Bộ tài liệu hoàn chỉnh để ôn thi kiểm toán viên và kế toán viên hành nghề năm 2012 do Bộ tài chính phát hành
Tài liệu được biên soạn, thẩm định bởi các giáo sư, tiến sỹ, chuyên gia của Bộ Tài chính, của giảng viên các Trường Đại học lớn và đã được Bộ Tài chính phê duyệt lưu hành sử dụng cho kỳ thi năm 2012.
Mỗi chuyên đề đều bao gồm phần lý thuyết và bài tập, đề thi tham khảo có lời giải.
Bộ tài liệu ôn tập gồm có:
- Chuyên đề 1: Pháp luật về kinh tế
- Chuyên đề 2: Tài chính doanh nghiệp tài chính và quản lý tài chính nâng cao
- Chuyên đề 3: Thuế và quản lý thuế nâng cao
- Chuyên đề 4: Kế toán tài chính và kế toán quản trị nâng cao
- Chuyên đề 5: Kiểm toán và dịch có đảm bảo nâng cao
- Chuyên đề 6: Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp và nâng cao
- Chuyên đề 7: Ôn thi tin học
- Chuyên đề 8: Ôn tập Tiếng Anh
Chúc mọi người thi tốt
102 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2861 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu ôn tập, thi kiểm toán viên và kế toán viên hành nghề 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đốc thẩm.
Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 288 Bộ luật tố tụng dân sự này nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm hai năm, kể từ ngày kết thời hạn kháng nghị:
- Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 284 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;
- Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 283 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.”
Trong thời hạn bốn tháng kể từ ngày nhận được đơn kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án, Toà án có thẩm quyền phải mở phiên toà để giám đốc thẩm vụ án. Phiên toà này phải có sự tham gia của Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp, nhưng không cần thiết phải triệu tập các đương sự.
Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền hạn sau:
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
- Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa;
- Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại;
- Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án
Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực kể từ ngày Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định.
đ2) Tái thẩm
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không thể biết được khi Toà án ra bản án, quyết định đó.
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là:
- Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
- Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc giả mạo chứng cứ;
- Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
- Bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước mà Toà án dựa vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.
Thời hạn của kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Hội đồng tái thẩm có thẩm quyền sau:
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực;
- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại;
- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.
Quyết định tái thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng tái thẩm ra quyết định.
4.4. Thi hành bản án, quyết định giải quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại của Toà án
Việc thi hành bản án, quyết định của Toà án về kinh doanh - thương mại nói riêng, về dân sự nói chung, ngoài những quy định tại Bộ Luật Tố tụng dân sự 2004 còn được quy định trong Luật thi hành án dân sự năm 2008 và những văn bản pháp luật liên quan khác.
Khi bản án, quyết định của Toà án được đưa ra thi hành thì các đương sự phải có nghĩa vụ thi hành, nếu không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định của Toà án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án trong thời hạn ba năm kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
a) Các cơ quan thi hành án bao gồm:
- Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cơ quan thi hành án cấp tỉnh);
- Cơ quan thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cơ quan thi hành án cấp huyện);
- Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương (gọi chung là cơ quan thi hành án quân khu).
b) Thủ tục thi hành bản án, quyết định của Toà án
Quá trình thi hành các bản án quyết định của Toà án được khái quát thành 3 bước cơ bản.
- Cấp bản án, quyết định của Toà án;
- Ra quyết định thi hành án;
- Thực hiện quyết định thi hành án.
Các biện pháp cưỡng chế thi hành án bao gồm:
- Khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án;
- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án;
- Phong toả tài khoản, tài sản của người phải thi hành án tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước;
- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ;
- Buộc giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật tư, tài sản khác;
- Cấm hoặc buộc người phải thi hành án không được làm hoặc phải làm một công việc nhất định.
Phần 6
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
Phá sản là hiện tượng kinh tế xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định, đó là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung không tồn tại khái niệm phá sản. Luật phá sản đầu tiên của Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993. Sau một thời gian thực hiện, luật này đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập và tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XI ngày 15 tháng 6 năm 2004 đã thông qua Luật Phá sản mới thay cho Luật Phá sản năm 1993.
1. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh:
1.1. Đối tượng áp dụng
Luật Phá sản năm 2004 áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (gọi chung là Hợp tác xã) được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Đối với những doanh nghiệp đặc biệt, trực tiếp phục vụ an ninh quốc phòng, doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực công ích thiết yếu, Chính phủ sẽ có những quy định cụ thể khi áp dụng Luật Phá sản.
