sách việc làm và kỹ năng. Động thái này đã tạo
kết nối chặt chẽ giữa các phương pháp tiếp cận với các diễn đàn quản trị như hội đồng
việc làm địa phương và Hiệp hội bốn bên ở địa phương để kết nối cung - cầu về kỹ
năng. Đây là cơ hội cho Hàn quốc đẩy mạnh các mối cộng tác linh hoạt để xây dựng
các chiến lược kỹ năng và hướng tới mục tiêu phối hợp với người sử dụng lao động
nhằm xúc tiến các chính sách sử dụng kỹ năng. Điều này đặc biệt hữu ích cho
DNNVV.
Khuyến nghị chính sách của OECD
Nâng cao chất lượng giáo dục đại học và hệ thống giáo dục và đào tạo nghề dưới
hình thức “học phải gắn liền với hành” bằng cách huy động người sử dụng lao
động tham gia xây dựng chương trình giảng dạy và các chuyên gia của ngành
công nghiệp tham gia vào quá trình giảng dạy.
Cung cấp và khuyến khích đào tạo người trưởng thành trong suốt cuộc đời của họ
để duy trì và cải thiện các kỹ năng theo yêu cầu của thị trường lao động, thông
qua hợp tác với các bên liên quan và tuyển dụng giảng viên là các chuyên gia của
ngành công nghiệp.
Tiếp tục phát triển các công cụ đánh giá và dự báo kỹ năng để cung cấp thông tin
về chính sách giáo dục và việc làm trên cơ sở nhu cầu kỹ năng hiện tại và trong
36
tương lai.
Hỗ trợ việc làm chất lượng cao bằng cách tập trung sử dụng hiệu quả kỹ năng và
năng suất ở quy mô địa phương, đồng thời cũng xem xét các cơ chế để tăng
cường cam kết với người sử dụng lao động, đặc biệt là DNNVV.
5. Cải cách thị trường lao động để khuyến khích sự hòa nhập xã hội và tiềm
năng tăng trưởng
Thị trường lao động của Hàn Quốc nhìn chung tương đối mạnh với tỷ lệ thất nghiệp
thấp nhất so với các nền kinh tế OECD tính đến cuối năm 2014 và gần như không xảy
ra hiện tượng thất nghiệp trong thời gian dài.
Tuy nhiên, bằng cách khắc phục tình trạng một số nhóm dân cư gồm phụ nữ, thanh
niên và người lớn tuổi tham gia vào thị trường lao động với tỷ lệ thấp và đồng thời,
đảm bảo cho họ khả năng tìm việc chất lượng cao phù hợp với kỹ năng đào tạo, như
vậy, Hàn Quốc mới có thể điều chỉnh tác động của xã hội già hóa đến nguồn cung lao
động và chuyển sang mô hình tăng trưởng toàn diện hơn.
Việc tăng cường đầu tư cho hệ thống giáo dục và chăm sóc mầm non (ECEC) của
Korea có thể khuyến khích phụ nữ tham gia đông đảo vào lực lượng lao động. Trong
khi tỷ lệ việc làm của đàn ông Hàn Quốc trong độ tuổi lao động là 76%, cao hơn một
chút so với mức trung bình của OECD (74%), nhưng tỷ lệ này đối với nữ là 55%, thấp
hơn mức trung bình của OECD (58%). Khoảng cách giới là 21%, cao nhất trong
OECD. Ngoài ra, tỷ lệ thanh niên là 40,7%, thấp hơn nhiều mức trung bình của
OECD.
Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động lớn tuổi có việc làm cũng thấp hơn so với lao động ở độ
tuổi sung sức, một phần là do độ tuổi trung bình người lao động rời khỏi các doanh
nghiệp vẫn còn thấp (53 tuổi). Việc thu hút sự tham gia của phụ nữ, thanh niên và
người lớn tuổi vào thị trường lao động, sẽ giúp Hàn Quốc đạt 70% tỷ lệ việc làm vào
năm 2017, đồng thời tăng khả năng chi trả các khoản đầu tư lớn của Hàn Quốc cho
giáo dục trong những thập kỷ gần đây.
Tính hai mặt của thị trường lao động cũng là thách thức chính sách to lớn. Gần 1/3
lao động tại Hàn Quốc không phải là lao động thường xuyên. Dù quốc gia này đã thực
hiện nhiều cách cải trong những năm gần đây, nhưng lao động không thường xuyên
vẫn bị trả lương thấp hơn nhiều lao động thường xuyên và ít được đóng bảo hiểm xã
hội và bảo hiểm thất nghiệp, dù sự luân chuyển từ việc làm không thường xuyên sang
việc làm thường xuyên tương đối thấp. Do vậy, cần thu hẹp khoảng cách việc làm giữa
hai nhóm lao động này, đặc biệt là bằng cách đơn giản hóa và triển khai mạnh mẽ các
thủ tục khắc phục hiện tượng sa thải lao động không có lý do.
