Nông thôn ở các khu vực kém phát triển trên thế giới ngày nay phải đối mặt
với những thách thức và cơ hội mới như môi trường quốc tế phức tạp và cạnh
tranh cao, dân số, tài nguyên đang cạn kiệt và của biến đổi khí hậu cũng như
những thành tựu đột phá trong khoa học và công nghệ.
Mô hình phát triển nông thôn mới đối với các nước đang phát triển trong thế
kỷ 21 đề cập đến sự toàn diện, hướng tới phát triển một cách bền vững trong bối
cảnh kinh tế - xã hội mới của thế giới. Mô hình nhấn mạnh sự cần thiết của một
chiến lược đa ngành, không chỉ tập trung vào nông nghiệp mà còn cả công nghiệp
nông thôn và dịch vụ, không chỉ ở khu vực nông thôn mà cả liên kết giữa nông
thôn và thành thị.
Mục tiêu của mô hình phát triển nông thôn mới là cung cấp cho các nhà
hoạch định chính sách một khuôn khổ cụ thể đối với việc nhận thức các yếu tố
cần được xem xét trong quá trình xây dựng các chính sách phát triển nông thôn
hiệu quả. Những chính sách này sẽ giúp cải thiện phúc lợi của người dân vùng
nông thôn, góp phần phát triển kinh tế và xã hội toàn diện, tổng thể của một quốc
gia cũng như xem xét tính bền vững môi trường.
Tuy nhiên, những chính sách và chiến lược cần phải được thiết kế, xây dựng
chi tiết và cụ thể theo điều kiện của mỗi quốc gia và phải được điều chỉnh theo
thời gian khi điều kiện thay đổi. Điều này đòi hỏi việc phân tích chi tiết vốn tự
nhiên, kinh tế, xã hội và thể chế vốn cũng như trực tiếp giải quyết các vấn đề về
dân số, chính phủ, khu vực tư nhân và các bên liên quan khác. Chiến lược không
phải là một quá trình có thể được chỉ đạo từ bên ngoài phạm vi một nước mà đòi
hỏi phải có kiến thức địa phương sâu sắc về các chi tiết cụ thể của một nước cũng
như sự tham vấn và đàm phán với các đại diện địa phương có liên quan từ cộng
đồng cho tới các cấp chính phủ.
58 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Mô hình phát triển nông thôn mới trong thế kỷ 21 công cụ cho các nước đang phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n-đô thị
và tạo điều kiện cho sự hội nhập của khu vực nông thôn. Việc mở rộng sử dụng
các nền tảng chính phủ điện tử cũng cung cấp cho người dân nông thôn có khả
năng tương tác trực tiếp với chính quyền và nâng cao nhận thức về các vấn đề có
liên quan ở cấp địa phương, tạo những tiềm năng cho sự tăng trách nhiệm giải
trình của chính phủ và năng lực quản trị.
Nguồn năng lượng sạch mở ra nhiều cơ hội phát triển ở nông thôn
Đảm bảo cung cấp năng lượng là chìa khóa cho sự phát triển nông thôn.
Ngành năng lượng trong thế giới nông thôn đang phát triển nay có hai nhược
điểm lớn: việc sử dụng quá mức các nguồn năng lượng truyền thống, chẳng hạn
như gỗ và chất thải nông nghiệp, và sự phân bố không đồng đều của các nguồn
năng lượng tiên tiến, chẳng hạn như các sản phẩm dầu khí, điện và nhiều nguồn
khác. Điều này không hiệu quả và cũng đặt ra nhiều mối đe dọa đối với môi
trường cũng như sức khỏe của người dân. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, gần 2 triệu
người chết mỗi năm vì bệnh viêm phổi, bệnh phổi mãn tính và ung thư phổi, mà
nguyên nhân liên quan chặt chẽ với việc tiếp xúc không khí bị ô nhiễm trong nhà
do nấu ăn bằng than và sinh khối (WHO/UNDP, 2009). Sự tiếp cận với những
nguồn năng lượng tốt hơn, sạch hơn và bền vững hơn không chỉ có lợi cho phát
triển kinh tế-xã hội, mà còn có lợi cho con người và môi trường.
Kết nối cộng đồng ở vùng sâu vùng xa với mạng lưới điện quốc gia đôi khi sẽ
đem lại hiệu quả kinh tế vì sự xa xôi, dân cư thưa thớt và nhu cầu năng lượng
trung bình tương đối thấp (Hermann và Welsch, 2014). Phi tập trung cung cấp
năng lượng, thông qua thủy điện, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, là một lựa
chọn khả thi để cung cấp cho vùng sâu vùng xa các nguồn năng lượng bền vững.
Hơn nữa, dựa vào các nguồn năng lượng sạch có thể tạo ra sự bổ sung chính sách
(ví dụ như thông qua tăng trưởng xanh) và giảm thiểu tác động tiêu cực về môi
trường (Brown et al, 2011):
• Năng lượng gió: Xem xét những thách thức môi trường khu vực nông thôn
hiện đang phải đối mặt tại hầu hết các vùng đang phát triển, năng lượng gió có thể
cung cấp một giải pháp bền vững giá trị trong sản xuất điện. Tua-bin dùng để
chuyển đổi gió thành năng lượng không làm giảm chất lượng không khí và nước,
39
và cũng không thải ra CO2. Hơn nữa, sản xuất năng lượng này không yêu cầu bất
kỳ khai thác, vận chuyển, lưu trữ hoặc đốt cháy trong suốt toàn bộ quá trình.
Cùng với đó, năng lượng gió có thể điểu chỉnh được theo nhu cầu bằng tua bin.
Bằng cách này, họ có thể cung cấp năng lượng cho một trang trại, toàn bộ một
cộng đồng nông thôn hoặc thậm chí là những khu vực trung tâm còn lớn hơn, đáp
ứng hiệu quả cho nhu cầu năng lượng. Khu vực nông thôn đặc biệt thích hợp cho
các ứng dụng năng lượng gió vì chúng thường có diện tích lớn đất trống. Nhà
máy điện gió cũng tạo ra các cơ hội đa dạng hóa thu nhập cho chủ đất, tăng thu
nhập của họ cho mỗi mẫu đất và tạo ra doanh thu thuế bổ sung đối với các cộng
đồng địa phương. Cuối cùng, ảnh hưởng sinh thái của các tua bin gió là rất thấp
và không làm loại bỏ các ứng dụng khác của đất: trồng cây và chăn thả gia súc
• Năng lượng mặt trời: Năng lượng mặt trời cung cấp một loạt các lợi ích cho
sự phát triển nông thôn. Một số công nghệ hiện đang tận dụng năng lượng mặt
trời: hệ thống quang điện (PV) và hệ thống điện năng lượng mặt trời tập trung
(CPS). Tất cả các ứng dụng năng lượng mặt trời đều thân thiện với môi trường,
giống như năng lượng gió, chúng không làm giảm chất lượng không khí và nước,
không phát thải khí CO2 và không yêu cầu bất kỳ hoạt động khai thác, vận
chuyển, tàng trữ và đốt. Chúng cung cấp một nguồn năng lượng có thể điều chỉnh
được để đáp ứng nhu cầu của một cộng đồng nông thôn thông qua các ứng dụng
ngoài điện lưới hoặc một khu vực lớn hơn nhiều nhờ vào cài đặt nối điện lưới.
Nhược điểm chính của các nhà máy năng lượng mặt trời là chi phí. Vốn cần thiết
để tạo ra một nhà máy năng lượng mặt trời để cung cấp năng lượng cho một khu
vực rộng lớn có thể là một vấn đề lớn, đặc biệt là với các cộng đồng nông thôn
nghèo ở các nước đang phát triển. Một hạn chế khác là năng lượng mặt trời là
không có vào ban đêm và thời tiết xấu có thể gây ra biến động trong việc cung
cấp năng lượng mặt trời. Để giải quyết vấn đề này, pin hoặc các hình thức lưu trữ
năng lượng khác là cần thiết, và lại tăng thêm chi phí.
