Nhân tài đã trở thành loại hàng hóa được săn lùng nhất trên thế giới. Việc có được
nguồn nhân lực kỹ năng cao là điều kiện quan trọng đối với thể chất của các nước.
Nhập cư nhân lực kỹ năng cao đóng một vai trò độc đáo trong việc mang đến các kỹ68
năng, tài năng, và tri thức cho các xã hội, góp phần phát triển các công ty mới, và qua
đó là tăng trưởng việc làm và kinh tế. Như vậy các chính sách nhập cư đóng một vai
trò quan trọng trong việc góp phần vào kho tri thức của đất nước và tạo năng lực sáng
tạo bằng cách mang đến các triển vọng mới và các kỹ năng và tri thức cần thiết từ các
nơi khác. Chỉ có Canađa, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Ixrael, và Singapo là
những nước và lãnh thổ có thứ hạng cao về chính sách nhập cư thành công nhất thu
hút tỷ lệ người nước ngoài nhập cư có kỹ năng cao. Tiếp theo là các nước thuộc thứ
hạng bậc trung bình cao gồm Ôxtrâylia, Nhật Bản, Latvia, Malaixia, Niu Zilân,
Philipin, Nam Phi, và Mỹ. Chiếm các vị trí trong hai thứ hạng thấp hơn về lĩnh vực
này có cả các quốc gia phát triển lẫn quốc gia đang phát triển.
Bẩy lĩnh vực chính sách nêu trên tạo nên một cơ sở nền tảng xác định các chính
sách đổi mới sáng tạo hiệu quả có thể chi phối tăng trưởng kinh tế trong nước trong
khi đảm bảo một hệ sinh thái đổi mới bền vững mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia
trên toàn cầu. Các nước dẫn đầu về các lĩnh vực này là những nước có được vị thế
vững chắc về thể trạng kinh tế lành mạnh và nâng cao mức sống cho các công dân về
lâu dài. Các nước tụt hậu đằng sau, do các chính sách chưa phát triển hoặc do các
chính sách gây ảnh hưởng đến hệ thống đổi mới toàn cầu cần tư duy lại về cách tiếp
cận của mình, nên dành thêm các nguồn lực và chú trọng đến các chính sách đổi mới
để nhằm đạt được tối đa tiềm năng đổi mới của quốc gia và thúc đẩy chia sẻ sự thịnh
vượng trên toàn cầu.
72 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 182 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Tổng quan chính sách đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản quyền phần mềm; Danh sách theo dõi
USTR 301 Watch List. Điểm số của các quốc gia về chính sách quyền SHTT chiếm
15% trong tổng điểm. Bảng 11 cho thấy xếp hạng các nước về lĩnh vực chính sách
quyền SHTT.
Bảng 11: Xếp hạng các nước về bảo hộ quyền SHTT (theo trình tự chữ cái)
Bậc cao Trung bình cao Trung bình thấp Bậc thấp
Ôxtrâylia Chilê Bungari Argentina
Austria Đài Loan Trung Quốc Braxin
Bỉ Ship Hy Lạp Inđônêxia
Canađa CH Czech India Peru
47
Đan Mạch Estonia Lithuania Philipin
Pháp Hong Kong Malaixia Nga
Phần Lan Hungari Mexico Thái Lan
Đức Iceland Rumani Việt Nam
Nhật Bản Ixrael Thổ Nhĩ Kỳ
Ireland Italia
Luxembourg Latvia
Hà Lan Malta
New Zealand Ba Lan
Nauy Bồ Đào Nha
Singapo CH Slovak
Thụy Điển Slovenia
Thụy Sĩ Tây Ban Nha
Vương quốc Anh Nam Phi
Mỹ Hàn Quốc
Như bảng 11 cho thấy, ở đây có một mối quan hệ giữa trình độ phát triển của các
nước với thứ hạng của họ về chính sách quyền SHTT. Các quốc gia được xếp hạng
dẫn đầu thường là các nước phát triển, như Ôxtrâylia, Hà Lan, Vương quốc Anh. Một
số các nước vùng Baltic và Đông Âu, cũng như các quốc gia khác đang phấn đấu để
trở thành người dẫn đầu về đổi mới, như Đài Loan, Ixrael, Hàn Quốc, đều được xếp
vào bậc cao trong bảng xếp hạng. Trung Quốc được xếp vào hạng trung bình thấp một
phần bởi vì họ đã thực hiện được một số tiến bộ gần đây trong quy chế thực hiện
quyền SHTT của mình. Các quốc gia thuộc châu Mỹ Latinh như Achentine, Braxin và
Pêru cùng với một số quốc gia mới nổi châu Á được xếp vào hạng thấp.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Phép đo tốt nhất về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của một nước đó là "Park Index"
(Chỉ số Park), biểu thị về chỉ số bản quyền sáng chế đối với 110 quốc gia. Chỉ số này
là tổng của 5 điểm số riêng biệt, bao gồm: phạm vi bao phủ (các sáng chế được cấp
bằng); thành viên trong các hiệp ước quốc tế; thời hạn bảo hộ; các cơ chế thực thi; và
các giới hạn (ví dụ, chế độ giấy phép bắt buộc trong trường hợp một sáng chế đã được
cấp bằng không được khai thác một cách đầy đủ). Chỉ số Park được thiết kế để cung
cấp chỉ dẫn về hiệu lực bảo hộ bản quyền sáng chế tại các nước (không phải là chất
lượng tổng thể của các hệ thống sáng chế của các nước).
Theo số liệu gần đây nhất về Chỉ số Park (sử dụng dữ liệu của năm 2005), Mỹ là
nước có chế định bảo hộ sáng chế mạnh nhất thế giới. Xếp hạng sau Mỹ là các nước
Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Ailen, Italia, Nhật Bản, và Hà Lan. Thái Lan, Inđônêxia,
48
Việt Nam, và Pêru là những nước có chế độ bảo hộ sáng chế yếu kém nhất. Ấn Độ,
CH Slovak, CH Séc, Trung Quốc, và Lithuania cho thấy có những cải thiện đáng kể về
Chỉ số Park trong giai đoạn 2000 đến 2005.
Một đánh giá khác có độ tin cậy cao, đó các khảo sát của Diễn đàn kinh tế thế giới
về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại các quốc gia, trong đó có cả các phép đo về chống
làm giả tại các nước. Bảng 12 cho thấy các nước như Phần Lan, Thụy Điển, Singapo,
Luxembourg, và Thụy Sĩ được xếp hạng cao nhất. Bungari, Pêru, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và
Achentina có thứ hạng thấp nhất. Philipin và Việt Nam có điểm số chưa bằng một nửa
của các nước dẫn đầu.
Bảng 12: Đánh giá về Bảo hộ sở hữu trí tuệ của Diễn đàn kinh tế thế giới
Tên nước Đánh giá bảo hộ sở
hữu trí tuệ của
WEF (7=tốt nhất;
1=kém nhất)
Tên nước Đánh giá bảo hộ
sở hữu trí tuệ của
WEF (7=tốt nhất;
1=kém nhất)
Phần Lan 6.2 Ixrael 4.2
Sweden 6.2 Hàn Quốc 4.1
Singapo 6.1 Trung Quốc 4.0
Luxembourg 6.0 Hy Lạp 4.0
Thụy Sĩ 6.0 Hungari 4.0
Pháp 5.9 CH Czech 3.9
New Zealand 5.8 Inđônêxia 3.8
Austria 5.7 CH Slovak 3.8
Đan Mạch 5.7 Chilê 3.7
Đức 5.7 Italia 3.7
Hà Lan 5.7 Ba Lan 3.7
Ôxtrâylia 5.6 India 3.6
Canađa 5.6 Latvia 3.6
Ireland 5.6 Lithuania 3.5
Nauy 5.6 Rumani 3.2
Vương quốc Anh 5.5 Braxin 3.1
Hồng Kông 5.4 Mexico 3.1
Nhật Bản 5.2 Thái Lan 3.1
Bỉ 5.1 Philipin 2.8
Iceland 5.1 Việt Nam 2.7
Mỹ 5.1 Bungari 2.6
Đài Loan 4.9 Peru 2.6
Nam Phi 4.9 Nga 2.6
Ship 4.7 Thổ Nhĩ Kỳ 2.6
Malaixia 4.7 Argentina 2.5
Estonia 4.6 Tất cả các nước 4.5
49
Malta 4.6 19 nước APEC 4.3
Bồ Đào Nha 4.4 Các nước EU 4.7
Slovenia 4.4 Các nước OECD 4.9
Tây Ban Nha 4.3
Thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Trong khi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có tầm quan trọng, nhưng chúng sẽ không
mang lại lợi ích nếu như chúng không được thi hành. Sự cưỡng chế thi hành còn tùy
thuộc vào một số các yếu tố liên quan đến chất lượng của môi trường luật pháp và
chính trị của một nước, bao gồm cả sự tuân thủ theo các quy định luật pháp, mức độ
độc lập trong phán xét của tòa án, các nguồn lực sẵn có để thực thi quyền SHTT, và sự
chấp hành các quyền hạn này.