1.2. Phạm vi điều chỉnh
Luật Phá sản quy định điều kiện và việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; xác định nghĩa vụ về tài sản và các biện pháp bảo toàn tài sản trong thủ tục phá sản; điều kiện, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh; thủ tục thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản; quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu tuyên bố phá sản và của người tham gia giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
1.3. Hiệu lực của Luật phá sản
- Luật Phá sản và các quy định khác của pháp luật được áp dụng khi giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
- Trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật Phá sản và quy định của luật khác về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của Luật Phá sản.
1.4. Vai trò của Luật phá sản
- Luật Phá sản bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ nợ, cung cấp cho các chủ nợ một công cụ để thực hiện việc đòi nợ.
- Luật Phá sản bảo vệ lợi ích của con nợ, đem lại cho các con nợ đang trong tình trạng phá sản một cơ hội phục hồi hoặc rút khỏi thị trường một cách có trật tự.
- Luật Phá sản bảo vệ lợi ích người lao động.
- Luật Phá sản góp phần tổ chức và cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân.
- Luật Phá sản góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương trong kinh doanh.
2. Dấu hiệu xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
2.1. Dấu hiệu
Để có căn cứ cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, Luật Phá sản của các quốc gia phải xác định thế nào là tình trạng phá sản. Theo Điều 3 Luật Phá sản năm 2004 đã quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Như vậy, bản chất của tình trạng phá sản là tại một thời điểm nhất định, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Khi đó, các chủ nợ cũng như chính bản thân con nợ dựa vào căn cứ pháp lý này để làm đơn đề nghị Toà án giải quyết vụ việc phá sản.
2.2. Phân loại phá sản
Tuỳ theo góc độ xem xét, phá sản được phân thành các loại sau:
- Phá sản trung thực và phá sản gian trá: Sự phân biệt này được xem xét dưới góc độ nguyên nhân gây ra tình trạng phá sản. Phá sản trung thực là hậu quả của việc mất khả năng thanh toán do những nguyên nhân khách quan. Còn phá sản gian trá là hậu quả của những thủ tục gian trá được tính toán, sắp đặt trước nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
- Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc: Sự phân biệt này dựa trên căn cứ phát sinh quan hệ pháp lý. Cụ thể là dựa vào căn cứ ai là người nộp đơn yêu cầu phá sản. Phá sản tự nguyện là do bản thân doanh nghiệp mắc nợ tự giác đề nghị khi thấy mình mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Ngược lại, phá sản bắt buộc là do các chủ nợ yêu cầu.
- Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân: Sự phân biệt này liên quan đến đối tượng điều chỉnh của Luật Phá sản. Ở nhiều nước không phân biệt phá sản doanh nghiệp hay phá sản cá nhân, nếu lâm vào tình trạng phá sản thì đều áp dụng Luật Phá sản để giải quyết. Luật Phá sản của Việt Nam chỉ áp dụng cho doanh nghiệp và hợp tác xã. Còn nếu cá nhân phá sản thì áp dụng theo thủ tục đòi nợ thông thường (thủ tục dân sự).
2.3. Phân biệt phá sản với giải thể
Nếu chỉ nhìn về hiện tượng thì phá sản và giải thể là giống nhau bởi vì cả hai hiện tượng này đều dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại. Tuy nhiên, về bản chất pháp lý đây là hai hiện tượng khác nhau:
- Thứ nhất, lý do dẫn đến giải thể doanh nghiệp có rất nhiều lý do khác nhau như hết thời hạn hoạt động, chủ doanh nghiệp không muốn kinh doanh nữa hoặc vi phạm pháp luật bị thu hồi giấy phép kinh doanh...Trong khi đó, phá sản chỉ có một lý do duy nhất là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu.
- Thứ hai, phá sản khác giải thể ở bản chất của hai thủ tục pháp lý giải quyết cũng như thẩm quyền của cơ quan thực hiện thủ tục đó. Thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư pháp do Toà án tiến hành, còn giải thể là thủ tục hành chính do cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền tiến hành.
- Thứ ba, thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hay người quản lý, điều hành doanh nghiệp giải thể và phá sản cũng khác nhau. Nếu là phá sản thì chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc người quản lý điều hành doanh nghiệp sẽ bị cấm hành nghề kinh doanh trong một thời gian nhất định. Còn trong trường hợp giải thể thì vấn đề hạn chế này không được đặt ra.
3. Thẩm quyền của Toà án
a) Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là toà án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện đó.
b) Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Toà án nhân dân cấp tỉnh) có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh đó. Trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã thuộc thẩm quyền của Toà án huyện.
