Ngoài khái niệm mô tả về cách tiếp cận tổng thể và sự kết nối giữa KH&CN ở
tất cả các cấp, XHH cũng có một khái niệm quy định. Trên thực tế, XHH có thể được
xem là mục tiêu của các hệ thống nghiên cứu của châu Âu, ngụ ý rằng việc tăng
cường mối quan hệ khoa học - xã hội cũng như giải quyết và khai thác tốt hơn các
động lực xã hội ngày càng tham gia vào quá trình nghiên cứu.
Theo quan điểm này, các chính sách XHH cụ thể cần được đưa ra ở cấp quốc gia
để hỗ trợ các chính sách khoa học và đổi mới hiện nay. Các chính sách này cần có khả
năng đánh giá XHH KH&CN và phát triển các biện pháp mới để cải thiện mức độ
XHH nghiên cứu KH&CN cũng như phối hợp và cải thiện những biện pháp hiện có.
Để làm được việc này, các quốc gia cần thúc đẩy sự hợp tác mạnh mẽ và cởi mở hơn
giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên bằng cách giải quyết các rào cản văn hóa,
nghề nghiệp và tổ chức hiện đang cản trở sự hợp tác này.
Để phát triển các chính sách XHH hiệu quả, các nước không nên sao chép các
mô hình XHH khác (như được áp dụng ở Hoa Kỳ hoặc các nước khác) mà phải đầu tư
vào XHH KH&CN 'chất lượng cao' cụ thể của riêng mình, có tính đến các giá trị văn
hóa của quốc gia như tính bền vững, đoàn kết, công bằng và dân chủ. Trong viễn cảnh
này, cần có một nỗ lực để xác định các chủ thể có liên quan, đặc biệt là những chủ thể
đã tham gia vào XHH KH&CN, các thử nghiệm nơi các vấn đề XHH có thể được giải
quyết, và các cơ chế hiệu quả nhất để tìm ra giải pháp phù hợp.
Tuy nhiên, việc phát triển các chính sách XHH không thể được thực hiện nếu
không củng cố thái độ của công chúng nói chung về trách nhiệm đối với công nghệ,
tức là sự tham gia rộng rãi của xã hội và cá nhân để dẫn dắt cả cách khoa học ảnh
hưởng đến xã hội và cách xã hội ảnh hưởng đến khoa học. Mọi người, ở các cấp độ
khác nhau, cần thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ liên quan đến quyền công dân
khoa học, đòi hỏi các nước phải hành động và tạo ra cơ hội cho mọi người đóng vai
trò riêng của họ để hỗ trợ KH&CN.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
47 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 486 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Xã hội hoá nghiên cứu khoa học và công nghệ: Kinh nghiệm của châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực như thị trường lao động, giáo dục bậc cao, 
phát triển công nghiệp, phát triển đô thị, đổi mới sáng tạo hoặc cải cách hành chính 
công cũng có thể tác động đến các nhóm nghiên cứu. Ví dụ, cắt giảm chi tiêu công có 
thể ảnh hưởng đến doanh thu phát sinh (generational turnover) trong các tổ chức 
nghiên cứu; những thay đổi trong chính sách giáo dục đại học có thể thay đổi sự cân 
bằng giữa nghiên cứu và giảng dạy; các chính sách xã hội có thể ảnh hưởng đến sự 
nghiệp của các nhà khoa học nữ; sửa đổi trong chế độ tiền lương cho kỹ thuật viên có 
thể ảnh hưởng đến cách quản lý phòng thí nghiệm; chính sách địa phương hoặc chính 
sách đô thị có thể có ảnh hưởng đến chiến lược nghiên cứu do các trường đại học đề 
ra; và v.v... 
Được kích hoạt bởi các chủ thể khác nhau, chủ yếu theo cách không phối hợp, 
các chính sách này tương tác với nhau có thể có tác động hệ thống ngoài ý muốn, 
trong đó các nhà nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu chưa bao giờ nhận thức đầy đủ. 