• Thủy điện: thủy điện chuyển đổi năng lượng động học được lưu trữ trong
dòng nước chảy thành điện, cải thiện việc tiếp cận điện năng ở các khu vực nông
thôn xa xôi không thể kết nối với lưới điện quốc gia. công nghệ thủy điện là một
kỹ thuật đã được thiết lập từ lâu và hoạt động hiệu quả, nhưng đôi khi đi kèm với
chi phí môi trường, đặc biệt là khi phải xây dựng các đập lớn.
Nhiên liệu sinh học có thể là một động cơ phát triển nông thôn
Việc khai thác các công nghệ nhiên liệu sinh học bền vững mở ra nhiều cơ
hội, bao gồm tạo việc làm ở nông thôn (từ trồng nguyên liệu chế biến), tạo thêm
nhiều lựa chọn sinh kế cho các hộ gia đình nông thôn, cải thiện hiệu quả năng
lượng và sức khỏe thông qua bảo vệ môi trường và tăng năng suất. Một lợi ích
gián tiếp khác bao gồm cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, phổ biến các kiến thức
và kỹ năng, và sự gia tăng năng suất nông thôn và chất lượng cuộc sống.
40
Mở rộng các ngành công nghiệp nhiên liệu sinh học cho phép nông dân đa
dạng hóa sản xuất nông nghiệp, cho phép họ hướng tới các hoạt động thị trường
thay vì tự cung tự cấp. Một số sản phẩm này cũng có thể được hướng tới các thị
trường xuất khẩu hoặc tới các cộng đồng hoặc các khu vực khác. Đồng thời việc
sản xuất nhiên liệu sinh học tạo ra các sản phẩm phụ và dư lượng đó là rất quý giá
đối với các loại hoạt động. Ví dụ, glycerine không chỉ là một sản phẩm phụ của
sản xuất dầu diesel sinh học, mà còn sử dụng rộng rãi trong dược phẩm và mỹ
phẩm (IEA, 2010).
Việc tiếp cận nhiều hơn với năng lượng cũng trực tiếp ảnh hưởng đến chất
lượng của ngành y tế, đem lại điện và khả năng bảo quản thuốc và sử dụng các
công nghệ y tế, dụng cụ, do đó tăng khả năng điều trị và xét nghiệm. Nó cũng có
tác động tích cực gián tiếp tới giáo dục, xóa đói giảm nghèo và môi trường tại địa
phương. Hơn nữa, nhiên liệu sinh học có thể tiết kiệm thời gian cho phụ nữ và trẻ
em nông thôn cho việc đi lấy củi và các hoạt động hộ gia đình thời gian khác.
Điều này có thể cải thiện bình đẳng giới, tạo cho phụ nữ cơ hội tìm kiếm việc làm
và giáo dục ngoài gia đình. Định vị ngành công nghiệp nhiên liệu sinh học ở các
khu vực nông thôn là cơ bản để đảm bảo các tài sản có được cải thiện sinh kế địa
phương thông qua đầu tư vào giáo dục và chăm sóc sức khỏe.
Ở Đông Nam Á, giá dầu tăng, nguồn nhiên liệu hóa thạch hạn chế và thách
thức môi trường bền vững có nghĩa là có một nhu cầu rất lớn cho nguồn năng
lượng thay thế. Nhiên liệu sinh học có thể là câu trả lời, với những cải tiến lớn
trong tương lai gần.
Công nghệ nông nghiệp hiện đại có thể thúc đẩy nông nghiệp quy mô nhỏ
Có nhiều cơ hội để tăng cường vai trò của nền nông nghiệp ở cả nền kinh tế
nông thôn và nền kinh tế quốc gia của các nước đang phát triển. Những cơ hội
này chủ yếu tập trung vào công nghệ- nhưng không nhất thiết là công nghệ cao.
Trong khi ở các nước phát triển, hiện đại hóa nông nghiệp theo hình thức cơ khí
hóa, lựa chọn sinh học, sử dụng hóa chất và chuyên môn hóa; thì ở những quốc
gia nghèo hơn, những phương pháp này lại được thực hiện rất không đồng đều do
chi phí cao.
Do vậy, hiện đại hóa ở những nước đang phát triển chủ yếu đạt được thông
qua các phương pháp ít tốn kém, như tăng cường tiếp cận của nông dân với việc
kết hợp các loại cây trồng năng suất cao hơn, đầu vào (như phân bón) và hệ thống
tưới tiêu, cùng với những nỗ lực chống dịch hại cây trồng, tăng độ phì nhiêu màu
mỡ của đất đai và cải thiện quản lý nước. Tuy nhiên, những cải tiến này, trụ cột
chính của Cuộc Cách mạng xanh, được thực hiện không đồng đều ở các nước
đang phát triển. Trong khi Mexico, Ấn Độ, Braxin và một số nước Đông Nam Á
đã đạt được những thành công đáng chú ý, mặc dù đây là những khu vực ngèo đói
41
dai dẳng cũng cực và thiếu ăn, thì ở Châu Phi, chúng được thông qua một cách
chắp vá và ở mức hạn chế do các vấn đề về quản trị, thiếu hạ tầng, những giới hạn
vật lý, như nước hay hạn chế địa lý cụ thể.
Xét đến những mối đe dọa do biến đổi khí hậu gây ra, tư duy mới là rất cần
thiết để giải quyết vấn đề sử dụng nước không bền vững, bao gồm việc quản lý
thủy lợi kênh mương, áp dụng công nghệ vi-thủy lợi, sử dụng phương phép tiên
tiến để nâng nước, và áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Việc sử dụng
công nghệ một cách sáng tạo cần thích ứng với các bối cảnh khác nhau và các
thực tế cụ thể. Ví dụ, ở Tanzania, cải thiện áp dụng công nghệ nông nghiệp hiện
đại và hệ thống thủy lợi sẽ là chìa khóa để tăng thu nhập cho người dân nông thôn
đang ngày càng gia tăng đông hơn cũng như hạn chế ảnh hưởng của tỷ lệ sinh
cao.
Công nghệ bao gồm phương án tiết kiệm nước, nhằm tăng lợi ích tạo ra bởi
mỗi lít nước và kỹ thuật dự trữ, nhằm tạo ra nhiều nước hơn và để giải quyết vấn
đề mùa vụ, lượng mưa không ổn định, lũ lụt và hạn hán. Các phương án quy mô
nhỏ, chi phí thấp là các giải pháp hợp lý nhất ở đa số vùng nông thôn ở các nước
đang phát triển, những khu vực thường thiếu năng lực đầu tư và hạ tầng. Vòi
phun chi phí thấp và công nghệ vi thủy lợi chẳng hạn như xô, thùng và hệ thống
nhỏ giọt vi ống cũng giúp các tiểu chủ và các xí nghiệp nông nghiệp bằng cách
tăng sản lượng nông nghiệp và an ninh lương thực. Việc lắp đặt, bảo trì và sử
dụng cũng giúp tạo ra các cơ hội việc làm ở khu vực nông thôn, cả trong và ngoài
ngành nông nghiệp. Tận dụng những nỗ lực này sẽ là điểm khởi đầu tốt để xây
dựng và phát triển chiến lược quản lý nước bền vững.