Toà án tỉnh nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đó.
4. Thủ tục phá sản
Thủ tục phá sản áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm 4 bước cơ bản:
- Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;
- Phục hồi hoạt động kinh doanh;
- Thanh lý tài sản, các khoản nợ;
- Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
4.1. Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
a) Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
- Chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được đảm bảo bằng tài sản của con nợ. Chủ nợ có đảm bảo một phần là chủ nợ có khoản nợ đảm bảo bằng tài sản của con nợ hoặc người thứ ba mà giá trị tài sản đảm bảo ít hơn khoản nợ đó).
- Người lao động có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thông qua đại diện công đoàn hoặc cử người đại diện (nếu chưa có tổ chức công đoàn).
- Chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Các cổ đông trong công ty cổ phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty cổ phần theo quy định của điều lệ công ty.
- Thành viên hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh.
b) Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã của mình có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản.
Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu theo quy định và theo yêu cầu của Toà án trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản.
c) Nghĩa vụ thông báo doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
Khi thực hiện chức năng nhiệm vụ, nếu nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thanh tra, cơ quan quản lý vốn, tổ chức kiểm toán hoặc cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp (không phải là chủ sở hữu nhà nước của doanh nghiệp) có nhiệm vụ thông báo bằng văn bản cho những người có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản biết để họ xem xét việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Cơ quan thông báo phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông báo.
d) Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Sau khi nhận đơn, Toà án sẽ xem xét nếu thấy cần sửa đổi, bổ sung tài liệu thì Toà án yêu cầu người nộp đơn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đơn. Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản kể từ ngày người nộp đơn đã nộp tiền tạm ứng phí phá sản hoặc là ngày Toà án nhận được đơn trong trường hợp người nộp đơn không phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản.
Toà án trả lại đơn yêu cầu khi:
+ Người nộp đơn không nộp tiền tạm ứng phí phá sản trong thời hạn do Toà án ấn định;
+ Người nộp đơn không có quyền nộp đơn;
+ Có Toà án khác đã mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản;
+ Có căn cứ rõ ràng cho thấy việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không khách quan;
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã chứng minh được mình không lâm vào tình trạng phá sản.
đ) Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn, Toà án phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.
Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản khi có căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Toà án có thể ra quyết định không mở thủ tục phá sản nếu thấy doanh nghiệp, hợp tác xã chưa lâm vào tình trạng phá sản.
Nếu Toà án quyết định mở thủ tục phá sản thì phải thông báo quyết định mở thủ tục phá sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã và Viện Kiểm sát cùng cấp; thông báo quyết định cho chủ nợ, những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã. Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát của thẩm phán và tổ quản lý, thanh lý tài sản. Trường hợp nếu xét thấy người quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ,Thẩm phán ra quyết định cử người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, của hợp tác xã.
Để đảm bảo cho việc giải quyết phá sản được đúng đắn, bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, pháp luật nghiêm cấm doanh nghiệp hợp tác xã tiến hành các hành vi như: cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo đảm; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. Một số hoạt động phải được sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán mới được thực hiện như: Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; chấm dứt hợp đồng đã có hiệu lực pháp luật; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.
Đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán ra quyết định thành lập tổ quản lý tài sản, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tổ quản lý, thanh lý tài sản quy định tại điều 9, 10, 11 Luật Phá sản).
4.2. Phục hồi hoạt động kinh doanh
a) Hội nghị chủ nợ
- Thành phần tham gia hội nghị chủ nợ, gồm: các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ; đại diện người lao động, đại diện công đoàn được người lao động uỷ quyền; người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
- Nội dung hội nghị chủ nợ lần thứ nhất:
Tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản thông báo cho Hội nghị chủ nợ về tình hình kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, kết quả kiểm kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ và các nội dung khác nếu xét thấy cần thiết.
+ Chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp trình bày ý kiến của mình về các nội dung mà tổ quản lý, thanh lý tài sản đã thông báo, đề xuất phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, khả năng và thời hạn thanh toán nợ.
+ Hội nghị chủ nợ thảo luận về các nội dung do tổ quản lý, thanh lý tài sản đã thông báo và các ý kiến của chủ doanh nghiệp, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã.
+ Thông qua nghị quyết của hội nghị chủ nợ.
Trường hợp cần phải tổ chức hội nghị chủ nợ tiếp theo thì chương trình, nội dung hội nghị do thẩm phán quyết định.
- Hội nghị chủ nợ chỉ được coi là hợp lệ khi có đủ các điều kiện sau đây:
+ Quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia.