Đánh cắp bản quyền
Việc cho điểm các nước về thực thi quyền SHTT không thay thế được cho việc
đánh giá tính hiệu lực của thi hành. Để xem xét vấn đề này, tài liệu này đánh giá mức
độ sử dụng phần mềm phi bản quyền và rà soát xem những nước nào được đưa vào
Danh sách theo dõi đặc biệt của Văn phòng đại diện thương mại Mỹ (Special 301
Watch List) để đánh giá về việc bảo hộ không đầy đủ đối với người nắm giữ quyền sở
hữu trí tuệ nước ngoài.
Bảng 13 cho thấy Danh sách theo dõi đặc biệt của Văn phòng thương mại Mỹ, trong
đó xác định các nước không cung cấp một sự bảo hộ "tương xứng và có hiệu lực" đối
với những người nắm giữ quyền SHTT của Mỹ. Các nước không áp dụng chế độ bảo
hộ đầy đủ và có hiệu lực được đưa vào các danh sách theo dõi (Watch list) và danh
sách theo dõi hàng đầu (Priority Watch List).
Bảng 13: Danh sách theo dõi USTR 301 Watch List
Danh sách theo dõi hàng đầu Danh sách theo dõi
Argentina Braxin
Canađa Greece
Chilê Italia
China Malaixia
India Mexico
Inđônêxia Nauy
Ixrael Peru
Nga Philipin
50
Thái Lan Rumani
Tây Ban Nha
Thổ Nhĩ Kỳ
Việt Nam
5. Công nghệ số và thông tin truyền thông
Vai trò của CNTT-TT trong hệ sinh thái đổi mới
Là một loại công nghệ đa dụng (General purpose technology - GPT) chi phối đổi mới và
năng suất của tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế, CNTT-TT đóng một vai trò quan trọng
trong hệ sinh thái đổi mới toàn cầu. Ví dụ, việc sử dụng CNTT-TT, không phải là sản xuất,
đã đóng góp đến hai phần ba tăng trưởng năng suất yếu tố tổng (TFP) của Mỹ trong giai
đoạn từ 1995 đến 2002 và là nguyên nhân giải thích cho gần như tất cả sự gia tăng năng
suất lao động. Phân tích về một số các quốc gia thuộc OECD của Colecchia và Schreyer9 đã
phát hiện thấy rằng, trong suốt giai đoạn của những năm 1980 và 1990, CNTT-TT đã đóng
góp trong khoảng từ 0,2 đến 0,5% tăng trưởng kinh tế mỗi năm. Trong nửa sau của thập
niên 1990, đóng góp của CNTT-TT đã tăng từ 0,3% lên 0,9% mỗi năm. Ngoài ra, một
nghiên cứu về 27 nước phát triển và 66 nước đang phát triển của Clarke và Wallsten phát
hiện thấy rằng cứ 1% gia tăng ở số người sử dụng Internet tương quan với một sự gia tăng ở
xuất khẩu lên 4,3%. Theo một phân tích gần đây của Ngân hàng Thế giới về 120 quốc gia
cho thấy, độ bao phủ của dịch vụ băng thông rộng cứ tăng thêm 10% dẫn đến một sự gia
tăng ở tăng trưởng kinh tế lên 1,3%. Và tác động tăng trưởng từ băng thông rộng là đáng kể
và mạnh hơn ở các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Thực sự CNTT-TT
được coi là "siêu tư bản", có tác động mạnh đến năng suất của công nhân cao hơn từ 3 đến 5
lần so với nguồn vốn phi CNTT-TT, và nó chi phối đổi mới và tăng trưởng trong cả thế giới
phát triển lẫn thế giới đang phát triển. Vì vậy, chính sách công nghệ số và CNTT-TT dựa
trên cơ sở thị trường ít quan tâm đến sự phát triển của ngành công nghiệp CNTT-TT và chú
trọng nhiều hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng rộng rãi CNTT-TT trong
tất cả các lĩnh vực của một nền kinh tế. Nói theo cách khác, chính sách này chú trọng vào
việc xây dựng một hệ sinh thái đổi mới được tạo khả năng bằng CNTT-TT.
Ở đây có hai triển vọng về sự đóng góp của CNTT-TT cho tăng trưởng kinh tế. Thứ
nhất, đó là triển vọng kết quả đầu ra (output perspective), là nơi mà CNTT-TT đóng vai
trò như một đầu ra cung cấp cho người sử dụng các cơ hội đạt được thành tích phát triển
9 Alessandra Colecchia and Paul Schreyer, “CNTT-TT Investment and Economic Growth in the 1990s: Is the
United States a Unique Case?: A Comparative Study of Nine OECD Countries”, Review of Economic Dynamics
5, no. 2 (2002): 408–442.
51
cá nhân và chất lượng cuộc sống cao hơn. Ở phạm vi một nền kinh tế, CNTT-TT cũng
giúp xây dựng một cơ sở vốn tri thức phát triển và các mạng lưới tri thức mở rộng. Thứ
hai, cách nhìn quan trọng hơn đó là triển vọng đầu vào, trong đó CNTT-TT được coi như
"siêu tư bản" mang lại công cụ đầu vào mạnh mẽ cho quy trình sản xuất, qua đó làm tăng
năng suất của công ty cũng như của quốc gia. Nhiều quy trình phức tạp có liên quan, ví dụ
về một trong những quy trình như vậy là chu trình phản hồi động, ở đó đổi mới CNTT-TT
dẫn đến những ứng dụng mới, điều này đến lượt mình lại dẫn đến những đổi mới CNTT-
TT mới và cứ thế tiếp diễn. Một quy trình khác liên quan đến các ảnh hưởng ngoại lai
động và các hiệu ứng mạng, như khi biện pháp khuyến khích áp dụng CNTT-TT hoặc
một ứng dựng CNTT-TT làm tăng tổng số những người áp dụng CNTT-TT. Ví dụ điển
hình đó là băng thông rộng: mỗi một người sử dụng băng thông rộng mới làm tăng giá trị
của băng thông rộng đối với tất cả mọi người sử dụng nó. Một quy trình tiếp theo đó là sự
phổ biến CNTT-TT trong số các mô hình kinh doanh, cùng với chuỗi giá trị dọc, như
quản lý mối quan hệ khách hàng, quản lý dây chuyền cung ứng, và các hệ thống mua sắm,
và cắt ngang qua nhiều lĩnh vực ứng dụng chung như mobile banking, e-commerce, mạng
thông minh, và văn phòng thông minh.
Đánh giá các nước theo tiêu chí chính sách số và CNTT-TT
Để đánh giá chính sách số của các nước, có nhiều chỉ tiêu phụ được lựa chọn và
chia thành nhóm phù hợp với cơ cấu của hệ sinh thái đổi mới được tạo năng lực bằng
CNTT-TT. Các chỉ tiêu được chia thành bốn hạng mục chính: Năng lực cạnh tranh của
cơ sở hạ tầng và chính sách CNTT-TT, mở cửa quốc tế đối với CNTT-TT và cạnh
tranh thị trường, môi trường luật pháp, và sử dụng CNTT-TT. Chỉ tiêu năng lực cạnh
tranh cơ sở hạ tầng và chính sách CNTT-TT chiếm 25% điểm số về chính sách số của
một nước, bao gồm các chỉ số phụ liên quan sự tiếp cận cơ sở hạ tầng, tính hợp lý về
cơ sở hạ tầng, và điều hành chính sách CNTT-TT. Chỉ tiêu mở cửa quốc tế đối với
CNTT-TT và cạnh tranh thị trường chiếm 40% điểm số của một nước và bao gồm các
chỉ số phụ liên quan đến mở cửa quốc tế đối với CNTT-TT và mức độ cạnh tranh thị
trường. Chất lượng môi trường luật pháp của một nước liên quan đến chính sách
CNTT-TT chiếm 10% trong tổng điểm xếp hạng, và bao gồm các chỉ số phụ như các
quy định luật pháp liên quan đến CNTT-TT, ban hành các quy định về thư rác, và các
chính sách liên quan đến sự minh bạch, bảo mật và tội phạm mạng. Chỉ tiêu sử dụng
CNTT-TT trong khu vực nhà nước, bởi các doanh nghiệp và cá nhân chiếm 25% số
điểm đánh giá một nước về chính sách số. Có hơn 30 chỉ số phụ đã được đánh giá
trong việc tính điểm của các nước về chính sách số, phần này chiếm 17,5% trong tổng
điểm xếp hạng của một quốc gia về chính sách đổi mới.