Các chính sách hiện đại hóa nông nghiệp thất bại khi không có đủ nguồn lực,
chẳng hạn như cán bộ khuyến nông không được đào tạo tốt và không được trang
bị tốt, không có phương tiện tiếp cận tới những cộng đồng nông thôn rải rác; khi
công nghệ không phù hợp với nhu cầu và năng lực địa phương; và khi không có
đủ ưu đãi. Khi những chính sách này thành công, yếu tố chủ chốt bao gồm cam
kết chính trị mạnh mẽ; sự tham gia của người dân vào việc phát triển kỹ thuật mới
– được hỗ trợ bởi chuyển giao tri thức dựa trên CNTT – và trong đối thoại chính
sách thông qua tổ chức nông dân; hiện đại hóa quản lý nông nghiệp; và cung cấp
một vài hình thức bảo đảm tài chính cho nông dân; ví dụ như tiếp cận tín dụng
hợp lý, liên kết bền vững với công nghiệp chế biến hay trợ cấp. Ví dụ, năng suất
cao hơn sẽ chỉ cho thu nhập cao hơn nếu chi phí tiếp cận đầu vào (ví dụ như lãi
thanh toán nợ) được giữ ở mức đủ thấp cho phép thu nhập thuần tăng và mở ra
khả năng đầu tư vào những phương tiện sản xuất hiện đại này.
Cuối cùng, tạo giống cây trồng và kỹ thuật thực phẩm tạo ra cơ hội để tăng
khả năng phục hồi với biến đổi khí hậu, tăng cường sản xuất lương thực bền
42
vững, và giải quyết vấn đề an ninh lương thực, đặc biệt trong bối cảnh gia tăng áp
lực dân số ở hầu hết các khu vực vùng cận Sahara Châu Phi. Biến đổi gen cho
phép tạo ta các loại hạt mới có thể chịu đựng tốt hơn với các thảm họa biến đổi
khí hậu được dự báo, đặc biệt là hạn hán và lũ lụt. Một số loại hạt mới đòi hỏi ít
nước, thuốc trừ sâu, phân bón hơn, giúp giải quyết các vấn đề môi trường. biến
đổi gen cũng giúp tăng cường giá trị dinh dưỡng của một số loại cây trồng nhất
định, chẳng hạn như “Gạo vàng”, chứa lượng vitamin A cao. Những loại cây
trồng này có thể giúp giảm bớt vấn đề thiếu hụt dinh dưỡng và nâng cao sức khỏe
của người dân vùng nông thôn nghèo ở các nước đang phát triển.
Trong đa số các trường hợp, những đổi mới công nghệ, được thực hiện bởi
khối tư nhân, cho phép chính phủ nắm bắt. Do đó, một phần thách thức đối với
những nhà hoạch định chính sách là phải xác định và huy động các cơ hội phát
triển nhanh và lớn mà công nghệ mang đến cho quá trình nông thôn để đưa chúng
vào chính sách. Chính phủ cũng đóng vai trò to lớn trong việc cung cấp hạ tầng
nền tảng, hỗ trợ việc truyền bá và sử dụng những công nghệ này. Nó bao gồm
việc đầu tư vào hạ tầng vật lý như điện, hệ thống thông tin, đầu tư vào hạ tầng
mềm như sức khỏe, giáo dục, nghiên cứu và phát triển, cũng như hệ thống quản lý
như quyền sở hữu trí tuệ và hành pháp.
Phát triển và phổ biến vắc xin và các công nghệ y tế dự phòng khác
Tiêm chủng được coi là một trong các nhu cầu cấp thiết nhất ở các nước đang
phát triển. Mặc dù có một số chương trình phổ biến vắc xin tiêm chủng – ví dụ
như chương trình mở rộng của WHO về vắc xin tiêm chủng (EPI) – thì vẫn tồn tại
chênh lệch xét về việc tiếp cận các loại vắc xin mới giữa khu vực thành thị và
nông thôn ở các nước phát triển và đang phát triển.
Chuyển giao công nghệ và sản xuất thuốc trong nước là những cách hiệu quả
để giải quyết những chênh lệch này cùng với xây dựng năng lực địa phương.
Trong nhiều năm, việc chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển đa
làm tăng đáng kể nguồn cung vắc xin, thậm chí còn làm giảm giá thành vắc xin
(WHO, 2011). Sản xuất vắc xin trong nước không phải lúc nào cũng hiệu quả về
chi phí, nhưng thiết lập một chính sách vắc xin có thể giúp các quốc gia xác định
làm thế nào và thời gian nào để sản xuất trong nước. Việc tạo ra các liên danh,
mua lại và thành lập các công ty đa quốc gia ở các nước đang phát triển đang
ngày càng trở nên phổ biến và là một trong những cách chuyển giao công nghệ,
cũng giúp tăng cường nghiên cứu và phát triển trong nước. Thiếu năng lực nghiên
cứu và phát triển ở các nước đang phát triển thực sự là trở ngại lớn nhất đối với
chuyển giao công nghệ vắc xin, theo cảm nhận của cả bên chuyển giao và bên
nhận chuyển giao (WHO, 2011). Việc tạo ra một môi trường trong nước tạo điều
43
kiện cho việc phổ viến công nghệ y tế và hạ tầng nghiên cứu để vận hành là chìa
khóa để giải quyết vấn đề này.
Ngoài vắc xin, một số biện pháp y tế dự phòng khác cũng rất quan trọng. Các
công nghệ chuyển hóa nước sạch, quản lý nước và nhà vệ sinh thân thiện với môi
trường, hiệu quả về chi phí, phù hợp về văn hóa và bền vững cần đáp ứng các yêu
cầu cơ vản và cải thiện sinh kế. Cùng với những đổi mới công nghệ này, việc giáo
dục trẻ em và người lớn về vấn đề vệ sinh thông qua các hoạt động tham gia, đào
tạo chuyên sâu của các nhân viên cộng đồng, sử dụng các phương tiện truyền
thông, đến tận nhà thăm và kiểm tra, quan hệ đối tác công –tư với các ngành công
nghiệp về vệ sinh có thể thúc đẩy việc phổ biến công nghệ và thúc đẩy thực hành
vệ sinh tốt hơn (WaterAid, 2013).
44
CHƯƠNG 3. MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỚI
3.1. Kinh nghiệm phát triển nông thôn mới ở một số nước
Một số vùng đang phát triển đã thành công hơn trong việc giải quyết vấn đề
phát triển nông thôn so với các vùng khác. Nghiên cứu này phân tích những kiểu
mẫu qua các nghiên cứu tình huống ở 6 quốc gia – Hàn Quốc, Bờ Biển Ngà,
Tanzania, Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc. Việc nắm rõ những động lực và
quỹ đạo phát triển nông thôn ở những khu vực và quốc gia này có thể làm sáng tỏ
những thách thức trong việc làm thế nào để thu hẹp khoảng cách thành thị - nông
thôn và cuối cùng là đóng góp vào sự phát triển quốc gia.
Hàn Quốc: Trở thành quốc gia phát triển chỉ trong 1 thế hệ
Sự tăng trưởng nhanh chóng của Hàn Quốc từ một nước chủ yếu là nông
nghiệp và nhận viện trợ lương thực thành một trong những nền kinh tế tăng
trưởng nhanh nhất OECD thực sự hứng khởi. Nghiên cứu tình huống này khám
phá các yếu tố đằng sau quá trình chuyển đổi, tập trung vào vai trò của chính sách
phát triển nông thôn từ những năm 1950 trở đi. Mối quan tâm đặc biệt là chương
trình quốc gia về phát triển nông thôn có tên là Saemaul Undong, hay phong trào
xây dựng nông thôn mới. Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng và thành công
của Hàn Quốc liên quan đến quá trình di cư quy mô lớn từ nông thôn ra thành thị,
cũng như làm tăng chênh lệch thu nhập giữa nông thôn - thành thị. Phong trào
Saemaul Undong đóng vai trò như bước đệm trong quá trình chuyển đổi này, giúp
phân phối lại của cải thông qua trợ cấp cho nông nghiệp, tăng năng suất nông
nghiệp và cung cấp cơ sở hạ tầng cho khu vực nông thôn. Tuy cơ cấu cách thức
thực hiện của nước Hàn Quốc rất độc đáo, nhưng phương thức thực hiện cũng
giúp cung cấp những bài học quý giá cho các nước đang phát triển.
Saemaul Undong là chiến lược đa cấp đa ngành nâng cao mức sống khu vực
nông thôn, đồng thời hạn chế chênh lệch tiền công giữa khu vực thành thị và nông
thôn tiếp theo quá trình công nghiệp hóa thành công của Hàn Quốc.