Như đã nhấn mạnh, trong xã hội tri thức, có một xu hướng mạnh mẽ hướng tới 
bối cảnh hoá xã hội của nghiên cứu cao hơn: Các doanh nghiệp, chính quyền địa 
phương, chính phủ, các tổ chức xã hội dân sự và đôi khi là công chúng nói chung ngày 
càng thúc đẩy các nhà khoa học thực hiện các dự án của họ trong các lĩnh vực ứng 
dụng cụ thể. Đây là một yếu tố xã hội hóa mạnh mẽ, vì nó khuyến khích các chủ thể 
nghiên cứu nhận thức được sự hữu ích về kinh tế và xã hội và tác động của chính hoạt 
động của họ. Tuy nhiên, xu hướng này vẫn không đồng đều về quy mô, tính năng và 
cường độ. Những khác biệt giữa các quốc gia là đặc biệt cao. Thông thường, việc 
thiếu các vị trí và cơ chế tổ chức cụ thể làm cho khó có thể quản lý bối cảnh. Các nhà 
khoa học và tổ chức nghiên cứu thường không nhận thức đầy đủ về nhu cầu nghiên 
cứu phát sinh từ các lĩnh vực xã hội khác nhau và đôi khi họ coi chúng là một ràng 
buộc đơn thuần (ví dụ, khi các quỹ công dự kiến tài trợ cho các lĩnh vực ứng dụng cụ 
thể), hoặc như một yếu tố “làm phiền” đến thói quen nghiên cứu của họ. Hiếm khi, 
các xu hướng theo hướng bối cảnh hoá được quản lý đúng cách. 
30 
Chỉ dẫn xã hội hoá thực hành khoa học 
Một số chỉ dẫn hoạt động cho XHH các thực hành khoa học được tóm tắt một 
cách khái quát trong các nội dung sau: 
Đối với các nhà quản lý của các tổ chức nghiên cứu (trưởng nhóm nghiên cứu, 
trưởng khoa, hiệu trưởng trường đại học, v.v...) 
Các nhóm nghiên cứu dường như là đơn vị tổ chức đầu tiên thực hiện quá trình 
nghiên cứu. Vì lý do này, họ phải được hỗ trợ đầy đủ để tăng khả năng hành động và 
giúp họ đối mặt với các tình huống quan trọng. Trong khuôn khổ này, các biện pháp 
được thực hiện có thể nhằm mục đích: 
• Tạo ra sự hiểu biết sâu hơn và có hệ thống hơn về các nhóm nghiên cứu hiện 
có, thông qua các công cụ đăng ký cơ bản (ví dụ: tạo và duy trì sổ đăng ký điện tử các 
nhóm nghiên cứu tại các trường đại học, địa phương, ngành hoặc quốc gia) và thông 
qua các sáng kiến thu thập thông tin nâng cao hơn (như các cuộc họp định kỳ, bản tin 
về hoạt động của nhóm nghiên cứu, nghiên cứu ngắn hạn, v.v...); 
• Thúc đẩy thành lập các nhóm nghiên cứu mới, thông qua các cơ chế khác nhau 
(liên quan đến sự nghiệp khoa học, tiếp cận các nguồn lực mới, sự công nhận của xã 
hội, v.v..) làm phần thưởng cho các nhà nghiên cứu cao cấp chủ động nhất; có thể chú 
ý đặc biệt đến việc phát triển các phương pháp cụ thể để thành lập các nhóm nghiên 
cứu mới, thậm chí dựa trên sự tham gia của các nhóm nghiên cứu hiện hữu hoặc các 
dịch vụ tư vấn được cung cấp bởi các chuyên gia khoa học; 
• Ngăn ngừa và quản lý các sự kiện quan trọng trong vòng đời, nghĩa là các sự 
kiện có thể gây nguy hiểm cho sự tồn tại và phát triển của nhóm nghiên cứu (việc nghỉ 
hưu của nhà nghiên cứu chính, chuyển các thành viên sang các tổ chức hoặc vị trí 
khác, thực hiện một dự án nghiên cứu mới quan trọng, v.v...); 
• Hỗ trợ quản trị chiến lược của nhóm nghiên cứu, để mỗi thành viên có thể tham 
gia và thúc đẩy để mang lại cho nhóm một bản sắc ổn định, một văn hóa chia sẻ và 
các kỹ năng và năng lực cần thiết để thúc đẩy nhóm một cách thành công (ví dụ như 
năng lực liên quan đến quản lý nghiên cứu, quản lý tri thức, truyền thông công cộng, 
sư phạm, v.v...) cũng như thiết lập mối quan hệ hiệu quả với các chủ thể khác; 
• Giúp các nhóm nghiên cứu cân bằng vốn khoa học (liên quan đến sự công nhận 