52
Bảng 14 thể hiện đánh giá xếp hạng các nước về chính sách số, các quốc gia chiếm
các vị trí dẫn đầu thuộc châu Âu gồm có Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Aixơlen,
Luxembourg, Hà Lan,... cùng với Đài Loan, Hồng Kông, Singapo, Hàn Quốc thuộc
châu Á; Canađa và Mỹ thuộc Bắc Mỹ; Niu Zilân thuộc châu Đại dương. Trong số các
nước BRIC, có Braxin, Trung Quốc, và Ấn Độ được xếp vào hạng trung bình thấp,
trong khi Nga được xếp vào thứ hạng thấp.
Bảng 14: Xếp hạng các nước về chính sách số (theo trình tự chữ cái)
Bậc cao Trung bình cao Trung bình thấp Bậc thấp
Canađa Ôxtrâylia Braxin Argentina
Đài Loan Austria Bungari Inđônêxia
Đan Mạch Bỉ Chilê Mexico
Phần Lan Ship Trung Quốc Peru
Đức CH Czech Greece Philipin
Hong Kong Estonia India Nga
Iceland Pháp Italia Nam Phi
Luxembourg Hungari Latvia Việt Nam
Hà Lan Ireland Ba Lan
New Zealand Ixrael Rumani
Nauy Nhật Bản CH Slovak
Singapo Lithuania Slovenia
Hàn Quốc Malaixia Thái Lan
Sweden Malta Thổ Nhĩ Kỳ
Switzerland Bồ Đào Nha
Vương quốc Anh Tây Ban Nha
Mỹ
6. Mua sắm công
Mua sắm công là một động lực đổi mới
Các chính phủ có thể định hướng các chính sách mua sắm của mình để trở thành
những động lực đổi mới mạnh mẽ hơn, và chính sách mua sắm công cần là một thành
phần quan trọng trong chiến lược đổi mới của các nước. Các chính sách mua sắm công
sáng suốt có thể kích thích đổi mới tư nhân và các giải pháp đổi mới. Chúng đặt chính
phủ vào vị trí có thể thúc đẩy cầu về các công nghệ, sản phẩm và dịch vụ đổi mới, một
phần với tư cách như người sử dụng ban đầu, hay "người áp dụng sớm" (early adopter),
điều đó giúp chứng thực công nghệ hay thúc đẩy sự phát triển các thị trường mới. Các
tài liệu nghiên cứu về vai trò của cầu trong thúc đẩy đổi mới với kết quả điều tra ở hơn
1000 công ty phát hiện rằng, tại hơn một nửa số công ty, đổi mới xuất phát từ các nhu
53
cầu và yêu cầu mới. Các chính phủ có thể đóng một vai trò quan trọng và hợp pháp
hóa trong việc đẩy mạnh nhu cầu đó. Ví dụ, một công trình nghiên cứu chỉ ra rằng,
trong giai đoạn từ 1984 đến 1998, 48% các dự án dẫn đến đổi mới thành công tại Phần
Lan đã được khởi động bằng sự mua sắm hay quy định công. Công trình nghiên cứu
của Rothwell tìm ra rằng, trong thời hạn dài hơn, chính sách mua sắm công của các
nước đã khơi mào những xung lực đổi mới mạnh hơn ở nhiều lĩnh vực so với các tài
trợ NC&PT, và chúng làm được điều đó mà không cần đến bất cứ một khẩu hiệu nào
như "dùng hàng nội".
Trên phạm vi toàn cầu, nổi lên một mối quan tâm mới về giá trị của các cách tiếp
cận chú trọng cầu (demand-side) đối với đổi mới, và đặc biệt hơn, đó là việc sử dụng
nhu cầu công như một động cơ của đổi mới. Chính phủ thuộc nhiều nước đã bắt đầu sử
dụng thế mạnh của ngân quỹ để thúc đẩy đổi mới, một phần bằng cách làm cho đổi
mới thành một số đo để trao các hợp đồng ký kết với khu vực công. Bước đi ban đầu
mà các nước áp dụng đó là thừa nhận rằng, để thực hiện điều đó sẽ đòi hỏi các chính
sách và chiến lược rõ ràng nhằm khuyến khích đổi mới. Ví dụ như Bộ Kinh tế, thương
mại và công nghiệp Nhật Bản đã triển khai một quy trình mua sắm tích hợp nhằm mục
đích mở rộng mua sắm công nghệ trong chính phủ để thúc đẩy sự áp dụng nhanh
chóng các mạng lưới 3G rộng khắp (ubiquitous 3G network). Vào năm 2006, chính
phủ Thụy Điển đã mua lại VINNOVA, cơ quan chịu trách nhiệm về NC&PT và đổi
mới, và cả NOU (Ủy ban quốc gia Thụy Điển về mua sắm công) để xem xét mua sắm
công có thể đóng góp cho phát triển đổi mới và khôi phục sáng tạo như thế nào. Chính
phủ Ôxtrâylia đã từng tuyên bố rằng họ sẽ chi phối các hoạt động đổi mới trong khu
vực tư nhân bằng cách trở thành một khách hàng khắt khe và sáng suốt. Các cơ quan
của Úc được khuyến khích tìm kiếm các ý tưởng đổi mới bằng cách coi nét độc đáo
của các kiến nghị như một tiêu chuẩn riêng biệt.
Một số quốc gia đã thiết kế các chính sách mua sắm để thúc đẩy phát triển các nền
tảng công nghệ mà khu vực tư nhân có thể gặp khó khăn nếu muốn tự phát triển riêng.
Ví dụ, để kích thích sự phát triển liên lạc trường gần (Near-field communication -
NFC), và thanh toán di động nhờ công nghệ NFC, và sử dụng điện thoại di động như
ví tiền điện tử, IDA (Cơ quan phát triển thông tin và truyền thông) của Singapo đã tổ
chức một đối thoại bàn tròn gồm các ngân hàng, các nhà vận hành mạng di động, và
các công ty chuyển tiếp (transit) với mục đích để phát triển một kế hoạch quốc gia về
áp dụng thương mại điện tử di động bằng công nghệ NFC (NFC-enabled commerce).
Nhận thức được rằng, việc phát triển một môi trường NFC hoàn toàn tương thích sẽ
tạo nên một độ lớn thị trường lớn hơn gấp tám lần so với một môi trường không tương
54
thích, vì vậy IDA đã hình thành một bên tín thác quốc gia thứ ba để đảm bảo cho sự
tương thích trọn vẹn về các dịch vụ NFC của tất cả các nhà vận hành di động và nhà
cung cấp dịch vụ. Chính phủ Anh cũng đã nhận thức rằng, chính phủ cần tham gia một
cách dứt khoát vào việc ủng hộ và giúp đỡ để thúc đẩy nhanh năng lực thanh toán di
động. Chiến lược Bán vé thông minh và tích hợp năm 2009 của Bộ giao thông vận tải
Anh đã nhận ra viễn cảnh độ bao phủ phổ quát của một cơ sở hạ tầng bán vé thông
minh đối với tất cả các phương tiện giao thông công cộng của Anh, khi phát hiện ra
rằng việc sử dụng các công nghệ bán vé không tiếp xúc (contactless) như NFC có thể
tiết kiệm cho đất nước đến 2 tỷ bảng Anh mỗi năm.
Điều quan trọng là cần phải nhận thức được rằng các chính sách mua sắm công
chiến lược không cần phải có giá trị tương đương như một chính sách công nghiệp lựa
chọn người chiến thắng hay các công ty quán quân quốc gia về các lĩnh vực công nghệ
và công nghiệp then chốt. Trong khi mua sắm công chiến lược cần xác định các lĩnh
vực công nghệ mới nổi, phổ quát rộng, then chốt và có vẻ đã chín muồi về đổi mới, thì
việc tạo ra những đặc điểm như những công ty nào hay những giải pháp nào được ưu
tiên hoặc lựa chọn có thể sẽ là điều phản tác dụng. Ngoài ra, trong khi các chính phủ
nên coi đổi mới như một mục tiêu rõ ràng dứt khoát của quy trình mua sắm công, ở
đây có những con đường hợp pháp để thực hiện điều đó, và cũng có những cách bất
hợp pháp gây bóp méo thương mại toàn cầu thông qua việc trao quyền ưu tiên một
cách thiên vị cho các công ty trong nước. Trước tiên, khi chú ý đến đổi mới để cân
nhắc mua sắm công, các tiêu chuẩn cần xem xét, cũng như tất cả các tiêu chuẩn sử
dụng trong quyết định trao hợp đồng chính phủ đều cần minh bạch và công bố công
khai, và cần áp dụng một cách công bằng và nhất quán đối với các công ty trong nước
cũng như các công ty nước ngoài. Ngoài ra, nguồn gốc tài sản trí tuệ hay công nghệ
của một doanh nghiệp được sử dụng trong đấu thầu không nên coi là một điều kiện cân
nhắc trong đánh giá của chính phủ, bởi vì điều đó có thể dẫn đến các nguy cơ khóa
chốt ở công nghệ tồi.