Hàn Quốc thành công trong quá trình phát triển nông thôn là nhờ sự kết hợp
các yếu tố sau:
- Tầm nhìn mạnh mẽ của chính phủ và khả năng lập kế hoạch, điều phối và
thực hiện chiến lược đa ngành, bao gồm kết hợp cách tiếp cận từ trên
xuống dưới và từ dưới lên trên, giám sát, đánh giá, và cơ chế khuyến khích
mạnh mẽ các hành động tập thể.
- Củng cố tổ chức để đưa ra các chiến lược phát triển quốc gia và nông thôn
giúp xây dựng nền tảng cho quá trình phát triển kinh tế và thực hiện các
chính sách một cách hiệu quả.
- Trước đây đã từng thực hiện các chính sách hỗ trợ, trong đó có chính sách
cải cách ruộng đất năm 1949, đầu tư sớm vào giáo dục, và có một mức vốn
45
xã hội nhất định trong khu vực nông thôn để hợp tác, xây dựng đồng thuận
và hành động tập thể.
- Các chính sách giúp nâng cao năng suất nông nghiệp, bao gồm cải tiến
công nghệ và đầu tư bền vững vào hạ tầng nông thôn.
- Quá trình công nghiệp hóa nhanh và khả năng tiếp nhận dân di cư từ khu
vực nông thôn của khu vực thành thị
- Khả năng khai thác quá trình chuyển đổi nhân khẩu học, chú trọng giáo
dục và các chương trình kế hoạch hóa gia đình của chính phủ.
- Hỗ trợ mạnh mẽ cho các nông hộ thông qua chính sách giá và trợ cấp cho
nguyên liệu đầu vào nông nghiệp trọng yếu.
- Thúc đẩy công nghiệp nông thôn và các hoạt động phi nông nghiệp
Việt Nam: Nền kinh tế thị trường đa dạng đến quá trình phát triển nông thôn
toàn diện hơn
Sau chiến tranh, Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua quá trình Đổi mới.
Hiện nay, Việt Nam tập trung vào việc đẩy mạnh phúc lợi xã hội để giải quyết sự
bất bình đẳng đang gia tăng tại các khu vực khác nhau trong xã hội. Việt Nam
không có bất kỳ chính sách phát triển nông thôn cụ thể nào trước năm 2007,
nhưng thay vào đó tập trung chủ yếu vào nền nông nghiệp. Năm 2008, Việt Nam
thông báo Chương trình mục tiêu quốc gia về Phát triển nông thôn mới. Kinh
nghiệm của Việt Nam cho thấy cần phải có chính sách phát triển nông thôn bao
quát, toàn diện, phù hợp, thống nhất và năng lực của chính quyền cấp tỉnh, đầu tư
vào hàng hóa và dịch vụ công, đầu tư liên tục và quá trình nâng cao nông nghiệp
hỗ trợ lẫn nhau và quá trình công nghiệp hóa.
Thái Lan: Hướng đến thu hẹp khoảng cách nông thôn – thành thị
Thái Lan sớm đầu tư vào hạ tầng nông thôn và tập trung vào việc tăng cường
sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa nhiên liệu. Tuy nhiên, quá
trình công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu trong thập niên 80 đã dẫn đến chênh
lệch lớn giữa nông thôn – thành thị, và chính phủ đã và đang phấn đấu nâng cao
phúc lợi và tiếp cận các dịch vụ cơ bản và đa dạng hóa các hoạt động kinh tế.
giống như các quốc gia khác, kinh nghiệm của Thái Lan nhấn mạnh tầm quan
trọn của chiến lược phát triển nông thôn toàn diện. Đầu tư vào vốn con người và
các chiến lược linh hoạt, tận dụng môi trường quốc tế không ngừng phát triển
cũng là yếu tố quan trọng của quá trình phát triển nông thôn thành công.
Trung Quốc: Từ nền kinh tế khép kín đến cỗ máy công nghiệp
Trong hơn 30 năm qua, Trung Quốc đã chuyển mình từ một nước nghèo, xã
hội nông thôn trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Sự phát triển thành công
46
này chủ yếu dựa vào quá trình công nghiệp hóa tập trung nhiều vào sức lao động
và tập trung ở khu vực đô thị, và chiến lược hiện đại đòi hỏi kết hợp phát triển
khu vực và đa dạng hóa kinh tế với đầu tư lớn vào mạng lưới giao thông khu vực,
các dịch vụ công cơ bản và vốn con người. Tuy đã đạt được những tiến bộ lớn,
nhưng người dân nông thôn vẫn lạc hậu so với người dân thành thị về hầu hết các
chỉ số phúc lợi; khoảng cách này là trọng tâm chú ý của chính phủ. Bài học của
Trung Quốc bao gồm tầm quan trọng của việc quản trị đa cấp, năng lực mạnh mẽ
của chính phủ trong việc điều phối, giám sát, và tính linh hoạt cùng các chính
sách đa ngành hỗ trợ đầu tư.
Bờ Biển Ngà: Xây dựng lại nền nông nghiệp định hướng xuất khẩu
Bờ Biển Ngà đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển năng động, từ ngành công
nghiệp bùng nổ “diệu kỳ” đến phá sản hàng hóa, bất ổn chính trị làm cản trở việc
thiết kế và thực hiện chiến lược phát triển nông thôn toàn diện. Nước này ưu tiên
phát triển và đa dạng hóa nền nông nghiệp là động cơ của nền kinh tế, chứ không
thực hiện các chiến lược phát triển nông thôn rõ ràng. Quá trình thực hiện phát
triển nông thôn chắp vá của Bờ Biển Ngà cho thấy cần phải có tầm nhìn chiến
lược rõ ràng và linh hoạt, sự ổn định chính trị và xã hội, phương pháp tiếp cận đa
ngành vượt ra ngoài phạm vi nông nghiệp, và quá trình tích lũy vốn bền vững.
Tanzania: từ Ujamaa đến tự do hóa nền kinh tế
Chiến lược phát triển nông thôn của Tanzania phát triển từ phong trào
Ujamaa thất bại trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa đến quá trình sản xuất nông
nghiệp trong quá trình tự do hóa nền kinh tế, và gần đây hơn là đến các hành động
nhằm xóa đói giảm nghèo. Kinh nghiệm phát triển nông thôn nghèo của Tanzania
cho thất tầm quan trọng của việc đưa ra các ưu đãi đầy đủ cũng như tầm quan
trọng của khả năng thực hiện mạnh mẽ để đạt được kế quả phát triển tích cực. Nó
cũng nhấn mạnh sự cần thiết của các chiến lược phát triển nông thôn vượt ra
ngoài lĩnh vực nông nghiệp và giải quyết các vấn đề nông thôn một cách toàn
diện. Bài học khác bao gồm sự cần thiết của cơ chế quản trị tốt và quá trình điều
phối tốt hơn giữa các nhà đầu tư nước ngoài.
3.2. Mô hình phát triển nông thôn mới cho các nước phát triển
Mô hình phát triển nông thôn mới (NRDP) cần phải kết hợp tập hợp các
thách thức và cơ hội mới mà các nước đang phát triển ngày nay đang phải đối
mặt, cũng như những bài học kinh nghiệm từ cả các nước phát triển và đang phát
triển. Bảng 1 tóm tắt các yếu tố chính của mô hình cũ, những thách thức và cơ
hội mới cho các vùng nông thôn ở các nước đang phát triển, và ý nghĩa của chúng
đối với NRDP
47
Bảng 1. Phát triển hướng tới mô hình phát triển nông thôn mới
Mô hinh cũ
Những thách thức và
cơ hội mới
Mô hình phát triển
nông thôn mới
Kinh tế
Quá trình chuyển đổi từ nông
nghiệp sang công nghiệp với
vai trò là động lực chính của
sự phát triển (1950-1960)
Hiện đại hóa nông nghiệp
(1960-1980)
Phát triển nông thôn tổng hợp
(từ năm 1970 trở đi)
Điều chỉnh cơ cấu (1980-
1990)
Các chương trình đầu tư
ngành(1990 trở đi)
phát triển kinh tế địa phương
(những năm 1980), đã phát
triển thành các chương trình
phát triển lãnh thổ nông thôn
trong những năm 2000
Đa dạng hóa nông thôn (Từ
những năm 2000 trở đi)
Khuôn khổ phát triển nông
thôn toàn diện (Từ năm 2000
trở đi)
Công nghiệp hóa và sản xuất
hướng đến xuất khẩu có thể
không phải là yếu tố chủ đạo
ở hầu hết các quốc gia đang
phát triển trong 1 thế giới toàn
cầu hóa mở và trong bối cảnh
cạnh tranh mạnh mẽ từ Trung
Quốc.