Chuyển biến này có thể làm tăng 0,3% GDP trong khoảng thời gian 10 năm. Do ít
có cơ hội việc làm nên tỷ lệ phụ nữ, thanh niên và người lớn tuổi được sử dụng trong
công việc không thường xuyên và trong DNNVV cao hơn nhiều so với nam giới ở độ
tuổi lao động sung sức. Vì vậy, cần có phương pháp tiếp cận kép cho các cải cách thị
37
trường lao động nhằm để vừa giảm tính hai mặt của thị trường lao động và vừa giảm
bớt các rào cản việc làm đối với các nhóm lao động này.
Phụ nữ: Tỷ lệ việc làm của lao động nữ tại Hàn Quốc tăng lên khi họ ra trường,
nhưng sau đó giảm trong độ tuổi từ trên dưới 30 vì họ rời khỏi thị trường lao động để
chăm sóc con cái. Tỷ lệ việc làm của phụ nữ tăng trở lại ở độ tuổi trên dưới 40 khi con
cái đã lớn. Tuy nhiên, động cơ quay trở lại thị trường lao động bị hạn chế bởi thực tế
những công việc dành cho phần lớn lao động nữ sau một thời gian nghỉ việc, chỉ được
trả lương thấp và bấp bênh, hoặc một trong hai yếu tố này.
Để khuyến khích phụ nữ tham gia đông đảo vào lực lượng lao động, Hàn Quốc đã
đổi mới các chính sách xã hội để hỗ trợ phát triển trẻ em và cân bằng công việc và
cuộc sống của cha mẹ, cụ thể cả đàn ông và phụ nữ đều có quyền nghỉ chế độ nhưng
vẫn được trả lương trong vòng 1 năm, trong khi sự phát triển nhanh của Hệ thống
ECEC đã nâng tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi 0-2 tham gia vào hệ thống từ mức gần 4%
năm 2002 lên 34% năm 2013 và ở trẻ từ 3-5 tuổi, tỷ lệ này đạt 87% vào năm 2012.
Trong cả hai trường hợp, tỷ lệ đều vượt quá mức trung bình của OECD (33% cho lứa
tuổi 0-2 và 82% cho 3-5 tuổi).
Tuy nhiên, Hàn Quốc vẫn cần đầu tư thêm cho hệ thống ECEC, cụ thể là cải thiện
chất lượng cũng như đẩy mạnh phát triển đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp cho hệ thống.
Các hướng đầu tư này kết hợp nỗ lực để thúc đẩy sự thay đổi văn hóa gia đình và văn
hóa công sở, cũng có thể tác động tích cực đến sự tham gia của lao động nữ và tỷ lệ
sinh. Đầu tư hơn nữa cho dịch vụ chăm sóc trẻ em sẽ mở ra cơ hội đặc biệt để hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế, có tiềm năng làm tăng 0,6% GDP trong vòng 10 năm.
Tuy nhiên, để các chính sách xã hội này thay đổi theo hướng tích cực hơn, văn hóa
công sở và văn hóa gia đình cần đẩy mạnh bình đẳng giới đối với công việc được trả
lương và không trả lương. Các cải cách thị trường lao động là cần thiết để giúp các bà
mẹ trở lại làm công việc thường xuyên dễ dàng hơn sau một thời gian không tham gia
vào lực lượng lao động. Năm 2014, đàn ông Hàn Quốc chỉ dành 47 phút mỗi ngày để
làm việc gia đình không được trả lương, trong khi với phụ nữ là 3 tiếng 28 phút/ngày.
Để thu hút sự tham gia của nữ giới vào thị trường lao động, đàn ông Hàn Quốc cần
làm việc nhà nhiều hơn: các quốc gia có khoảng cách giới trong công việc không được
trả lương tương đối nhỏ như Na Uy và Thụy Điển, cũng là nước có tỷ lệ phụ nữ tham
giam lực lượng lao động tương đối cao.
Thanh niên: tỷ lệ việc làm của thanh niên ở mức thấp, trong đó đa số thanh niên có
trình độ đại học hoặc không được sử dụng hoặc không được đăng ký tham gia vào
chương trình giáo dục và đào tạo chính quy, phản ánh tình trạng mất cân đối nghiêm
trọng.