Tuy nhiên, cũng có nhiều chính sách mua sắm của nhiều nước ưu tiên các công ty
trong nước và ngăn chặn một cách có hiệu quả các hãng cạnh tranh nước ngoài trong
đấu thầu các hợp đồng mua sắm công. Những thực tiễn như vậy có thể gây tổn hại về
mặt kinh tế vì nhiều lý do. Thứ nhất, các doanh nghiệp và công dân bị ảnh hưởng do
nhận được công nghệ, sản phẩm, hay các dịch vụ chất lượng thấp, trong khi phải trả
cao hơn cho đặc quyền đó. Hơn nữa, do không lựa chọn những chào thầu chất lượng
cao, các nước có thể bỏ lỡ các cơ hội học hỏi và cải tiến công nghệ, là những yếu tố
thường lan tỏa trong thị trường diễn ra mua sắm công. Thứ hai, những thực hành như
55
vậy gây ảnh hưởng đến các nguyên tắc thương mại tự do toàn cầu. Chúng cũng có thể
mâu thuẫn với các giao ước pháp lý tuân theo Hiệp định mua sắm công (GPA) của Tổ
chức thương mại thế giới, các nguyên tắc ngăn cấm các giới hạn đối với mua sắm công
giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, cho dù các nước có là thành viên của GPA hay
không, thì chế độ đối xử quốc gia là một cam kết cơ bản mà hệ thống thương mại thế
giới dựa vào đó, và các nước nào không làm phù hợp sự đãi ngộ quốc gia đối với các
hãng cạnh tranh nước ngoài trong mua sắm công có thể gây tổn hại đến cả mục tiêu và
sự hiện thực hóa tụ do hóa thương mại. Vì thế trong khi các chính sách mua sắm công
đóng một vai trò hợp pháp trong thúc đẩy đổi mới, điều bắt buộc là chúng không nên
được sử dụng để bóp méo thương mại tự do thông qua những đối xử thiên vị đối với
các công ty cạnh tranh trong nước.
Đánh giá các nước theo tiêu chí: Chính sách mua sắm công
Phần này xếp hạng các nước theo tiêu chí áp dụng các nguyên tắc mua sắm của
chính phủ dựa trên sự tham gia của các nước vào Hiệp định mua sắm công của Tổ
chức thương mại thế giới. Mức độ mua sắm được tính đối với các doanh nghiệp thuộc
sở hữu nhà nước, điểm số của các nước về Chỉ số nhận thức tham nhũng của Tổ chức
Minh bạch quốc tế, và đánh giá tính hiệu quả của họ trong mua sắm các sản phẩm
công nghệ tiên tiến. Số lượng và quy mô của những thực hành gây bóp méo thương
mại của các chính sách hàm lượng nội địa và các chính sách mua sắm công khác cũng
được đánh giá. Các chỉ tiêu dùng để đánh giá gồm: Sự tham gia vào Hiệp định Mua
sắm công của WTO; Chỉ số doanh nghiệp và đầu tư công; Chỉ số nhận thức tham
nhũng; Mua sắm công các sản phẩm công nghệ tiên tiến. Điểm số của các quốc gia về
các chỉ tiêu mua sắm công được tính 10% trong tổng số điểm của các nước. (Xem
bảng 15)
Bảng 15: Xếp hạng các nước về mua sắm công (Theo trình tự chữ cái)
Bậc cao Trung bình cao Trung bình thấp Bậc thấp
Austria Ôxtrâylia Latvia Argentina
Bỉ Bungari Rumani Braxin
Canađa Chilê Thổ Nhĩ Kỳ Trung Quốc
Đài Loan CH Czech Ấn Độ
CH Síp Greece Inđônêxia
Đan Mạch Hungari Malaixia
Estonia Ireland Mexico
Phần Lan Ixrael Peru
France Italia Philipin
56
Đức Lithuania Nga
Hong Kong Malta Nam Phi
Iceland New Zealand Thái Lan
Nhật Bản Ba Lan Việt Nam
Luxembourg CH Slovak
Hà Lan Tây Ban Nha
Nauy South Korea
Bồ Đào Nha
Slovenia
Singapo
Sweden
Switzerland
Vương quốc Anh
Mỹ
Theo đánh giá này, đa số những nước nào chiếm hai thứ hạng bậc cao đều áp dụng
các chính sách mua sắm công minh bạch, không phân biệt đối xử, cạnh tranh mở, và
dựa trên hiệu quả. Trong số các nước thuộc EU, chỉ có Rumani không được xếp vào
hai thứ hạng bậc cao. Hầu hết các nước đang phát triển được xếp vào thứ hạng thấp,
trong đó có các nước BRIC, gồm Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc.
7. Nhập cư nhân lực có kỹ năng cao
Trong nền kinh tế tri thức toàn cầu hóa, việc đảm bảo một lực lượng nhân tài có kỹ
năng cao đang trở thành một điều kiện quan trọng đối với hệ thống đổi mới quốc gia
và tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế, một số người lập luận rằng, nhân tài đã trở thành
"loại hàng hóa được săn lùng nhiều nhất của thế giới". Sự nhập cư có vai trò quan
trọng trong việc đóng góp vào kho kiến thức và tiềm năng sáng tạo của một nước bằng
cách mang đến những triển vọng mới và các kỹ năng cần thiết từ bên ngoài. Sự "luân
chuyển chất xám" (Brain circulation) này cho phép các nước có thể khai thác sâu kho
kiến thức và kỹ năng đang phát triển hơn bao giờ hết nằm ngoài ranh giới nước mình,
điều này dẫn đến sự đổi mới và thịnh vượng hơn trong phạm vi của một nước và cả
trên phạm vi thế giới.
Các quốc gia như Mỹ đã đạt được những lợi ích rất lớn từ việc thu hút nhân tài nước
ngoài có kỹ năng cao, đặc biệt là thông qua các công ty và việc làm mà nhiều người nhập cư
có kỹ năng cao tạo nên. Ví dụ, có nhiều công trình nghiên cứu đã xem xét vai trò của người
nhập cư trong khởi sự các doanh nghiệp mới tại Mỹ, và đã đi đến kết luận rằng người nhập
cư là những thanh phần then chốt trong quá trình này, họ đã góp phần tạo nên từ 15% đến
57
26% các công ty mới thuộc lĩnh vực công nghệ cao tại Mỹ trong vòng hai thập kỷ qua. Một
số bang của Mỹ thậm chí còn được hưởng lợi lớn hơn: có đến gần 40% các công ty công
nghệ và kỹ thuật được thành lập trong giai đoạn 1995 đến 2005 tại các bang California và
New Jersey của Mỹ là do người nhập cư sáng lập. Và trong khi một số nhà phân tích cho
rằng, nhân công kỹ năng cao nước ngoài đã làm hạ thấp mức lương của công nhân trong
nước theo một công trình nghiên cứu vào năm 2010 tại Mỹ. Tuy nhiên, một số nghiên cứu
khác cho thấy sự nhập cư không có tác động rõ ràng đến tỷ lệ thất nghiệp hay đến sự phân
bố thu nhập trong nền kinh tế Mỹ.