Nông nghiệp không thể mang
lại sinh kế bền vững khi dân
số ngày càng tăng cao ở
nhiều quốc gia có tỉ lệ người
dân gắn với đất đang tăng
mạnh.
Được thiết kế với điều kiện cụ
thể (tự nhiên, kinh tế, xã hội và
thể chế) của mỗi quốc gia.
Xem xét vai trò của khu vực
nông thôn trong mối quan hệ
với thành thị và khu vực, lồng
ghép sự phát triển của khu vực
nông thôn với chiến lược quốc
gia rộng hơn.
Đa-ngành. Các biện pháp cần
hướng đến tất cả các lĩnh vực
kinh tế mà có thể đóng góp vào
tăng trưởng sản xuất, nâng cao
tính khả thi của khu vực nông
thôn, và giúp con người đáp
ứng các nhu cầu cơ bản, bao
gồm cả nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ, du lịch, công
nghiệp ICT nông thôn.
Quản trị và thể chế
Tiếp cận từ trên xuống (những
năm 1950 đến 1970)
Nâng cao nhận thức về vai trò
của phụ nữ (Những năm
1970)
Phát triển dựa vào cộng đồng
(từ những năm 1980 trở về
sau)
Giới tính và phát triển giới tính
(từ những năm 1980 trở về
sau)
Nâng cao nhận thức về sự
mong manh của nhiều quốc
gia đang phát triển: năng lực
hạn chế để có thể thực hiện
các chiến lược và quản lý các
vùng nông thôn xa xôi
Tăng cường nhận thức về tầm
quan trọng của việc giải quyết
bất bình đẳng giới tính ở tất cả
các giai đoạn của chính sách
phát triển và các chương
trìnhvà trao quyền sở hữu tài
sản cho phụ nữ cũng như
tăng cường kiểm soát các
nguồn lực để phát triển.
Đa cấp: phối hợp lập kế hoạch
và thực hiện ở cấp chính quyền
địa phương, khu vực, bộ và
trung ương; tiếp cận từ trên
xuống dưới kết hợp với các
sáng kiến từ dưới lên
Đa tác nhân: tham gia và phối
hợp của các nhóm nhân tố lớn,
các bên liên quan, các cá nhân,
tập thể, quốc gia, quốc tế cũng
như địa phương và người dân
địa phương
Toàn bộ các quyền và vai trò
quan trọng của phụ nữ trong
phát triển kinh tế và xã hội
Nghèo đói,, bất bình đẳng
và phúc lợi xã hội
Nhu cầu cơ bản (từ những
năm 1970 trở đi): cải thiện
các cơ hội kinh tế và an sinh
xã hội cho người nghèo và
những người không được bảo
vệ.
Mục tiêu phát triển thiên niên
kỷ (2000-2015) tập trung vào
xóa đói giảm nghèo và hướng
đến cải thiện các điều kiện xã
Gia tăng bất bình đẳng về thu
nhập và sự chênh lệch về
không gian trong phân bổ
nguồn lực tại hầu hết các
nước tạo ra tình trạng bất ổn
xã hội, phá hoại niềm tin trong
chính phủ
Nhận thức rằng các mục tiêu
phát triển thiên nhiên kỷ không
chú trọng đến nền tảng kinh tế
của quá trình phát triển, cũng
như bền vững môi trường
Tập trung vào nhu cầu cơ bản
và tăng trưởng bao quát. Các
biện pháp rõ ràng nên đảm bảo
nhu cầu cơ bản cho những
người nghèo nhất và những
người dễ bị tổn thương, chỉ các
biện pháp dựa trên sản xuất
không thể đảm bảo tăng trưởng
bao quát.
Xây dựng nhân lực (sức khỏe,
giáo dục) và vốn xã hội, đồng
thời kết hợp các yếu tố kinh tế
48
hội cơ bản ở các nước đang
phát triển
trong xây dựng chính sách xã
hội (Các mục tiêu phát triển
bền vững)
Môi trường:
Sinh kế bền vững tập trung
vào yếu tố môi trường (những
năm 1980-1990): cần có sự
can thiệp chiến lược để nâng
cao sinh kế và vai trò quan
tròng của vốn xã hội.
Phát triển bền vững (Những
năm 1990 đến nay)
Nhận thức về vấn đề ấm lên
toàn cầu
Nâng cao nhận thức về áp lực
dân số đối với vấn đề môi
trường
Gia tăng dân số tại các nước
đang phát triển(đặc biệt
nhanh chóng tại SSA và
Trung Đông) sẽ tạo áp lực lên
vấn đề giải quyết việc làm và
các nguồn lực
Tập trung vào vai trò của môi
trường trong việc duy trì sinh
kế và tăng trưởng kinh tế..
Dẫn dắt bởi Mục tiêu phát triển
thiên nhiên kỷ: tập trung vào
bền vững môi trường và cơ sở
kinh tế cho sinh kế ngoài các
mục tiêu xã hội
ưu tiên áp lực về dân số
trong chiến lược phát triển
Công nghệ
Những tiến bộ công nghệ
trong nông nghiệp, cơ giới và
công nghệ hạt giống (cuộc
cách mạng xanh trong những
năm 1960 và 1970)
Cơ hội công nghệ mới trong
lĩnh vực CNTT, phát triển kết
nối, tiếp cận thị trường, tiếp
cận các dịch vụ với chi phí
thấp hơn, năng lượng và các
yếu tố đầu vào khác,
Cơ hội mới trong phát triển
công nghệ nano và sinh học
công nghệ
Vận dụng sáng tạo những tiến
bộ trong công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học nhằm giảm
bớt một số hạn chế và cải thiện
những kết quả. Nên phát triển
các ứng dụng trong nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,
chính phủ và các tổ chức xã
NRDP dựa trên 8 thành phần sau (xem hình 1):
Quản trị. Một chiến lược nhất quán và mạnh mẽ là không đủ nếu năng lực
thực hiện còn yếu. Vì thế, cần cho một chiến lược hiệu quả để xây dựng năng lực
quản trị toàn vẹn ở tất cả các cấp.
Đa ngành. Mặc dù nông nghiệp vẫn là ngành cơ bản ở các nước đang phát
triển và cần là mục tiêu hướng đến của chính sách nông thôn, nhưng chiến lược
phát triển nông thôn cũng cần thúc đẩy các hoạt động phi nông nghiệp và tạo việc
làm trong các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Cơ sở hạ tầng. Cải thiện cơ sở hạ tầng cả cứng và mềm để giảm chi phí giao
dịch và tăng cường mối liên kết nông thôn-thành thị là một phần quan trọng của
mọi chiến lược ở các nước đang phát triển. Điều này bao gồm những cải thiện
trong kết nối xuyên suốt khu vực nông thôn và thành phố thứ cấp, cũng như trong
việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục và y tế.
Liên kết đô thị-nông thôn. Sinh kế nông thôn phụ thuộc vào hoạt động của
các trung tâm đô thị tiếp cận với hàng hóa, dịch vụ và công nghệ mới; tiếp xúc
với những ý tưởng mới; và việc làm tạm thời hoặc thậm chí công việc lâu dài.