Lao động lớn tuổi: Dù tỷ lệ lao động lớn tuổi có việc làm ở mức tương đối cao so
với mức trung bình của OECD, nhưng họ được sử dụng chưa thỏa đáng do thường bị
buộc phải xin thôi việc khi ở độ tuổi còn tương đối trẻ. Thông thường, cách duy nhất
để lao động cao tuổi được ở lại trong thị trường lao động là chấp nhận việc làm không
38
thường xuyên được trả lương thấp hoặc tự kinh doanh. Để giải quyết những thách thức
này, năm 2013, Hàn Quốc đưa ra “Lộ trình đạt 70% tỷ lệ việc làm” bao trùm nhiều
chính sách, gồm có:
1) Cải thiện sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống để tăng tỷ lệ lao động nữ tham
gia vào thị trường lao động bằng cách giảm tác động của giờ làm việc dài, khuyến
khích cha mẹ nghỉ phép hoặc điều chỉnh công việc linh hoạt và mở rộng các công việc
bán thời gian có chất lượng;
2) Nâng cao chất lượng của các lựa chọn đào tạo nghề cho thanh niên bằng cách
đưa vào áp dụng hệ thống kép trên cơ sở học nghề và tăng cường sự phối hợp giữa
trường đại học và ngành công nghiệp;
3) Khuyến khích sử dụng lao động lớn tuổi thông qua cải cách hệ thống tiền lương,
bao gồm cả đẩy mạnh áp dụng “hệ thống tiền lương cao” (wage peak system) để giảm
dần lương cho lao động lớn tuổi, trong khi kéo dài tuổi nghỉ hưu bắt buộc và nâng cao
chất lượng dịch vụ việc làm cho lao động trung niên và lao động cao tuổi.
4) Cải cách Tín dụng thuế thu nhập cho lao động (EITC) và Chương trình An ninh
sinh kế cơ bản (BLS), chương trình bảo trợ xã hội chính để cải thiện các động cơ làm
việc trong khi vẫn tăng lợi ích cho người có thu nhập thấp.
Mặc dù Lộ trình không bao hàm nỗ lực có hệ thống để khắc phục tính hai mặt của
thị trường lao động, nhưng cuộc đối thoại giữa 3 bên diễn ra vào tháng 9 năm 2014 đã
đi đến thống nhất về các hướng dẫn chung cho những thay đổi cơ cấu thị trường lao
động cần có, bao gồm những cải cách bảo vệ việc làm cho người lao động và tăng
cường an sinh xã hội, các mối quan hệ đôi bên cùng có lợi giữa các doanh nghiệp lớn
và DNNVV và cải thiện quan hệ với ngành công nghiệp. Vấn đề cần thiết hiện nay là
Chính phủ và các đối tác xã hội phải chuyển đổi các hướng dẫn này thành quy định
hiệu quả để thực hiện các cải cách tham vọng.
Khuyến nghị của OECD
Sử dụng gói cải cách thị trường lao động tham vọng hơn dự báo trong Lộ trình
để giảm tính hai mặt của thị trường lao động và đạt 70% tỷ lệ việc làm vào năm
2017.
Hạn chế làm gián đoạn sự nghiệp của phụ nữ và giúp họ ít lo lắng đến các cơ
hội nghề nghiệp lâu dài bằng cách đảm bảo cho bố mẹ được hưởng quyền lợi
giảm giờ làm việc trong vòng 2 năm, cũng như tăng số lượng việc làm bán thời
gian chất lượng cao.
Tập trung nâng cao chất lượng của hệ thống ECEC, như bằng cách nâng cao
năng lực tối thiểu (ví dụ đưa vào áp dụng bài kiểm tra quốc tế) và tăng cường
giáo dục chuyên nghiệp và phát triển của đội ngũ lao động (như tăng cường các
khóa đào tạo lại).
Sử dụng phổ biến hơn hệ thống “tiền lương cao” và cải thiện động cơ cho phù
hợp với luật định về tuổi nghỉ hưu tối thiểu bắt buộc.
39
Triển khai áp dụng các biện pháp hiệu quả hơn cho những người được hưởng
Chương trình An ninh sinh kế cơ bản và mở rộng hơn nữa Tín dụng thuế thu
nhập cho lao động.
Tăng cường năng lực thanh tra lao động và thực thi hiệu quả hơn hệ thống an
sinh xã hội, cũng như thu hẹp phạm vi bảo vệ việc làm cho lao động thường
xuyên để giảm tính hai mặt của thị trường lao động.
Dưới đây là đánh giá của OECD về tác động của các ưu tiên chính sách đến tốc độ
tăng trưởng GDP của Hàn Quốc.