+ Có sự tham gia của người có nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ (quy định tại Điều 63 Luật Phá sản).
- Hội nghị chủ nợ có thể được hoãn một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Không đủ quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia.
+ Quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tại hội nghị chủ nợ biểu quyết đề nghị hoãn hội nghị.
+ Người có nghĩa vụ tham gia hội nghị quy định tại Điều 63 Luật Phá sản vắng mặt có lý do chính đáng.
Trường hợp thẩm phán ra quyết định hoãn hội nghị thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn hội nghị, thẩm phán phải triệu tập lại hội nghị chủ nợ.
b) Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
- Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi hội nghị chủ nợ lần 1 thông qua nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
- Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hội nghị chủ nợ lần 1 thông qua nghị quyết, doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi kinh doanh của mình và nộp cho thẩm phán.
c) Nội dung, phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
- Phải nêu rõ các biện pháp cần thiết để phục hồi kinh doanh, các điều kiện, thời hạn, kế hoạch thanh toán nợ.
- Các biện pháp huy động vốn.
- Thay đổi mặt hàng kinh doanh.
- Tổ chức lại bộ máy...
d) Xem xét, thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (xem Điều 70, Điều 71 Luật Phá sản).
đ) Công nhận nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh và giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (Điều 72 Luật Phá sản).
Thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh là 3 năm kể từ ngày cuối cùng công bố quyết định của Toà án công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
e) Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và hậu quả pháp lý (Điều 76, Điều 77 Luật Phá sản).
4.3. Thanh lý tài sản, các khoản nợ
a) Những trường hợp quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản
Thẩm phán hoặc Tổ Thẩm phán phụ trách việc tiến hành thủ tục phá sản ra Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản trong những trường hợp sau:
- Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản trong trường hợp đặc biệt (Điều 78 Luật Phá sản).
- Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản khi hội nghị chủ nợ không thành (Điều 79 Luật Phá sản).
- Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản sau khi có nghị quyết của hội nghị chủ nợ lần 1 (Điều 80 Luật Phá sản).
Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản có thể bị khiếu nại, kháng nghị. Việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản quy định tại Điều 83, Điều 84 Luật Phá sản.
b) Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và thứ tự phân chia tài sản
Tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm: tài sản và quyền tài sản có tại thời điểm toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; các khoản lợi nhuận, các tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Toà án thụ lý; tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; giá trị quyền sử dụng đất... (Điều 49 Luật Phá sản).
Tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi thanh toán các khoản nợ có bảo đảm được phân chia theo thứ tự ưu tiên như sau:
- Phí phá sản.
- Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký.
- Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.
Trường hợp giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi đã thanh toán đủ các khoản quy định trên mà vẫn còn thì phần còn lại này thuộc về:
- Xã viên hợp tác xã;
- Chủ doanh nghiệp tư nhân;
- Các thành viên của công ty; các cổ đông của công ty cổ phần;
- Chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước.
c) Đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản
Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản trong các trường hợp:
- Con nợ không còn tài sản để thực hiện phương án phân chia tài sản;
- Phương án phân chia tài sản đã thực hiện xong.
4.4. Tuyên bố phá sản
a) Các trường hợp Toà án tuyên bố phá sản
Có 2 nhóm trường hợp Tòa án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản:
Thứ nhất, Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản trong trường hợp đặc biệt.
- Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp tiền tạm ứng phí phá sản do Tòa án ấn định, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không còn tiền và tài sản khác để nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì Toà án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
- Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và nhận các tài liệu, giấy tờ do các bên có liên quan gửi đến, Toà án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản không còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí phá sản.
Thứ hai, Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản.
b) Thông báo quyết định tuyên bố phá sản (Điều 89 Luật Phá sản).
c) Khiếu nại, kháng nghị và giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản (Điều 91, Điều 92 Luật Phá sản).
4.5. Hậu quả của việc tuyên bố phá sản
- Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ soanh nghiệp tư nhân, thàn viên hợp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được thanh toán nợ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.Các nghĩa vụ về tài sản phát sinh sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản được quyết định theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Trừ trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản vì lý do bất khả kháng, người quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản sẽ bị xử lý như sau:
+ Người giữ chức vụ Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị của công ty, tổng công ty 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào, kể từ ngày công ty, tổng công ty nhà nước bị tuyên bố phá sản.
+ Người được giao đại diện phần vốn của Nhà nước ở doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của Nhà nước.
+ Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh, Giám đốc (Tổng giám đốc), Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp, Chủ nhiệm, các thành viên Ban quản trị hợp tác xã bị tuyên bố phá sản không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, không được làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn từ một đến ba năm kể từ ngày doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản.
5. Các biện pháp bảo toàn tài sản trong giải quyết phá sản
Để bảo toàn tài sản phục vụ cho việc giải quyết phá sản, Luật Phá sản có những quy định nhằm bảo toàn tài sản.
a) Các giao dịch bị coi là vô hiệu
Trong thời gian 3 tháng trước ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giao dịch sau đây của doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là vô hiệu:
- Tặng, cho động sản và bất động sản cho người khác;
- Thanh toán hợp đồng song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã rõ ràng là lớn hơn phần nghĩa vụ của bên kia;
- Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn;
- Thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ;
- Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản.
Khi các giao dịch trên bị tuyên bố vô hiệu thì những tài sản đó phải được thu hồi và nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản, chủ nợ không có bảo đảm có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố các giao dịch trên của doanh nghiệp, hợp tác xã là vô hiệu.
b) Đình chỉ hợp đồng đang có hiệu lực
Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện sẽ có lợi hơn cho doanh nghiệp, hợp tác xã thì hợp đồng đó bị đình chỉ thực hiện. Chủ nợ, con nợ, tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng.
c) Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản, thẩm phán có quyền ra quyết định áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản. Các biện pháp đó gồm:
- Cho, bán hàng hoá dễ hư hỏng hoặc sắp hết thời gian sử dụng;
- Kê biên, niêm phong tài sản;
- Phong toả tài khoản của doanh nghiệp, hợp tác xã tại ngân hàng;
- Niêm phong kho quỹ, thu giữ, quản lý sổ sách kế toán, tài liệu liên quan của doanh nghiệp, hợp tác xã;
- Cấm hoặc buộc doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân, tổ chức khác có liên quan thực hiện một số hành vi nhất định.
Ngoài những biện pháp chủ yếu nêu trên, trong những trường hợp cụ thể, có thể áp dụng một số biên pháp khác như đăng ký giao dịch bảo đảm, đình chỉ thi hành án dân sự hoặc giải quyết vụ án./.
Phần 7
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG
Pháp luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và của người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Bộ luật Lao động được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23 tháng 6 năm 1994, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1995, và được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002, 2006 và 2007. Bộ Luật lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hòa và ổn định, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động trí óc và lao động chân tay, của người quản lý lao động, nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ, hiệu quả trong sử dụng và quản lý lao động,
1. Hợp đồng lao động:
Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.
Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:
- Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
- Hợp đồng lao động xác định thời hạn từ một năm đến ba năm;
- Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm.
Hợp đồng lao động được ký kết bằng văn bản và phải được làm thành hai bản, mỗi bên giữ một bản. Hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu bao gồm công việc phải làm, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động.
Người sử dụng lao động và người lao động thoả thuận về việc làm thử, thời gian thử việc, về quyền, nghĩa vụ của hai bên. Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc ít nhất phải bằng 70% mức lương cấp bậc của công việc đó. Thời gian thử việc không được quá 60 ngày đối với lao động chuyên môn kỹ thuật cao và không được quá 30 ngày đối với lao động khác.
Khi gặp khó khăn đột xuất hoặc do nhu cầu sản xuất, kinh doanh, người sử dụng lao động được quyền tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác trái nghề, nhưng không được quá 60 ngày trong một năm. Người lao động tạm thời làm công việc khác theo quy định tại khoản 1 Điều này, được trả lương theo công việc mới; nếu tiền lương của công việc mới thấp hơn tiền lương cũ thì được giữ nguyên mức tiền lương cũ trong thời hạn 30 ngày làm việc. Tiền lương theo công việc mới ít nhất phải bằng 70% mức tiền lương cũ nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
- Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo quyết định của thầy thuốc, trừ trường hợp quy định tại điểm c và điểm đ khoản 1 Điều 38 của Bộ luật này;
- Người lao động đang nghỉ hàng năm, nghỉ về việc riêng và những trường hợp nghỉ khác được người sử dụng lao động cho phép;
- Người lao động là nữ trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 111 của Bộ luật Lao động.
Khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức từ một năm trở lên, người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương, nếu có.
2. Về tiền lương
Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Người sử dụng lao động có quyền chọn các hình thức trả lương theo thời gian (giờ, ngày, tuần, tháng), theo sản phẩm, theo khoán nhưng phải duy trì hình thức trả lương đã chọn trong một thời gian nhất định và phải thông báo cho người lao động biết. Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn và tại nơi làm việc. Trong trường hợp đặc biệt phải trả lương chậm, thì không được chậm quá một tháng và người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm do ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm trả lương. Người sử dụng lao động không được áp dụng việc xử phạt bằng hình thức cúp lương của người lao động.