Các chiến lược phát triển nông thôn thành công không đối xử với khu vực nông
thôn như là các thực thể cô lập, mà là một phần của một hệ thống gồm cả các khu
vực nông thôn và thành thị.
49
Hình 1. Mô hình phát triển nông thôn mới cho các nước phát triển
Công cụ
chính sách
Xây dựng
năng lực
của chính
phủ.
- Nâng
cao năng
suất và
khâ năng
phục hồi
NN tự cấp.
- Hiện đại
hóa NN
- Lồng
ghép vùng
nông thôn
vào GVC
- Chính
sách đất
đai.
- Thúc đẩy CN
nông thôn.
- Thúc đẩy nghề
thủ công và công
nghiệp gia đình.
- Thúc đẩy dịch vụ công
nghiệp nông thôn khu vực tư
nhân
- Thúc đẩy tiếp cận tín dụng,
tài chính và thị trường
- Thúc đẩy du lịch bền vững.
- Thúc đẩy đầu
tư hạ tầng vật
chất cơ bản
- Thúc đẩy tiếp
cận và sử
dụng CNTT
- Thúc
đẩy liên
kết thành
thị-nông
thôn
- Phát
triển
thành
phố trung
gian
- Khai
thác tốt
vấn đề di
cư trong
nước và
quốc tế.
- Cung cấp
giáo dục và
đào tạo
- Đảm bảo
điều kiện
chăm sóc
sức khỏe
cơ bản
- Chuyển
giao nguồn
lực để thúc
đẩy phát
triển
- Cải thiện
an ninh
lương thực
- Xây dựng
vốn xã hội
- Thúc đẩy
phát triển
dựa vào
cộng đồng.
Đưa vấn
đề giới
vào phát
triển.
Giải quyết vấn
đề gia tăng
dân số.
- Đảm bảo bền
vững môi
trường
- Xây dựng khả
năng phục hồi.
Bối cảnh
toàn cầu mới
Bối cảnh địa
phương
Bối cảnh cụ thể
Các chính
quyền trung
ương và địa
phương
Đa
ngành
Liên kết
thành
thị-nông
thôn
NGO
Tư nhân
Quản
trị
Cơ sở
hạ
tầng
Tính
bao
quát
Giới
tính
Nhân
khẩu
học
Tính
bền
vững
Đa cấp và
đa tác nhân
Thành phần
Tài trợ quốc tế
Cộng đồng
50
Tính toàn diện. Chính sách của Chính phủ nhắm mục tiêu một cách rõ ràng
vào giảm nghèo và bất bình đẳng ở nhiều phương diện (y tế và dinh dưỡng, giáo
dục, cơ sở hạ tầng cứng và mềm, tạo việc làm) và tránh việc loại trừ các nhóm
nhất định.
Giới tính. Cải thiện sinh kế nông thôn cần tính đến vai trò quan trọng của
phụ nữ trong phát triển nông thôn, bao gồm cả quyền sở hữu của họ và khả năng
kiểm soát và triển khai các nguồn lực.
Nhân khẩu học. Mức sinh cao và dân số già đi nhanh chóng là hai trong số
những thách thức liên quan nhất mà nông thôn ở các nước đang phát triển hiện
nay đang phải đối mặt. Mặc dù chúng có các tác động chính sách khác nhau,
nhưng giải quyết những thách thức này sẽ bao hàm sự điều phối tốt giữa các
chính sách giáo dục, y tế và bảo trợ xã hội, cũng như kế hoạch hóa gia đình.
Tính bền vững. Việc đưa tính bền vững môi trường vào các chiến lược phát
triển nông thôn không nên hạn chế ở sự phụ thuộc cao của người dân nông thôn
vào tài nguyên thiên nhiên cho sinh kế và tăng trưởng, mà còn tính dễ bị tổn
thương của họ đối với biến đổi khí hậu và các mối đe dọa từ khan hiếm năng
lượng, lương thực và nước ngọt.
3.3. Bảy bước xây dựng chiến lược phát triển nông thôn quốc gia
1. Đánh giá tình hình nông thôn, đất nước
Bước đầu tiên là tiến hành đánh giá toàn diện tình hình hiện nay của khu vực
nông thôn và nền kinh tế quốc gia. Việc đánh giá không chỉ dựa trên các phương
pháp tính thu nhập truyền thống. Phát triển là một quá trình đa chiều liên quan và
ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của cuộc sống con người, chứ không phải chỉ thu
nhập của họ. Sự tương tác giữa một số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình
này tại tất cả các nước đang phát triển dựa theo các đặc điểm về thể chế và cấu
trúc của họ, chẳng hạn như khả năng của chính phủ, biến động dân số và phát
triển môi trường bền vững:
• Tỷ lệ người dân sống ở khu vực nông thôn
• Thuế tài nguyên thiên nhiên đóng góp vào GDP
• Tổng tỷ suất sinh
• Độ mong manh, từ "cảnh báo cao độ" đến "rất ổn định"
• Các nước không có biển
• Khả năng tổn thương do biến đổi khí hậu
Hiểu rõ bối cảnh của mỗi quốc gia là điều cần thiết để triển khai một biện
pháp phát triển nông thôn cụ thể. Ví dụ, các nước có sự gia tăng dân số nhanh,
như nhiều nước châu Phi hạ Sahara, sẽ phải đối mặt với thách thức trong việc tạo
việc làm và cung cấp các dịch vụ cơ bản bền vững và an ninh lương thực. Ngược
lại, nhiều nước châu Á đang phải đối mặt với lão hóa dân số nhanh chóng và sẽ
51
cần những chính sách gắn kết xã hội cũng như chiến lược thích nghi với lực
lượng lao động đang bị thu hẹp lại. Trong trạng thái mong manh, triển khai và
thực hiện chiến lược phát triển nông thôn bền vững là rất khó bởi năng lực thực
hiện yếu kém, và ưu tiên của chiến lược là các nhu cầu cơ bản và khả năng quản
trị. Các nước không có biển còn phải đối mặt với một số vấn đề như chi phí vận
chuyển xuất khẩu cao hơn. Do đó, chiến lược phát triển nông thôn của những
nước này cần phải khắc phục triệt để hạn chế này bằng cách phát triển các hành
lang giao thông hiệu quả cũng như tập trung xuất khẩu các sản phẩm có giá trị
tính theo trọng lượng cao. Đối với những nước sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi
biến đổi khí hậu, chiến lược này có thể bao gồm một số công cụ quan trọng như
quy hoạch không gian và bản đồ nguy cơ (để phòng ngừa) và các quỹ thiên tai,
bảo hiểm hạn hán/lũ lụt, kế hoạch thích ứng, phát triển cây trồng chịu hạn hán và
thỏa thuận chia sẻ nguồn nước (để thích ứng).
2. Xác định thành phần và xây dựng nguồn vốn
Bước thứ hai là xác định các thành phần phù hợp liên quan tới việc xây dựng
và thực hiện chiến lược phát triển nông thôn, cũng như các ưu đãi cho những
thành phần này để đóng góp vào chiến lược và tổng thể phát triển nông thôn. Các
thành phần bao gồm dân số mục tiêu, các cấp chính phủ, khu vực tư nhân trong
nước và nước ngoài, người dân, và những thành phần khác như các quỹ và các tổ
chức phát triển xã hội quốc tế. Sự phối hợp hiệu quả với những thành phần là rất
quan trọng vì nhiều lý do. Điều này rất cần thiết cho việc xây dựng quyền sở hữu
và tính thống nhất trong thiết kế chiến lược tổng thể và đạt được các mục tiêu.
Tìm hiểu về dân số mục tiêu cũng là điều quan trọng để biết được nhu cầu, mối
quan tâm và sở thích của họ.