và danh tiếng khoa học) và vốn tạm thời (liên quan đến khả năng ảnh hưởng đến các 
khía cạnh tổ chức, kinh tế, tài chính và chính trị liên quan đến nghiên cứu), tránh việc 
chi phối vốn tạm thời có thể đưa nhóm đến mức năng suất khoa học thấp và sự thống 
trị của nhóm trước đó có thể tạo ra sự cô lập của nhóm đối với bối cảnh xã hội, kinh tế 
và thể chế; vấn đề này có thể được giải quyết theo cách công khai thông qua các cuộc 
họp và hội thảo của các cơ quan nhà nước, cho phép các nhà nghiên cứu chính và 
31 
quản lý nghiên cứu trong tổ chức điều chỉnh các lựa chọn chính được đưa ra; 
• Nuôi dưỡng sự gắn kết trong nội bộ nhóm nghiên cứu, áp dụng các biện pháp 
nhằm mục đích, ví dụ, ngăn ngừa và quản lý xung đột và khơi dậy ý thức sở hữu của 
tất cả các thành viên. 
Đối với các nhà quản lý của các tổ chức nghiên cứu (nhà nghiên cứu trưởng, 
trưởng khoa, các nhà quản lý cấp cao của trường đại học, v.v...) 
Các tổ chức nghiên cứu thường không chú ý đầy đủ đến nhu cầu của các nhóm 
nghiên cứu của họ. Thông thường, họ cũng đại diện cho một môi trường thực sự 
không thuận lợi cho nhóm nghiên cứu. Tránh các tình huống như vậy là một mục tiêu 
ưu tiên, được theo đuổi bằng cách tạo ra một “môi trường thuận lợi”, điều này có thể 
làm cho hành động của họ hiệu quả hơn. Từ quan điểm này, cũng có thể cung cấp 
những hỗ trợ cụ thể cho các cơ quan đổi mới (như công viên khoa học), nơi có thể tư 
vấn chuyên môn cho các nhà nghiên cứu cũng như tạo ra các cơ hội trao đổi với 
những nhóm khác hoặc các chủ thể bên ngoài, chẳng hạn như doanh nghiệp. Các biện 
pháp được thúc đẩy có thể nhằm mục đích: 
• Tư vấn chuyên môn cho các nhóm nghiên cứu trong những lĩnh vực như quản 
lý nghiên cứu, truyền thông công cộng, huy động vốn, quản lý nhóm nhỏ, chuyển giao 
công nghệ, hậu cần; nhân viên của cùng một trường đại học hoặc tổ chức nghiên cứu, 
thậm chí từ các khoa khác hay các tổ chức khác như công viên khoa học có thể tư vấn 
cho các nhóm nghiên cứu; 
• Các tổ chức nghiên cứu điều chỉnh các quy trình quản lý và hành chính theo 
nhu cầu của các nhóm nghiên cứu; ở đây đề cập đến những tổ chức liên quan, ví dụ, 
các cơ sở nghiên cứu, kế toán, hợp đồng, bằng sáng chế hay chuyển giao công nghệ; 
từ quan điểm này, sự tham gia tích cực của các nhà lãnh đạo và thành viên của các 
nhóm nghiên cứu có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định các giải pháp có thể 
chấp nhận và tương thích với các quy định chung mà tổ chức nghiên cứu phải tuân 
theo; 
• Tạo điều kiện cho các luồng giao tiếp giữa các nhóm nghiên cứu và nhà nghiên 
cứu trong tổ chức, thông qua các quy trình và kênh linh hoạt, nhưng ổn định, để hỗ trợ 
hợp tác khoa học, để xác định và giải quyết các xung đột và căng thẳng có thể và loại 
bỏ các trở ngại về tổ chức, hậu cần hoặc kinh tế; 
• Thúc đẩy việc sử dụng các thủ tục, ngay cả những quy trình rất dễ áp dụng, 
nhằm giám sát và đánh giá chất lượng của bối cảnh thể chế (từ mọi khía cạnh có thể, 
như quy trình ra quyết định, các chương trình phát triển thể chế ngắn và dài hạn, mở 
ra đối với các chủ thể bên ngoài, và v.v...); 
• Làm cho mối quan hệ giữa các nhóm nghiên cứu và các đơn vị liên quan khác 
32 
trong tổ chức như văn phòng chuyển giao công nghệ, văn phòng bằng sáng chế, đơn vị 
hợp tác quốc tế, văn phòng phụ trách truyền thông công cộng, cơ quan hành chính 
trung ương và các dịch vụ kỹ thuật trở nên suôn sẻ và nhanh chóng nhất có thể. 