Người lao động làm thêm giờ được trả lương như sau:
- Vào ngày thường, được trả lương ít nhất bằng 150% của tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường;
- Vào ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ, được trả lương ít nhất bằng 200% của tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường.
Nếu người lao động được nghỉ bù những giờ làm thêm, thì người sử dụng lao động chỉ phải trả phần tiền chênh lệch so với tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường. Người lao động làm việc vào ban đêm thì được trả thêm ít nhất bằng 30% của tiền lương làm việc vào ban ngày.
Các chế độ phụ cấp, tiền thưởng, nâng bậc lương, các chế độ khuyến khích khác có thể được thoả thuận trong hợp đồng lao động, thoả ước tập thể hoặc quy định trong quy chế của doanh nghiệp. Người sử dụng lao động có trách nhiệm trích từ lợi nhuận hàng năm để thưởng cho người lao động đã làm việc tại doanh nghiệp từ một năm trở lên, theo quy định của Chính phủ phù hợp với đặc điểm của từng loại doanh nghiệp.
3. Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Thời giờ làm việc không quá 8 giờ trong một ngày hoặc 48 giờ trong một tuần. Thời giờ làm việc hàng ngày được rút ngắn từ một đến hai giờ đối với những người làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành. Người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận làm thêm giờ, nhưng không được quá bốn giờ trong một ngày, 200 giờ trong một năm.
Người lao động làm việc 8 giờ liên tục thì được nghỉ ít nhất nửa giờ, tính vào giờ làm việc. Người làm ca đêm được nghỉ giữa ca ít nhất 45 phút, tính vào giờ làm việc. Người lao động làm việc theo ca được nghỉ ít nhất 12 giờ trước khi chuyển sang ca khác.
Người lao động có 12 tháng làm việc tại một doanh nghiệp hoặc với một người sử dụng lao động thì được nghỉ hàng năm, hưởng nguyên lương theo quy định sau đây:
- 12 ngày làm việc, đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường;
- 14 ngày làm việc, đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt và đối với người dưới 18 tuổi;
- 16 ngày làm việc, đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; người làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ở những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt.
Số ngày nghỉ hàng năm được tăng thêm theo thâm niên làm việc tại một doanh nghiệp hoặc với một người sử dụng lao động, cứ năm năm được nghỉ thêm một ngày. Người lao động có thể thoả thuận với người sử dụng lao động để nghỉ hàng năm thành nhiều lần. Người làm việc ở nơi xa xôi hẻo lánh, nếu có yêu cầu, được gộp số ngày nghỉ của hai năm để nghỉ một lần; nếu nghỉ gộp ba năm một lần thì phải được người sử dụng lao động đồng ý. Người lao động do thôi việc hoặc vì các lý do khác mà chưa nghỉ hàng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hàng năm, thì được trả lương những ngày chưa nghỉ.
Người lao động được nghỉ về việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương trong những trường hợp sau đây:
- Kết hôn, nghỉ ba ngày;
- Con kết hôn, nghỉ một ngày;
- Bố mẹ (cả bên chồng và bên vợ) chết, vợ hoặc chồng chết, con chết, nghỉ ba ngày.
Người lao động có thể thoả thuận với người sử dụng lao động để nghỉ không hưởng lương.
4. Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất
Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh thể hiện trong nội quy lao động. Nội quy lao động không được trái với pháp luật lao động và pháp luật khác. Doanh nghiệp sử dụng từ 10 người lao động trở lên phải có nội quy lao động bằng văn bản.
Người vi phạm kỷ luật lao động, tuỳ theo mức độ phạm lỗi, bị xử lý theo một trong những hình thức sau đây:
- Khiển trách;
- Chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng;
- Sa thải.
Hình thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
- Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp;
- Người lao động bị xử lý kỷ luật chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật;
- Người lao động tự ý bỏ việc bảy ngày trong một tháng hoặc 20 ngày trong một năm mà không có lý do chính đáng.
Thời hiệu để xử lý vi phạm kỷ luật lao động tối đa là ba tháng, kể từ ngày xảy ra vi phạm, trường hợp đặc biệt cũng không được quá sáu tháng.
Khi tiến hành việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động, người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động. Người lao động có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bào chữa. Khi xem xét xử lý kỷ luật lao động phải có mặt đương sự và phải có sự tham gia của đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp. Việc xem xét xử lý kỷ luật lao động phải được ghi thành biên bản.