Trước vai trò quan trọng của người nhập cư kỹ năng cao trong việc mang đến kỹ
năng, tài năng, và tri thức cho xã hội và sự đóng góp của họ vào việc phát triển các
công ty mới và qua đó là tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế, một số nước đóng cửa
đối với nhập cư nhân lực kỹ năng cao đã phải chịu tổn thất. Arora, Branstetter và
Dev
10
đã phát hiện ra rằng, sự gia tăng đổi mới dựa trên phần mềm đã có những tác
động khác biệt đến thành tích thực hiện của các công ty CNTT-TT của Mỹ và Nhật
Bản, dẫn đến sự suy giảm trong ngành CNTT-TT của Nhật Bản trong khi lại góp phần
làm Thung lũng Silicon trỗi dậy. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, các công ty CNTT-
TT của Mỹ đã đạt được vị trí tốt hơn so với các công ty của Nhật Bản khi mà đổi mới
trong lĩnh vực CNTT-TT đã trở nên có cường độ mạnh hơn về phần mềm, trong khi
các công ty Nhật Bản không thể vượt qua những hạn chế về nguồn nhân lực quốc gia
để có được những kỹ năng cần thiết về phần mềm. Theo các nhà phân tích, một trong
những nguyên nhân của điều đó là do "các quy định nghiêm ngặt về nhập cư của Nhật
Bản và lịch sử lâu dài của đất nước này như một xã hội đạo lý thuần nhất gây cản trở
sự nhập cư quy mô lớn nguồn lao động có kỹ năng nước ngoài, tạo nên các trở ngại
trong việc truyền bá kinh nghiệm nước ngoài vào Nhật Bản". Nếu những cải cách thể
chế tại Nhật Bản không thể mở cửa thị trường lao động của nước này cho nhân lực
nhập cư có kỹ năng cao, điều đó có thể khiến cho các công ty của Nhật Bản bị mất lợi
thế so với các công ty của Mỹ trong dài hạn. Như tạp chí The Economist đã nhận xét
trong một bài báo mang tên "People Protectionism" (Chủ nghĩa bảo hộ con người),
rằng các chính sách nhằm vào việc bảo vệ việc làm cho nhân công trong nước có thể
trở nên thiển cận trong cuộc chơi tìm kiếm nhân tài và tăng khả năng cạnh tranh.
Các chính sách nhập cư mở cửa đối với nhân công có trình độ cao sẽ đáp ứng nhu
cầu về nhân tài, mở rộng nhu cầu nhân tài và tạo ra các luồng tri thức theo cả hai
hướng. Hơn nữa, các chính sách nhập cư mở của nước ngoài có thể tạo nên nhu cầu về
10 Hashish Arora, Lee Branstetter, and Mate Drev, “Going Soft: How the Rise of Software Based Innovation Led
to the Decline of Japan‟s IT Industry and the Rise of Silicon Valley” (working paper, National Bureau of
Economic Research, Cambridge, MA, July 2010), 1,
58
việc làm kỹ năng cao đối với nền kinh tế trong nước, do các cá nhân sẽ nhận thức được
rằng họ có thể đảm đương được các việc làm có chất lượng bằng các kỹ năng của mình.
Vì vậy, các chính phủ cần hoan nghênh sự cạnh tranh hợp pháp giữa các nước để tận
dụng sự luân chuyển quốc tế nguồn nhân lực kỹ năng cao, đặc biệt là trong các lĩnh
vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Trên thực tế, nhiều quốc gia đã thực
hiện các chiến lược rõ ràng để thu hút nhân lực có kỹ năng, như Papadermetriou đã
nhận xét: "Một lý do then chốt đằng sau chính sách nhập cư của các nước đó là sử
dụng sự nhập cư như một công cụ then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và năng lực
cạnh tranh". Kho nhân tài toàn cầu đang phát triển nhanh chóng và luân chuyển rộng
rãi sẽ đưa đến sự phồn vinh trong bối cảnh về sự mở cửa và phụ thuộc lẫn nhau lớn
hơn.
Các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá các nước về chính sách nhập cư nhân lực kỹ
năng cao bao gồm: Mức độ nhập cư kỹ năng cao; Tỷ trọng giữa nhập cư nhân lực kỹ
năng cao so với nhập cư nhân lực kỹ năng thấp; Tỷ trọng người nhập cư kỹ năng cao
trong tổng dân số. Bảng 16 cho thấy xếp hạng các quốc gia theo tiêu chí này. Điểm số
về chính sách nhập cư nhân lực kỹ năng cao chiếm 7,5% trong tổng số điểm xếp hạng
của các quốc gia về chính sách đổi mới sáng tạo.
Bảng 16: Xếp hạng các nước về nhập cư nhân lực kỹ năng cao
Bậc cao Trung bình cao Trung bình thấp Bậc thấp
Canađa Ôxtrâylia Argentina Bungari
Đài Loan Nhật Bản Austria Czech Republic
Hong Kong Latvia Bỉ Phần Lan
Ixrael Malaixia Braxin Greece
Singapo New Zealand Chilê Italia
Philipin Trung Quốc Lithuania
Nam Phi CH Síp Malta
Mỹ Đan Mạch Mexico
Estonia Bồ Đào Nha
Pháp Rumani
Đức Slovak Republic
Hungari Slovenia
Iceland Tây Ban Nha
Ireland Thổ Nhĩ Kỳ
India
Inđônêxia
Luxembourg
Netherlands
Nauy
59
Peru
Ba Lan
Nga
Hàn Quốc
Sweden
Switzerland
Thái Lan
Vương quốc Anh
Việt Nam
III. XẾP HẠNG CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI SÁNG TẠO TOÀN CẦU
1. Xếp hạng tổng thể các quốc gia theo năng lực chính sách đổi mới
Các nước được xếp vào các thứ bậc cao, trung bình cao, trung bình thấp và thấp dựa
trên điểm số tổng hợp của các quốc gia về bẩy lĩnh vực chính sách đổi mới sáng tạo
then chốt.
Bảng 17: Xếp hạng tổng thể các quốc gia theo năng lực chính sách đổi mới
Bậc cao Trung bình cao Trung bình thấp Bậc thấp
Ôxtrâylia Bỉ Braxin Argentina
Austria CH Síp Bungari Ấn Độ
Canađa CH Czech Chilê Inđônêxia
Đài Loan Estonia Trung Quốc Mexico
Đan Mạch Hungari Hy Lạp Peru
Phần Lan Iceland Italia Philipin
Pháp Ireland Latvia Nga
Đức Ixrael Malaixia Thái Lan
Hong Kong Lithuania Ba Lan Việt Nam
Nhật Bản Luxembourg Rumani
Hà Lan Malta CH Slovak
New Zealand Bồ Đào Nha Nam Phi
Nauy Slovenia Thổ Nhĩ Kỳ
Singapo Hàn Quốc
Thụy Điển Tây Ban Nha
Thụy Sĩ
Vương quốc Anh
Mỹ
60
2. Xếp hạng các quốc gia theo các lĩnh vực chính sách đổi mới cốt yếu
Bảng 18: Xếp hạng các nước theo bẩy lĩnh vực chính sách đổi mới then chốt
Tên nước
Thứ
hạng
chung
Thương
mại
Khoa
học/NC&PT
Cạnh
tranh
trong
nước
Sở hữu
trí tuệ
CNTT-
TT
Mua
sắm
công
Nhập
cư kỹ
năng
cao
Argentina Lower Lower Lower-Mid Lower Lower Lower Lower Lower-
Mid
Ôxtrâylia Upper Upper Upper Upper Upper Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Austria Upper Upper Upper Upper-
Mid
Upper Upper-
Mid
Upper Lower-
Mid
Bỉ Upper-
Mid
Upper Lower-Mid Upper-
Mid
Upper Upper-
Mid
Upper Lower-
Mid
Braxin Lower-
Mid
Lower Upper-Mid Lower Lower Lower-
Mid
Lower Lower-
Mid
Bungari Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower
Canađa Upper Upper Upper Upper Upper Upper Upper Upper
Chilê Lower-
Mid
Upper Lower-Mid Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower-
Mid
Trung Quốc Lower-
Mid
Lower Upper-Mid Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower Lower-
Mid
61
Đài Loan Upper Lower-
Mid
Upper Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper Upper Upper
CH Síp Upper-
Mid
Upper-
Mid
Lower-Mid Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper Lower-
Mid
CH Czech Upper-
Mid
Upper Upper-Mid Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Lower
Đan Mạch Upper Upper Upper Upper Upper Upper Upper Lower-
Mid
Estonia Upper-
Mid
Upper Upper-Mid Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper Lower-
Mid
Phần Lan Upper Upper Upper Upper-
Mid
Upper Upper-
Mid
Upper Lower
Pháp Upper Upper Upper Lower-
Mid
Upper Upper-
Mid
Upper Lower-
Mid
Đức Upper Upper Upper-Mid Upper-
Mid
Upper Upper-
Mid
Upper Lower-
Mid
Hy Lạp Lower-
Mid
Upper Lower-Mid Lower Lower-
Mid
Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower
Hong Kong Upper Upper-
Mid
Upper-Mid Upper Upper-
Mid
Upper Upper Upper
Hungari Upper-
Mid
Upper Lower-Mid Lower-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Lower-
Mid
62
Iceland Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-Mid Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper Upper Lower-