Đối với các nhà nghiên cứu trưởng, trưởng khoa, các nhà quản lý cấp cao của 
trường đại học, công đoàn, chính phủ (ví dụ: bộ lao động, bộ giáo dục cao, bộ nghiên 
cứu), các tổ chức châu Âu 
Như chúng ta đã thấy, “nghề nghiệp của nhà khoa học” đang thay đổi nhanh 
chóng với các nội dung và chức năng mới. Điều này đòi hỏi phải phát triển các biện 
pháp có thể hỗ trợ các nhà nghiên cứu tiếp thu các kỹ năng và năng lực mới, để phù 
hợp với các nhu cầu trong bối cảnh nghiên cứu KH&CN đang trở nên phức tạp và 
phân mảnh hơn. Trong lĩnh vực này, một số biện pháp có thể được thúc đẩy để: 
• Củng cố lộ trình học tập cho các nhà khoa học, trong cả chương trình giảng dạy 
đại học và giáo dục sau đại học, cho phép sinh viên và nhà nghiên cứu trẻ tiếp thu kiến 
thức và kỹ năng về các lĩnh vực thường không được xem xét trong các khóa học đại 
học và sau đại học, như đổi mới và chuyển giao công nghệ, làm việc nhóm, tổ chức và 
quản lý mạng lưới nghiên cứu, truyền thông khoa học và các vấn đề đạo đức liên quan 
đến khoa học; 
• Củng cố vai trò của các nhóm nghiên cứu như một môi trường học tập; điều 
này có thể đòi hỏi sự phát triển của các chương trình giáo dục và đào tạo, cũng dựa 
trên học tập kinh nghiệm, phù hợp với các thành viên trẻ tuổi, cũng như tổ chức cập 
nhật các sáng kiến về một số khía cạnh chính của nghiên cứu; 
• Hỗ trợ khả năng lưu động của các nhà nghiên cứu trong tổ chức nghiên cứu 
(cho phép họ trải nghiệm các vai trò khác nhau liên quan đến giảng dạy, đổi mới, 
nghiên cứu, truyền thông và quản lý) và giữa các tổ chức nghiên cứu công và tư nhân, 
để tiếp xúc với các khía cạnh khác nhau của quá trình thực hiện nghiên cứu; 
• Đối mặt với các yếu tố góp phần phân biệt đối xử các nhà khoa học nữ trong 
con đường sự nghiệp và trong các hoạt động hàng ngày, bắt đầu từ việc áp dụng các 
biện pháp đã được các tổ chức châu Âu và một số chính phủ xác định và khuyến nghị; 
đặc biệt quan trọng là một phân tích sâu tại chỗ trên các cơ chế vi mô và vĩ mô cụ thể 
hoạt động trong phạm vi các tổ chức và các nhóm nghiên cứu cản trở phụ nữ trong các 
hoạt động của họ; 
• Thúc đẩy sự ổn định nghề nghiệp của các nhà nghiên cứu trẻ, điều này tương 
phản với xu hướng phổ biến ở nhiều quốc gia thành viên châu Âu là công việc bấp 
bênh và không ổn định trong lĩnh vực nghiên cứu; các nhà nghiên cứu có thể được các 
tổ chức nghiên cứu hỗ trợ để phát triển một quy trình nhằm liên kết kinh nghiệm làm 
việc của họ với nhau, tránh nguy cơ họ có thể bị “mắc kẹt” trong các vị trí vừa bấp 
33 
bênh, vừa không liên kết với các công việc trước đây và không có triển vọng trong 
tương lai; một nỗ lực có thể được thực hiện để phát triển các kế hoạch làm việc bổ 
sung được cá nhân hóa với các bước có thể kiểm chứng được. 