Người bị khiển trách sau ba tháng và người bị xử lý kỷ luật chuyển làm công việc khác sau sáu tháng, kể từ ngày bị xử lý, nếu không tái phạm thì đương nhiên được xoá kỷ luật.
Người sử dụng lao động có quyền tạm đình chỉ công việc của người lao động khi vụ việc vi phạm có những tình tiết phức tạp, nếu xét thấy để người lao động tiếp tục làm việc sẽ gây khó khăn cho việc xác minh. Thời hạn tạm đình chỉ công việc không được quá 15 ngày, trường hợp đặc biệt cũng không được quá ba tháng. Trong thời gian đó, người lao động được tạm ứng 50% tiền lương trước khi bị đình chỉ công việc.
Khi cơ quan có thẩm quyền kết luận về quyết định xử lý của người sử dụng lao động là sai, thì người sử dụng lao động phải huỷ bỏ quyết định đó, xin lỗi công khai, khôi phục danh dự và mọi quyền lợi vật chất cho người lao động.
5. An toàn lao động, vệ sinh lao động
Người sử dụng lao động có trách nhiệm trang bị đầy đủ phương tiện bảo hộ lao động, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động cho người lao động. Người lao động phải tuân thủ các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và nội quy lao động của doanh nghiệp. Mọi tổ chức và cá nhân có liên quan đến lao động, sản xuất phải tuân theo pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động và về bảo vệ môi trường.
Người sử dụng lao động phải bảo đảm nơi làm việc đạt tiêu chuẩn về không gian, độ thoáng, độ sáng, đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về bụi, hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung và các yếu tố có hại khác. Người sử dụng lao động phải định kỳ kiểm tra, tu sửa máy, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng theo tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Người lao động làm công việc có yếu tố nguy hiểm, độc hại phải được cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân. Người sử dụng lao động phải bảo đảm các phương tiện bảo vệ cá nhân đạt tiêu chuẩn chất lượng và quy cách theo quy định của pháp luật.
Khi tuyển dụng và sắp xếp lao động, người sử dụng lao động phải căn cứ vào tiêu chuẩn sức khoẻ quy định cho từng loại việc, tổ chức huấn luyện, hướng dẫn, thông báo cho người lao động về những quy định, biện pháp làm việc an toàn, vệ sinh và những khả năng tai nạn cần đề phòng trong công việc của từng người lao động. Người lao động phải được khám sức khoẻ khi tuyển dụng và khám sức khoẻ định kỳ theo chế độ quy định. Chi phí khám sức khoẻ cho người lao động do người sử dụng lao động chịu. Doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức chăm lo sức khoẻ cho người lao động và phải kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động khi cần thiết.
Người tàn tật do bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa để xếp hạng thương tật, xác định mức độ suy giảm khả năng lao động và được phục hồi chức năng lao động; nếu còn tiếp tục làm việc, thì được sắp xếp công việc phù hợp với sức khoẻ theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa lao động. Người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị xong cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động. Trường hợp do lỗi của người lao động, thì cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 12 tháng lương.
6. Quy định đối với một số nhóm đối tượng lao động:
Lao động nữ
Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để người lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao việc làm tại nhà. Nhà nước có chính sách ưu đãi, xét giảm thuế đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ.
Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động. Người sử dụng lao động phải ưu tiên nhận phụ nữ vào làm việc khi người đó đủ tiêu chuẩn tuyển chọn làm công việc phù hợp với cả nam và nữ mà doanh nghiệp đang cần. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động.
Người lao động nữ có thai có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không phải bồi thường, nếu có giấy của thầy thuốc chứng nhận tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi.
Người lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con, cộng lại từ bốn đến sáu tháng do Chính phủ quy định, tuỳ theo điều kiện lao động, tính chất công việc nặng nhọc, độc hại và nơi xa xôi hẻo lánh. Nếu sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày. Hết thời gian nghỉ thai sản, nếu có nhu cầu, người lao động nữ có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương theo thoả thuận với người sử dụng lao động.
Lao động chưa thành niên
Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi. Nơi có sử dụng người lao động chưa thành niên phải lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày sinh, công việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ. Nghiêm cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ một số nghề và công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định. Đối với ngành nghề và công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập nghề thì việc nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu. Cấm sử dụng người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
Thời giờ làm việc của người lao động chưa thành niên không được quá bảy giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần.