3. Những ưu đãi và trình tự chiến lược
Bước thứ ba của quá trình này là phát triển một chiến lược. Cần phải thực tế
trong việc phát triển các chiến lược, cân nhắc đến những gì có thể được thực hiện
trong bối cảnh kinh tế chính trị thường rất hạn chế của mỗi nước. Điều này liên
quan đến việc xem xét cẩn thận những đánh đổi và bổ sung các chính sách về các
vấn đề khác nhau và các bên liên quan. Các chính sách được liệt kê trong bộ công
cụ chỉ là minh họa. Trong thực tế, các nhà hoạch định chính sách cần xem xét
công cụ nào là phù hợp nhất với đặc trưng của đất nước. Đặt ra các ưu tiên và
chính sách tuần tự là những yếu tố quan trọng. Khó khăn trong nguồn lực vật
chất, tài chính và chính trị có thể giới hạn số lượng các hành động và cải cách mà
chính phủ theo đuổi bất cứ lúc nào.
4. Tìm kiếm tài chính
Tài chính là một vấn đề quan trọng cần xem xét khi xây dựng một chương
trình phát triển toàn diện, trong bối cảnh chính phủ ở các nước đang phát triển có
52
năng lực yếu kém trong huy động nguồn vốn. Trong hầu hết các trường hợp, tìm
kiếm nguồn tài trợ nước ngoài từ các tổ chức tài chính đa phương, các nhà tài trợ,
các hiệp hội, thậm chí cả các tổ chức tài chính nước ngoài và khu vực tư nhân cho
các thành phần có thể tạo ra doanh thu để trả nợ là điều rất cần thiết. Các quốc gia
có thuế tài nguyên thiên nhiên cao (ví dụ gần một phần ba các nước trong tiểu
vùng châu Phi hạ Sahara), có thể sử dụng những nguồn này để tài trợ cho chiến
lược phát triển nông thôn. Kiều hối cũng là một nguồn tài chính tiềm năng quan
trọng khác, đôi khi còn lớn hơn các dòng viện trợ và đầu tư nước ngoài. Lượng
tiền do các di dân ở thành thị gửi về cho gia đình của họ ở nông thôn cũng rất
đáng kể. Chính phủ và các đối tác phát triển khác có thể triển khai nhiều cách để
khai thác các nguồn lực cho sự phát triển địa phương mạnh mẽ hơn.
5. Thực hiện chiến lược
Khi kế hoạch đã hoàn tất và các nguồn lực đã sẵn sàng, bước tiếp theo là thực
hiện. Đây là phần quan trọng nhất của toàn bộ chiến lược, sử dụng các công cụ
chính sách có liên quan tới các thành phần chính sách được nêu trong Hình 1.
Việc này đòi hỏi sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành khác nhau với phương
thức thông tin liên lạc và trách nhiệm giải trình rõ ràng cũng như năng lực cần
thiết để thực hiện.
6. Theo dõi và đánh giá
Cơ chế giám sát và đánh giá cần được đưa vào trong chiến lược và xem xét
ngay từ giai đoạn xây dựng chiến lược. Giám sát, giải trình và điều chỉnh là cốt
lõi của một chiến lược hiệu quả với việc theo dõi tiến độ và xử lý kịp thời nếu có
phát sinh. Ngoài ra, chiến lược có thể có những điều chỉnh sau cho phù hợp với
những thay đổi bên trong như hạn hán, lũ lụt, thay đổi chính trị và xung đột dân
sự, cũng như các tác động bên ngoài như sự sụt giảm giá cả hàng hóa.
7. Thích ứng với hoàn cảnh thay đổi và bài học kinh nghiệm
Bước cuối cùng là điều chỉnh chiến lược phát triển nông thôn đáp ứng thay
đổi của hoàn cảnh và bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện. Nông thôn
không đứng yên mà liên tục phát triển theo sự thay đổi của đất nước và thế giới.
Chiến lược phát triển nông thôn cần được thiết kế chu đáo để thích ứng với những
thay đổi với chi phí thích ứng tối thiểu.
53
KẾT LUẬN
Nông thôn ở các khu vực kém phát triển trên thế giới ngày nay phải đối mặt
với những thách thức và cơ hội mới như môi trường quốc tế phức tạp và cạnh
tranh cao, dân số, tài nguyên đang cạn kiệt và của biến đổi khí hậu cũng như
những thành tựu đột phá trong khoa học và công nghệ.
Mô hình phát triển nông thôn mới đối với các nước đang phát triển trong thế
kỷ 21 đề cập đến sự toàn diện, hướng tới phát triển một cách bền vững trong bối
cảnh kinh tế - xã hội mới của thế giới. Mô hình nhấn mạnh sự cần thiết của một
chiến lược đa ngành, không chỉ tập trung vào nông nghiệp mà còn cả công nghiệp
nông thôn và dịch vụ, không chỉ ở khu vực nông thôn mà cả liên kết giữa nông
thôn và thành thị.
Mục tiêu của mô hình phát triển nông thôn mới là cung cấp cho các nhà
hoạch định chính sách một khuôn khổ cụ thể đối với việc nhận thức các yếu tố
cần được xem xét trong quá trình xây dựng các chính sách phát triển nông thôn
hiệu quả. Những chính sách này sẽ giúp cải thiện phúc lợi của người dân vùng
nông thôn, góp phần phát triển kinh tế và xã hội toàn diện, tổng thể của một quốc
gia cũng như xem xét tính bền vững môi trường.
Tuy nhiên, những chính sách và chiến lược cần phải được thiết kế, xây dựng
chi tiết và cụ thể theo điều kiện của mỗi quốc gia và phải được điều chỉnh theo
thời gian khi điều kiện thay đổi. Điều này đòi hỏi việc phân tích chi tiết vốn tự
nhiên, kinh tế, xã hội và thể chế vốn cũng như trực tiếp giải quyết các vấn đề về
dân số, chính phủ, khu vực tư nhân và các bên liên quan khác. Chiến lược không
phải là một quá trình có thể được chỉ đạo từ bên ngoài phạm vi một nước mà đòi
hỏi phải có kiến thức địa phương sâu sắc về các chi tiết cụ thể của một nước cũng
như sự tham vấn và đàm phán với các đại diện địa phương có liên quan từ cộng
đồng cho tới các cấp chính phủ.
Trung tâm Phân tích thông tin
54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akkoyunlu, S. (2015), “The potential of rural-urban linkages for sustainable development
and trade”, International Journal of Sustainable Development & World Policy, 4(2), 20–40,
www.pakinsight.com/pdf-files/IJSDWP-2015-4(2)-20-40.pdf.
2. Berdegué, J. A. and F.J. Proctor (2014), “Inclusive rural–urban linkages”, RIMISP Working
Paper series, No. 123, RIMISP, Santiago,
1431869344123InclusiveRural_UrbanLinkages_edited.pdf.
3. Berdegué, J. A. and F.J. Proctor (2014), “Inclusive rural–urban linkages”, RIMISP Working
Paper series, No. 123, RIMISP, Santiago,
1431869344123InclusiveRural_UrbanLinkages_edited.pdf.
4. Bradshaw, Y. W. (1987), “Urbanization and underdevelopment: a global study of
modernization, urban bias and economic dependency”, American Sociological Review,
52(2), 224–239.
5. Brandt,H. and U. Otzen (2004), Poverty Oriented Agricultural and Rural Development,
Routledge, London and New York.
6. Brown, S. V. et al. (2011), Renewable Power Opportunities for Rural Communities, US
Department of Agriculture, Washington DC, www.usda.gov/oce/reports/energy/
RenewablePowerOpportunities-Final.pdf.
7. Buvinic, M., T. Lunde and N. Sinha (2010), “Investing in gender equality: looking ahead”,
Economic Premise, 22, 1-10, World Bank, Washington DC.
8. Clemens, M. A., C. J. Kenny and T.J. Moss (2007), “The trouble with the MDGs:
confronting expectations of aid and development success”, World Development, 35(5),
735–751.