Mid
Ấn Độ Lower Lower Upper-Mid Lower Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower Lower-
Mid
Inđônêxia Lower Lower Lower Lower Lower Lower Lower Lower-
Mid
Ireland Upper-
Mid
Upper Lower-Mid Upper-
Mid
Upper Upper-
Mid
Upper-
Mid
Lower-
Mid
Ixrael Upper-
Mid
Lower-
Mid
Upper-Mid Lower-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper
Italia Lower-
Mid
Upper Upper-Mid Lower Upper-
Mid
Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower
Nhật Bản Upper Lower-
Mid
Upper-Mid Upper-
Mid
Upper Upper-
Mid
Upper Upper-
Mid
Latvia Lower-
Mid
Upper Lower-Mid Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower-
Mid
Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lithuania Upper-
Mid
Upper Upper-Mid Lower-
Mid
Lower-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Lower
Luxembourg Upper-
Mid
Upper Lower Lower-
Mid
Upper Upper-
Mid
Upper Lower-
Mid
Malaixia Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower Upper-
Mid
Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower Upper-
Mid
63
Malta Upper-
Mid
Upper-
Mid
Lower Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Lower
Mexico Lower Upper-
Mid
Lower Lower Lower-
Mid
Lower Lower Lower
Hà Lan Upper Upper Upper Upper-
Mid
Upper Upper Upper Lower-
Mid
New
Zealand
Upper Upper Lower-Mid Upper Upper Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Nauy Upper Upper Upper Upper-
Mid
Upper Upper Upper Lower-
Mid
Peru Lower Upper-
Mid
Lower Lower Lower Lower-
Mid
Lower Lower-
Mid
Philipin Lower Lower Lower Lower Lower Lower Lower Upper-
Mid
Ba Lan Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower-Mid Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower-
Mid
Bồ Đào Nha Upper-
Mid
Upper Upper-Mid Lower-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper Lower
Rumani Lower-
Mid
Upper Lower-Mid Lower Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower
Nga Lower Lower Upper-Mid Lower Lower Lower Lower Lower-
Mid
Singapo Upper Upper Upper Upper Upper Upper Upper Upper
CH Slovak Lower-
Mid
Upper Lower Upper-
Mid
Upper-
Mid
Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower
64
Slovenia Upper-
Mid
Upper Upper-Mid Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower-
Mid
Upper Lower
Nam Phi Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower-Mid Lower-
Mid
Upper-
Mid
Lower Lower Upper-
Mid
Hàn Quốc Upper-
Mid
Lower-
Mid
Upper Lower-
Mid
Upper-
Mid
Upper Upper-
Mid
Lower-
Mid
Tây Ban
Nha
Upper-
Mid
Upper Upper Lower-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Upper-
Mid
Lower
Thụy Điển Upper Upper Upper Upper-
Mid
Upper Upper Upper Lower-
Mid
Thụy Sĩ Upper Upper-
Mid
Upper-Mid Upper Upper Upper Upper Lower-
Mid
Thái Lan Lower Lower Lower Lower-
Mid
Lower Lower-
Mid
Lower Lower-
Mid
Thổ Nhĩ Kỳ Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower-Mid Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower-
Mid
Lower
Vương quốc
Anh
Upper Upper Upper-Mid Upper Upper Upper Upper Lower-
Mid
Mỹ Upper Upper Upper-Mid Upper Upper Upper Upper Upper-
Mid
Việt Nam Lower Lower-
Mid
Lower Lower-
Mid
Lower Lower Lower Lower-
Mid
65
KẾT LUẬN
Để tối đa hóa đổi mới sáng tạo toàn cầu, các quốc gia cần thực hiện các chính sách
liên quan đến thương mại, khoa học và NC&PT, CNTT-TT, quyền SHTT, cạnh tranh
thị trường trong nước, mua sắm công, và nhập cư nhân lực kỹ năng cao theo các cách
thức có thể tối đa hóa năng lực đổi mới sáng tạo của mình trong khi không gây bóp
méo thương mại toàn cầu. Để thực hiện được điều đó, chính sách của các nước cần
phải có các thuộc tính minh bạch, không phân biệt đối xử, và dựa vào các nguyên tắc
thị trường, tuân thủ theo các tiêu chuẩn toàn cầu và đảm bảo luồng chảy tự do của
nhân tài, vốn, thông tin, sản phẩm, dịch vụ, và công nghệ.
Do chính sách đổi mới và thương mại ngày càng trở nên liên kết với nhau, sự mở
cửa thương mại được đặc trưng bằng khả năng tiếp cận thị trường mở và khả năng tiếp
thu FDI đã trở thành trụ cột nền tảng của năng lực đổi mới của một quốc gia. Tự do
thương mại mang lại lợi ích cho tất cả các nước bằng cách cho phép các nước có thể
chuyên môn hóa vào việc sản xuất các sản phẩm hay dịch vụ mà họ có lợi thế tương
đối hay cạnh tranh. Điều này cũng có nghĩa là các nước không nên tập trung vào tất cả
các loại hình công nghệ; thay vào đó, thương mại cho phép họ có thể chuyên môn hóa
vào những gì họ có thể làm tốt và sau đó có thể trao đổi với phần thế giới còn lại. Một
thành phần quan trọng của thương mại tự do đó là sự mở cửa của các nước đối với đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào và ra. Nghiên cứu chỉ ra rằng FDI đóng góp quan trọng cho
năng lực đổi mới sáng tạo khu vực và tăng trưởng kinh tế, một phần thông qua chuyển
giao công nghệ và bí quyết quản lý. Một thành phần quan trọng khác trong chính sách
thương mại của các nước đó là việc sử dụng các tiêu chuẩn tự nguyện toàn cầu, chi
phối bởi thị trường, thúc đẩy đổi mới và cạnh tranh trong khi tạo nên các thị trường
sản phẩm và dịch vụ. Thứ hạng bậc cao về chính sách thương mại chủ yếu thuộc về
các quốc gia thuộc EU và OECD, các nước này đều tham gia sâu vào quá trình tự do
hóa thương mại kể từ Chiến tranh thế giới thứ II. Các nước được xếp hạng bậc cao về
chính sách thương mại là những nước tiến bộ nhất trong việc gỡ bỏ các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan và thực hiện mở cửa đối với FDI. Các nước có vị trí xếp hạng
bậc thấp như Achentina, Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ, và Nga có tham gia vào một số
hoạt động gây bóp méo thương mại, đặc biệt là thao túng tiền tệ; áp đặt NTB như các
điều kiện về cơ hội tiếp cận thị trường; giới hạn FDI; và duy trì mức thuế cao.
Các chính sách khoa học và NC&PT, bao gồm các biện pháp khuyến khích NC&PT
bằng thuế, chi tiêu NC&PT của chính phủ, và sở hữu tài sản trí tuệ của trường đại học,
66
nhằm đẩy mạnh tiềm năng đổi mới của các nước bằng cách tăng cường năng lực trong
việc hấp thu lợi ích từ đổi mới công nghệ. Các nước cần nhận thức được về một danh
mục đầu tư đa dạng các công cụ khoa học và NC&PT, nhằm mục tiêu vào các công
nghệ chiến lược và đa năng và các lĩnh vực công nghiệp ở tất cả các giai đoạn phát
triển, và phối hợp chúng với một Quỹ đổi mới quốc gia để tận dụng được lợi thế của
sự hợp lực cố hữu giữa các chính sách. Nhưng các chính sách khoa học và NC&PT
như khả năng cùng được hưởng các khuyến khích NC&PT bằng thuế hay các khoản
tài trợ NC&PT cần không được phân biệt đối xử đối với các công ty nước ngoài đang
hoạt động trong nước, nếu làm như vậy các nước có thể hạn chế khả năng của mình
trong việc nắm bắt các lợi ích từ việc chia sẻ ý tưởng, kiến thức và kỹ năng đang củng
cố toàn bộ hệ thống đổi mới toàn cầu. Phần lớn các quốc gia thuộc Tây Âu và Bắc Mỹ,
bốn quốc gia Con hổ châu Á, và các nước BRIC được xếp vào hai thứ bậc cao trong
bảng xếp hạng về chính sách khoa học và NC&PT. Mặt khác, nhiều nước thuộc khu
vực Đông Á như Inđônêxia, Malaixia, Philipin, Thái Lan và Việt Nam thực hiện các
chính sách khoa học và NC&PT vẫn còn yếu kém.
Các thị trường cạnh tranh sôi động trong nước được hỗ trợ bằng một môi trường
luật pháp lành mạnh và công bằng cho phép các công ty, cả mới lẫn đã hiện diện, có
thể cùng cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng vẫn là điều mấu chốt của phát triển.