Bảng 1. Tác động đến tốc độ tăng GDP sau 5 năm và 10 năm
Tăng GDP (%) Đóng góp về năng
suất
Đóng góp về việc
làm
5 năm 10 năm 5 năm 10 năm 5 năm 10 năm
Đẩy mạnh ĐMST 0,2 0,4 0,2 0,4
Nới lỏng gánh nặng
pháp lý và thúc đẩy
cạnh tranh
0,7 1,1 0,7 1,1
Đầu tư cho giáo dục và
kỹ năng
0,0 0,1 0,0 0,1
Cải cách thị trường lao
động để khuyến khích
sự tham gia và hòa
nhập xã hội
- Giảm tính hai mặt
của thị trường lao động
- Phát triển mạnh dịch
vụ chăm sóc trẻ em
0,3
0,1
0,2
0,9
0,3
0,6
0,1
0,1
0,3
0,3
0,2 0,6
Tổng số 1,31 2,5 1,0 1,8 0,31 0,7
Ghi chú: 1 Con số này khác tổng của các số trên do sai số làm tròn trong tính toán.
KẾT LUẬN
Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-Hye lên cầm quyền vào năm 2013, khi nền kinh
tế Hàn Quốc trong bối cảnh toàn cầu, đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức. Để nền kinh tế Hàn Quốc vượt qua được trở ngại và phát triển mạnh, Hàn
Quốc cần chuyển đổi mô hình kinh tế từ nền kinh tế định hướng huớng xuất khẩu sang
nền kinh tế sáng tạo vì nếu chỉ dựa vào mô hình tăng trưởng cũ, quốc gia này sẽ đạt
đến ngưỡng giới hạn và không tăng trưởng hơn nữa.
Nền kinh tế sáng tạo, theo quan điểm của Tổng thống Park, là nền kinh tế được
thách thức bởi sự hội tụ của KH&CN với ngành công nghiệp, sự kết hợp của văn hóa
với ngành công nghiệp và sự thăng hoa của đổi mới sáng tạo. Nền kinh tế sáng tạo
vượt ra ngoài sự mở rộng đơn thuần của các thị trường hiện có, tạo lập thị trường mới
và tạo việc làm trên cơ sở của sự hội tụ.
40
Để thực hiện chuyển đổi sang nền kinh tế sáng tạo, chính quyền của Tổng thống
Park đã đặt ra ba mục tiêu, sáu chiến lược và hai tư nhiệm vụ rất cụ thể, chi tiết. Thực
sự, đây là những định hướng rất tốt, kết hợp chính phủ, doanh nghiệp tạo thành hệ
sinh thái kinh tế sáng tạo như Tổng thống Park Geun-Hye kỳ vọng.
Ngoài ra, để hiện thực hóa nền kinh tế sáng tạo, Hàn Quốc phải thực hiện một loạt
các cải cách nhằm thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế của quốc gia về trung hạn
bằng cách tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao năng suất. Các cải cách cơ cấu sẽ làm
tăng GDP khoảng 1,25% sau 5 năm và 2,5% sau 10 năm. Trong khi khoảng 2/3 tác
động bắt nguồn từ những lợi ích mà năng suất mang lại, thì việc làm cũng được dự báo
sẽ tăng khoảng 100.000 việc làm sau 5 năm (0,4% lực lượng lao động năm 2014) và
khoảng 180.000 việc làm sau 10 năm.
Một số cải cách cơ cấu theo khuyến nghị nếu được thực thi, sẽ thu hẹp khoảng cách
bất bình đẳng thu nhập giữa hộ gia đình. Ví dụ, trình độ học vấn cao và nỗ lực trau dồi
kỹ năng mở ra cho người lao động nhiều cơ hội việc làm và cũng làm giảm bất công
trong chi trả lương. Bên cạnh đó, việc giảm tính hai mặt của thị trường lao động sẽ hạn
chế tình trạng chênh lệch thu nhập giữa lao động thường xuyên và lao động không
thường xuyên, trong khi đó phụ nữ tham gia làm việc toàn bộ thời gian sẽ làm giảm
bất bình đẳng thu nhập giữa các giới.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Phương Dung
Phạm Thị Thảo
Nguyễn Hồng Hà
Tài liệu tham khảo
1. The Future of Innovation in Korea of Korea Economic Institute of America,
International Journal of Korean Studies, Vol. XVIII, No. 1, 2014
2. Korea’s economy, a publication of Korea Economic Institute of America, 2015
3. “Better policies” series Korea - policies priorities for a dynamic, inclusive and
creative economy, OECD, October 2015
4. Building a Creative Economy in South Korea: Analyzing the Plans and
Possibilities for New Economic Growth, Korea Economic Institute of America,
December 10, 2013
5. Creative Economy in Korea,
https://en.wikipedia.org/wiki/Creative_Economy_in_Korea
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_mo_hinh_nen_kinh_te_sang_tao_cua_han_quoc.pdf