9. Dang, G. and L.S. Pheng (2015), “Theories of economic development”, in: G. Dang and L.
S. Pheng (eds), Infrastructure Investments in Developing Economies, The Case of Vietnam,
Springer, New York.
10. FAO (2011), The State of Food and Agriculture. Women in Agriculture: Closing the Gap
for Development, Food and Agriculture Organisation of the United Nations, Rome,
www.fao.org/docrep/013/i2050e/i2050e.pdf.
11. FAO (2015a), FAOSTAT (database), Food and Agriculture Organisation of the United
Nations, Rome, accessed 10 November 2015.
12. FAO, IFAD and ILO (2010), Gender Dimensions of Agricultural and Rural Employment:
Differentiated pathways out of poverty, Food and Agriculture Organisation of the United
Nations, Rome.
13. Ferraro, V. (2008), “Dependency theory: An introduction”, in G. Secondi (ed.), The
Development Economics Reader, Routledge, London.
14. Goulet, D. (2003), “Classic theories of development: a comparative analysis”, in M. Todaro
and S. Smith (eds), Economic Development, eighth edition, Addison Wesley, Boston.
15. Goulet, D. (2003), “Classic theories of development: a comparative analysis”, in M. Todaro
and S. Smith (eds), Economic Development, eighth edition, Addison Wesley, Boston.
16. Green, G. P. and J.A. Zinda (2013), “Rural development theory”, in G. P. Green (ed.),
Handbook of Rural Development, Edward Elgar Publishing, Cheltenham.
17. Harrold, P. and Associates (1995), “The broad sector approach to investment lending: sector
investment program”, World Bank Discussion Papers no. WDP 302.
55
18. Heeks, R. (2014), “From the MDGs to the post-2015 agenda: analysing changing
development priorities”, Development Informatics Working Paper Series, No. 56,
Manchester University, Manchester.
19. Hermann, S. and M. Welsch (2014), Using Micro Hydro Power for Rural Off-grid Village
Electrification,Department of Energy Technology, Sweden.
20. Holdcroft, L. E. (1978), “The rise and fall of community development in developing
countries, 1950-65: a critical analysis and an annotated bibliography”,
www.popline.org/node/466597#sthash.eqvadqNK.dpuf.
21. Hopwood, B., M. Mellor and G. O’Brien (2005), “Sustainable development: mapping
different approaches”, Sustainable Development, 13, 38–52.
22. IEA (2010), Sustainable Production of Second-generation Biofuels,International Energy
Agency, Paris.
23. ILO (2013), Sustainable Development, Decent Work and Green Jobs, Document
ILC.102/V, International Labour Organization, Geneva.
24. KPMG International (2010), Education in China, KPMG International, Amstelveen,
https://www.kpmg.de/docs/Education-in-China-201011.pdf.
25. Machethe, C. L. (1995), Approaches to Rural Development in the Third World: Lessons
for South Africa, Michigan State University, East Lansing, Michigan.
26. Manning, R. (2010), “The impact and design of the MDGs: some reflections”, IDS Bulletin,
41(1), 1-14, Institute for Development Studies, University of Sussex, Brighton.
27. Mansuri, G. and V. Rao (2004), “Community-based and driven development: a critical
review,” The World Bank Research Observer, 19(1), 1–39.
28. Mason, A. and T. Kinugasa (2008), “East Asian economic development: Two demographic
dividends”, Journal of Asian Economics, 19, 389–399,
j.asieco.2008.09.006.
29. Maurel, M. and Z. Kubik (2014), “Climate Variability and Migration: Evidence from
Tanzania”, FERDI Development Policies Working Paper, 104, Fondation pour les Études et
Recherches sur le Développement International.
30. Meier, G. M. (2000), “Introduction: ideas for development and the old generation of
development economists and the new”, in Meier, G. M. and J.E. Stiglitz (eds), Frontiers of
Development Economics: The Future in Perspective, World Bank, Washington DC.
31. OECD (2013a), Multi-dimensional Review of Myanmar: Volume 1. Initial Assessment,
OECD Publishing, Paris,
32. OECD (2013b), Rural-Urban Partnerships: An Integrated Approach to Economic
Development, OECD Publishing, Paris,
33. OECD (2013c), Putting Green Growth at the Heart of Development, OECD Publishing,
Paris
34. OECD (2014), “The evolution of rural policy across OECD member countries”, Paper
presented at the workshop on Rural Development Policies: Lessons from the Korea’s
Saemaul Undong and Other Country Experiences, in Seoul, Korea, 24 October 2014.
35. OECD (2014), Perspectives on Global Development 2014: Boosting Productivity to Meet
the Middle-Income Challenge, OECD Publishing, Paris,
persp_glob_dev-2014-en.
36. OECD DAC (2013), Aid in Support of Gender Equality in Education and Health,
Development Assistance Committee, OECD, Paris,
37. OECD DAC (2015), Aid in Support of Gender Equality and Women’s Empowerment,
database, Development Assistance Committee, OECD, Paris.
56
38. Ondiege, P. (2013), “Fostering financial inclusion with mobile banking”, African
Development Bank Group, www.afdb.org/en/news-and-events/article/fostering-financial-
inclusion-with-mobile-banking-12125, accessed 16 July 2015.
39. Proctor, F. (2002), “PRSP and rural development: reflections, experiences to date and
implications", www.paris21.org/sites/default/files/668.pdf.
40. Quan, J., J. Davis and F. Proctor (2006), “Rural development from a territorial perspective:
lessons and potential in sub-Saharan Africa”, Munich Personal RePEc Archive Paper,
25974, 1-45, Munich.
41. Saith, A. (2006), “From universal values to Millennium Development Goals: lost in
translation”, Development and Change, 37(6), 1167–1199.
42. Saraceno, E. (2014), “Rural development policies in developing countries”, paper
presented at the Workshop on Rural Development Policies: Lessons from the Korea’s
Saemaul Undong and Other Country Experiences, 24 October 2014, Seoul, Korea.
43. Tacoli, C. (1998), Bridging the Divide: Rural-urban interactions and livelihood strategies,
International Institute for Environment and Development, London,
the divide rural-urban interactions.
44. The Economist (2013), “Why does Kenya lead the world in mobile money?” The
Economist,27 May, www.economist.com/blogs/economist-explains/2013/05/economist-
explains-18.
45. UN (2010), The Millennium Development Goals Report 2010, United Nations, New York.
46. UN (2014), World Urbanization Prospects (database), United Nations, New York,
accessed 4 November 2015.
47. UN (2015a), The Millennium Development Goals Report 2015, United Nations, New York
48. Vandemoortele, J. (2009), “The MDG conundrum: meeting the targets without missing the
point”, Development Policy Review, 27(4), 355–371.
49. WaterAid (2013), “Sanitation and hygiene approaches”, Technical Brief, WaterAid,
London, www.wateraid.org/technologies.
50. WHO (2011), Increasing Access to Vaccines Through Technology Transfer and Local
Production, 1–44, World Health Organization
51. WHO (2015), World Health Statistics 2015 (database), World Health Organization,
Geneva, www.who.int/gho/publications/world_health_statistics/2015/en.
52. WHO/UNDP (2009), The Energy Access Situation in Developing Countries, World Health
Organization, Geneva and United Nations Development Programme, New York.
53. World Bank (2006), World Development Report 2006:Equity and development,World
Bank, Washington DC.
54. World Bank (2007b), Cost of Pollution in China: Economic Estimates of Physical
Damages, Conference Edition, World Bank, Washington DC.
55. World Bank (2012a), World Development Report 2012: Gender equality and development,
World Bank, Washington DC.
56. World Bank (2013a), Global Monitoring Report 2013: Rural-Urban Dynamics and the
Millennium Development Goals, World Bank, Washington DC.
57
Tổng luận số 9 - 2016
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỚI TRONG THẾ KỶ 21
CÔNG CỤ CHO CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_mo_hinh_phat_trien_nong_thon_moi_trong_the_ky_21_co.pdf