Thực sự là một trong những động lực chi phối mạnh mẽ nhất đổi mới và tăng năng
suất lao động đó là sự tồn tại của các thị trường cạnh tranh. Điều đó bao gồm việc gỡ
bỏ các giới hạn về luật pháp, các bảo hộ ưu tiên, những giới hạn thương mại xuyên
biên giới, và những giới hạn thị trường lao động gây ngăn cản cạnh tranh. Các quốc
gia dẫn đầu có các hệ thống luật pháp minh bạch và không phân biệt đối xử, cung cấp
thủ tục hợp pháp, và bao gồm các cơ hội cho sự tham gia trọn vẹn của tất cả các thành
phần tham gia. Chiếm thứ hạng bậc cao có tám quốc gia gồm Ôxtrâylia, Canađa, Đan
Mạch, Hồng Kông, Singapo, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, và Mỹ dẫn đầu các nước về
cạnh tranh thị trường trong nước và tinh thần khởi nghiệp.
Sự tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ là một nhân tố quan trọng để phát triển thương
mại toàn cầu và FDI. Sự bảo hộ có hiệu quả và thực thi quyền sở hữu trí tuệ khuyến
khích các nhà đổi mới đầu tư vào nghiên cứu, phát triển, và thương mại hóa công nghệ
trong khi thúc đẩy phổ biến công nghệ. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ yếu sẽ làm giảm
lưu lượng FDI và chuyển giao công nghệ. Sự bảo hộ sở hữu trí tuệ không thích hợp sẽ
gây ảnh hưởng đến đổi mới về tổng thể và điều đó có thể gây tổn hại tất cả các nước.
67
Hơn nữa, cải cách quyền SHTT có xu hướng dẫn đến việc mang lại các kết quả kinh tế
tích cực, bất kể trình độ phát triển của một nước như thế nào. Các quốc gia dẫn đầu về
chính sách quyền SHTT thường là các nước phát triển, như Ôxtrâylia, Hà Lan, và
Vương quốc Anh. Các quốc gia thuộc châu Mỹ Latinh gồm Achentina, Braxin, và
Pêru cùng với các nước châu Á như Inđônêxia, Philipin, Thái Lan, và Việt Nam xếp
thứ hạng thấp về lĩnh vực này.
Công nghệ thông tin và truyền thông là một trong những yếu tố tạo khả năng mạnh nhất
đối với năng suất và đổi mới trong nền kinh tế toàn cầu. Các chính sách số hữu hiệu chú
trọng trước tiên và trên hết vào việc đẩy mạnh sử dụng CNTT-TT trên phạm vi toàn bộ nền
kinh tế. Các nước dẫn đầu trong lĩnh vực này nhận thức được rằng, cơ hội lớn nhất để đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế nằm ở sự gia tăng năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh
vực trong nước mình, đặc biệt là thông qua việc ứng dụng CNTT-TT. Về lĩnh vực chính
sách số, Đan Mạch, Aixơlen, Hà Lan, Nauy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, và Vương quốc Anh là
những nước chiếm các vị trí dẫn đầu, cùng với Đài Loan, Hồng Kông, Singapo, Hàn Quốc
ở châu Á, Canađa và Mỹ thuộc khu vực Bắc Mỹ. Achentina, Inđônêxia, Mêhico, Peru,
Philipin, Nga, Nam Phi, và Việt Nam được xếp thứ hạng thấp.
Mua sắm công chiếm một tỷ trọng lớn trong hầu hết các nền kinh tế, vì vậy việc
đảm bảo các thực tiễn mua sắm công công bằng và mở đã trở thành một khía cạnh
quan trọng đối với hiện thực tự do hóa thương mại toàn cầu. Một nguyên tắc cơ bản
của thương mại dựa trên thị trường đó là mua sắm của chính phủ cần thực hiện dựa
trên cơ sở giá trị tốt nhất đối với chính phủ, không nên dựa trên cơ sở thiên vị quốc gia.
Điều đó không có nghĩa là các chính phủ không nên định hướng các chính sách mua
sắm công của mình để trở thành những động lực mạnh mẽ của đổi mới. Nhưng các
chính sách mua sắm công cần minh bạch, không phân biệt đối xử, cạnh tranh mở, và
dựa vào hiệu quả. Đặc biệt, các nước cần hạn chế việc áp dụng hoặc duy trì các biện
pháp làm cho địa điểm phát triển hay quyền sở hữu trí tuệ, hay bất cứ yêu cầu nào đối
với sở hữu trí tuệ trở thành điều kiện để có đủ tư cách được hưởng sự ưu đãi của chính
phủ. Đa số các nước được xếp vào hai thứ hạng cao về chính sách mua sắm công đều
thông qua các chính sách minh bạch, không phân biệt đối xử, cạnh tranh mở, và dựa
trên hiệu quả. Nhiều nước thuộc châu Mỹ Latinh và châu Á như Philipin, Inđônêxia,
Malaixia, Thái Lan và Việt Nam được xếp thứ hạng thấp.
Nhân tài đã trở thành loại hàng hóa được săn lùng nhất trên thế giới. Việc có được
nguồn nhân lực kỹ năng cao là điều kiện quan trọng đối với thể chất của các nước.
Nhập cư nhân lực kỹ năng cao đóng một vai trò độc đáo trong việc mang đến các kỹ
68
năng, tài năng, và tri thức cho các xã hội, góp phần phát triển các công ty mới, và qua
đó là tăng trưởng việc làm và kinh tế. Như vậy các chính sách nhập cư đóng một vai
trò quan trọng trong việc góp phần vào kho tri thức của đất nước và tạo năng lực sáng
tạo bằng cách mang đến các triển vọng mới và các kỹ năng và tri thức cần thiết từ các
nơi khác. Chỉ có Canađa, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Ixrael, và Singapo là
những nước và lãnh thổ có thứ hạng cao về chính sách nhập cư thành công nhất thu
hút tỷ lệ người nước ngoài nhập cư có kỹ năng cao. Tiếp theo là các nước thuộc thứ
hạng bậc trung bình cao gồm Ôxtrâylia, Nhật Bản, Latvia, Malaixia, Niu Zilân,
Philipin, Nam Phi, và Mỹ. Chiếm các vị trí trong hai thứ hạng thấp hơn về lĩnh vực
này có cả các quốc gia phát triển lẫn quốc gia đang phát triển.
Bẩy lĩnh vực chính sách nêu trên tạo nên một cơ sở nền tảng xác định các chính
sách đổi mới sáng tạo hiệu quả có thể chi phối tăng trưởng kinh tế trong nước trong
khi đảm bảo một hệ sinh thái đổi mới bền vững mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia
trên toàn cầu. Các nước dẫn đầu về các lĩnh vực này là những nước có được vị thế
vững chắc về thể trạng kinh tế lành mạnh và nâng cao mức sống cho các công dân về
lâu dài. Các nước tụt hậu đằng sau, do các chính sách chưa phát triển hoặc do các
chính sách gây ảnh hưởng đến hệ thống đổi mới toàn cầu cần tư duy lại về cách tiếp
cận của mình, nên dành thêm các nguồn lực và chú trọng đến các chính sách đổi mới
để nhằm đạt được tối đa tiềm năng đổi mới của quốc gia và thúc đẩy chia sẻ sự thịnh
vượng trên toàn cầu.