Lao động là người cao tuổi
Người lao động cao tuổi là người lao động nam trên 60 tuổi, nữ trên 55 tuổi. Năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu, người lao động cao tuổi được rút ngắn thời giờ làm việc hàng ngày hoặc được áp dụng chế độ làm việc không trọn ngày, không trọn tuần theo quy định của Chính phủ.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ người lao động cao tuổi, không được sử dụng người lao động cao tuổi làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ người cao tuổi.
Lao động là người tàn tật
Nhà nước bảo hộ quyền làm việc của người tàn tật và khuyến khích việc thu nhận, tạo việc làm cho người tàn tật. Những nơi thu nhận người tàn tật vào học nghề được xét giảm thuế, được vay vốn với lãi suất thấp và được hưởng các ưu đãi khác để tạo điều kiện cho người tàn tật học nghề.
Thời giờ làm việc của người tàn tật không được quá bảy giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần. Cơ sở dạy nghề và những cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người tàn tật được giúp đỡ cơ sở vật chất ban đầu về nhà xưởng, trường, lớp, trang bị, thiết bị và được miễn thuế, được vay vốn với lãi suất thấp.
Những nơi dạy nghề cho người tàn tật hoặc sử dụng lao động là người tàn tật phải tuân theo những quy định về điều kiện lao động, công cụ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động phù hợp và thường xuyên chăm sóc sức khoẻ của lao động là người tàn tật. Cấm sử dụng người tàn tật đã bị suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên làm thêm giờ, làm việc ban đêm.
Người sử dụng lao động không được sử dụng lao động là người tàn tật làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
7. Người lao động nước ngoài tại Việt Nam, lao động ở nước ngoài
Người nước ngoài làm việc thường xuyên cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải có giấy phép lao động do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam cấp.
Người lao động là công dân Việt Nam được phép đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động mà người đó chịu sự điều hành của tổ chức, cá nhân nước ngoài, thì phải tuân theo các quy định của pháp luật lao động nước sở tại; nếu theo hiệp định về hợp tác lao động được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước sở tại thì phải tuân theo các quy định của pháp luật lao động nước sở tại và hiệp định đó. Đối với người lao động là công dân Việt Nam được phép đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức nhận thầu, khoán công trình do doanh nghiệp Việt Nam điều hành và trả lương, thì áp dụng các quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có quyền được biết các quyền lợi và nghĩa vụ của mình, được các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ở nước ngoài bảo hộ về mặt lãnh sự và tư pháp, được quyền chuyển thu nhập bằng ngoại tệ và tài sản cá nhân về nước, được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và các chính sách, chế độ khác theo quy định pháp luật của Việt Nam và của nước sở tại. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có nghĩa vụ đóng góp một phần tiền lương cho quỹ bảo hiểm xã hội.
óóó
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2005 (Phần Thứ ba).
2. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng dân sự của Quốc hội, số 65/2011/QH12 (Chương 2, Chương 3 Phần thứ nhất).
3. Luật Doanh nghiệp 2005 (có hiệu lực từ 1.7.2006).
4. Luật Đầu tư 2005 (có hiệu lực từ 1.7.2006).
5. Luật Thương mại 2005 (có hiệu lực từ 1.1.2006).
6. Luật Phá sản 2004.
7. Luật Cạnh tranh 2004.
8. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (có hiệu lực ngày 01 tháng 10 năm 2002) và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008.
9. Luật trọng tài thương mại 2010.
10. Luật thi hành án dân sự 2008.
11. Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.
12. Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
13. Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/2/2007 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
14. Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại.
15. Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 tháng 2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài.
16. Thông tư số 09/2007/TT-BTM ngày 17/7/2007 và Thông tư 05/2008/TT-BCT của Bộ Thương mại hướng dẫn Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/2/2007 của Chính phủ.
17. Nghị định số 39/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ về cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh.
18. Nghị định số 158/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá.
19. Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về đăng ký doanh nghiệp
20. Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp.
21. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật cạnh tranh.
22. Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ hướng dẫn áp dụng Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản.
23. Nghị định số 101/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 của Chính phủ Đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký đổi giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
24. Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần.
25. Nghị định số 111/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về Tổ chức, quản lý TCT Nhà nước và chuyển đổi TCT Nhà nước, công ty Nhà nước độc lập, công ty Mẹ là công ty Nhà nước hoạt động theo hình thức Công ty Mẹ - Công ty Con hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
26. Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
27. Nghị định số 109/2008/NĐ-CP ngày 10/10/2008 của Chính phủ về bán, giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
28. Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03/11/2008 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác.
*
* *