Biên soạn: Trung tâm Xử lý và Phân tích thông tin
69
PHỤ LỤC
Bảng xếp hạng 141 quốc gia về Chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) 2012
Nguồn: The Global Innovation Index 2012, INSEAD (The Business School for the World) and
WIPO (World Intellectual Property Organization)
Tên nước/nền kinh tế Điểm số Xếp hạng Thu
nhập
Xếp
hạng
Khu vực Xếp hạng
Thụy Sĩ 68.2 1 HI 1 EUR 1
Thụy Điển 64.8 2 HI 2 EUR 2
Singapo 63.5 3 HI 3 SEAO 1
Phần Lan 61.8 4 HI 4 EUR 3
Vương Quốc Anh 61.2 5 HI 5 EUR 4
Hà Lan 60.5 6 HI 6 EUR 5
Đan Mạch 59.9 7 HI 7 EUR 6
Hồng Kông 58.7 8 HI 8 SEAO 2
Ailen 58.7 9 HI 9 EUR 7
Mỹ 57.7 10 HI 10 NAC 1
Luxembourg 57.7 11 HI 11 EUR 8
Canađa 56.9 12 HI 12 NAC 2
New Zealand 56.6 13 HI 13 SEAO 3
Nauy 56.4 14 HI 14 EUR 9
Đức 56.2 15 HI 15 EUR 10
Malta 56.1 16 HI 16 EUR 11
Ixrael 56.0 17 HI 17 NAWA 1
Aixơlen 55.7 18 HI 18 EUR 12
Estonia 55.3 19 HI 19 EUR 13
Bỉ 54.3 20 HI 20 EUR 14
Hàn Quốc 53.9 21 HI 21 SEAO 4
Áo 53.1 22 HI 22 EUR 15
Ôxtrâylia 51.9 23 HI 23 SEAO 5
Pháp 51.8 24 HI 24 EUR 16
Nhật Bản 51.7 25 HI 25 SEAO 6
Slovenia 49.9 26 HI 26 EUR 17
CH Sec 49.7 27 HI 27 EUR 18
CH Síp 47.9 28 HI 28 NAWA 2
Tây Ban Nha 47.2 29 HI 29 EUR 19
Latvia 47.0 30 UM 1 EUR 20
Hungari 46.5 31 HI 30 EUR 21
Malaixia 45.9 32 UM 2 SEAO 7
Qatar 45.5 33 HI 31 NAWA 3
Trung Quốc 45.4 34 UM 3 SEAO 8
Bồ Đào Nha 45.3 35 HI 32 EUR 22
Italia 44.5 36 HI 33 EUR 23
Các tiểu VQ Ảrập 44.4 37 HI 34 NAWA 4
70
Lithuania 44.0 38 UM 4 EUR 24
Chilê 42.7 39 UM 5 LCN 1
Slovakia 41.4 40 HI 35 EUR 25
Bahrain 41.1 41 HI 36 NAWA 5
Croatia 40.7 42 HI 37 EUR 26
Bungari 40.7 43 UM 6 EUR 27
Ba Lan 40.4 44 HI 38 EUR 28
Montenegro 40.1 45 UM 7 EUR 29
Serbia 40.0 46 UM 8 EUR 30
Oman 39.5 47 HI 39 NAWA 6
Saudi Arabia 39.3 48 HI 40 NAWA 7
Mauritius 39.2 49 UM 9 SSF 1
Moldova 39.2 50 LM 1 EUR 31
Nga 37.9 51 UM 10 EUR 32
Rumani 37.8 52 UM 11 EUR 33
Brunei 37.7 53 HI 41 SEAO 9
Nam Phi 37.4 54 UM 12 SSF 2
Kuwait 37.2 55 HI 42 NAWA 8
Jordan 37.1 56 UM 13 NAWA 9
Thái Lan 36.9 57 UM 14 SEAO 10
Braxin 36.6 58 UM 15 LCN 2
Tunisia 36.5 59 UM 16 NAWA 10
Costa Rica 36.3 60 UM 17 LCN 3
Lebanon 36.2 61 UM 18 NAWA 11
Macedonia 36.2 62 UM 19 EUR 34
Ukraine 36.1 63 LM 2 EUR 35
Ấn Độ 35.7 64 LM 3 CSA 1
Colombia 35.5 65 UM 20 LCN 4
Hy Lạp 35.3 66 HI 43 EUR 36
Uruguay 35.1 67 UM 21 LCN 5
Mongolia 35.0 68 LM 4 SEAO 11
Armenia 34.5 69 LM 5 NAWA 12
Argentina 34.4 70 UM 22 LCN 6
Georgia 34.3 71 LM 6 NAWA 13
Bosnia and
Herzegovina
34.2 72 UM 23 EUR 37
Namibia 34.1 73 UM 24 SSF 3
Thổ Nhĩ Kỳ 34.1 74 UM 25 NAWA 14
Peru 34.1 75 UM 26 LCN 7
Việt Nam 33.9 76 LM 7 SEAO 12
Guyana 33.7 77 LM 8 LCN 8
Belarus 32.9 78 UM 27 EUR 38
Mexico 32.9 79 UM 28 LCN 9
Bénin 32.5 80 LM 9 LCN 10
71
Trinidad and Tobago 32.5 81 HI 44 LCN 11
Swaziland 32.0 82 LM 10 SSF 4
Kazakhstan 31.9 83 UM 29 CSA 2
Paraguay 31.6 84 LM 11 LCN 12
Botswana 31.4 85 UM 30 SSF 5
Dominican 30.9 86 UM 31 LCN 13
Panama 30.9 87 UM 32 LCN 14
Morocco 30.7 88 LM 12 NAWA 15
Azerbaijan 30.4 89 UM 33 NAWA 16
Albania 30.4 90 UM 34 EUR 39
Jamaica 30.2 91 UM 35 LCN 15
Ghana 29.6 92 LM 13 SSF 6
El Salvador 29.5 93 LM 14 LCN 16
Sri Lanka 29.1 94 LM 15 CSA 3
Philipin 29.0 95 LM 16 SEAO 13
Kenya 28.9 96 LI 1 SSF 7
Senegal 28.8 97 LM 17 SSF 8
Ecuador 28.5 98 UM 36 LCN 17
Guatemala 28.4 99 LM 18 LCN 18
Inđônêxia 28.1 100 LM 19 SEAO 14
Fiji 27.9 101 LM 20 SEAO 15
Rwanda 27.9 102 LI 2 SSF 9
Egypt 27.9 103 LM 21 NAWA 17
Iran 27.3 104 UM 37 CSA 4
Nicaragua 26.7 105 LM 22 LCN 19
Gabon 26.5 106 UM 38 SSF 10
Zambia 26.4 107 LM 23 SSF 11
Tajikistan 26.4 108 LI 3 CSA 5
Kyrgyzstan 26.4 109 LI 4 CSA 6
Mozambique 26.3 110 LI 5 SSF 12
Honduras 26.3 111 LM 24 LCN 20
Bangladesh 26.1 112 LI 6 CSA 7
Nepal 26.0 113 LI 7 CSA 8
Bolivia 25.8 114 LM 25 LCN 21
Zimbabwe 25.7 115 LI 8 SSF 13
Lesotho 25.7 116 LM 26 SSF 14
Uganda 25.6 117 LI 9 SSF 15
Venezuela 25.4 118 UM 39 LCN 22
Mali 25.4 119 LI 10 SSF 16
Malawi 25.4 120 LI 11 SSF 17
Cameroon 25.0 121 LM 27 SSF 18
Burkina Faso 24.6 122 LI 12 SSF 19
Nigeria 24.6 123 LM 28 SSF 20
Algeria 24.4 124 UM 40 NAWA 18
72
Benin 24.4 125 LI 13 SSF 21
Madagascar 24.2 126 LI 14 SSF 22
Uzbekistan 23.9 127 LM 29 CSA 9
Tanzania 23.9 128 LI 15 SSF 23
Camphuchia 23.4 129 LI 16 SEAO 16
Gambia 23.3 130 LI 17 SSF 24
Ethiopia 23.3 131 LI 18 SSF 25
Syria 23.1 132 LM 30 NAWA 19
Pakistan 23.1 133 LM 31 CSA 10
Côted'Ivoire 22.6 134 LM 32 SSF 26
Angola 22.2 135 LM 33 SSF 27
Togo 20.5 136 LI 19 SSF 28
Burundi 20.5 137 LI 20 SSF 29
Lao 20.2 138 LM 34 SEAO 17
Yemen 19.2 139 LM 35 NAWA 20
Niger 18.6 140 LI 21 SSF 30
Sudan 16.8 141 LM 36 SSF 31
Ghi chú:
- Xếp nhóm thu nhập của các nước được dựa trên Phân loại của Ngân hàng Thế giới (4-2012). LI:
Thu nhập thấp; LM: Thu nhập trung bình thấp; UM: Thu nhập trung bình cao; HI: Thu nhập cao.
- Chia khu vực được dựa trên Phân loại của Liên Hiệp Quốc (20/09/2011). EUR: châu Âu; NAC: Bắc
Mỹ; LCN: Mỹ Latinh và vùng Caribe; CSA: Trung và Nam Á; SEAO: Đông Nam Á và Châu Đại
dương; NAWA: Bắc Phi và Tây Á; SSF: châu Phi cận Sahara
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Robert D. Atkinson, Stephen J. Ezell, Luke A. Stewart: The Global Innovation
Policy Index. Information Technology and Innovation Foundation and the
Kauffman Foundation, 3/2012.
2. OECD, The OECD Innovation Strategy: Getting a Head Start on Tomorrow
(Paris: OECD, 2010), 20,
3. Daniela Benavente, Soumitra Dutta, Sacha Wunsch-Vincent: The Global
Innovation Index 2012: Stronger Innovation Linkages for Global Growth.
INSEAD, WIPO.
4. OECD, Measuring Innovation: A New Perspective (Paris: OECD, 2010), 84-85,
5. OECD, OECD Science, Technology and Industry Scoreboard 2011: Innovation
and Growth in Knowledge Economies (Paris: OECD, 2011),
Product market regulations indicators are quantitative
indicators derived from qualitative information on laws and regulations that
may affect competition.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_tong_quan_chinh_sach_doi_moi_sang_tao_toan_cau_nam.pdf