Đối với một loạt các chủ thể, đặc biệt là các chính phủ và các tổ chức châu Âu 
Các nhóm nghiên cứu có thể đạt được các tiêu chuẩn nghiên cứu chất lượng cao 
chỉ thông qua sự hội nhập mạnh mẽ của họ vào cộng đồng khoa học quốc tế. Điều này 
đòi hỏi những nỗ lực ngày càng tăng tập trung vào cả các nhà nghiên cứu và nhóm 
nghiên cứu riêng lẻ. Các biện pháp trong lĩnh vực này có thể theo đuổi, ví dụ, các mục 
tiêu sau: 
• Hỗ trợ nghiên cứu liên ngành, ví dụ: xác định và đấu tranh chống lại sự phản 
ứng mạnh mẽ đối với công việc liên ngành trong các nhóm ngành khác nhau cũng như 
tạo môi trường cho phép các nhà nghiên cứu làm quen với công việc liên ngành ở các 
cấp độ khác nhau (chương trình nghiên cứu, giảng dạy đại học, con đường phát triển 
sự nghiệp; truyền thông, các sáng kiến nhạy cảm, kế hoạch đánh giá trao đổi liên 
ngành, v.v...); 
• Tạo điều kiện phát triển các mối quan hệ khoa học liên tổ chức và liên quốc 
gia. Việc tổ chức các hoạt động và các cấu trúc đầy đủ (cơ sở dữ liệu, nhóm thảo luận, 
v.v...) có thể cho phép lập bản đồ toàn bộ mạng lưới khoa học trong đó các tổ chức 
nghiên cứu, các nhóm nghiên cứu và các nhà nghiên cứu tham gia vào, bảo vệ quyền 
tự chủ của mỗi nhà khoa học; 
• Hỗ trợ thành lập các trung tâm thúc đẩy hợp tác khoa học trong các tổ chức 
nghiên cứu hoặc các đơn vị nghiên cứu (ví dụ: các phòng ban), hành động theo yêu 
cầu của các nhà nghiên cứu; hơn nữa, các tổ chức nghiên cứu có thể cải thiện các quy 
trình đánh giá các chương trình hợp tác khoa học và có thể củng cố càng nhiều càng 
tốt các chính sách thu hút nhân tài (uỷ ban tạm thời và cơ sở lưu trú, phương tiện vận 
chuyển, không gian văn phòng và thiết bị, v.v...). 
Đối với các tổ chức nghiên cứu và chính phủ và tất cả các chủ thể tham gia vào 
các chính sách ngành khác nhau (như công đoàn, tổ chức xã hội dân sự, chính quyền 
địa phương, cơ quan đổi mới, liên đoàn công nghiệp, tổ chức tín dụng). 
Thực tiễn khoa học không chỉ bị ảnh hưởng bởi các chính sách nghiên cứu, mà 
còn bởi chính sách của các ngành khác, liên quan ví dụ giáo dục, lao động, dịch vụ 
phúc lợi, phát triển địa phương và đô thị, hành chính công, đổi mới và hợp tác quốc tế. 
Tác động của chúng có thể khác nhau về quy mô và tính chất và có thể ảnh hưởng đến 
các thành phần khác nhau của hoạt động nghiên cứu (điều kiện cá nhân của các nhà 
nghiên cứu, tiếp cận nguồn vốn, khai thác kết quả nghiên cứu, kế hoạch sử dụng ngân 
sách, v.v...). Ví dụ, ba mục tiêu chính cần theo đuổi có thể được đề cập: 
34 
• Lập bản đồ các chính sách công ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến các hoạt 
động nghiên cứu (do các tổ chức châu Âu, chính phủ quốc gia, chính quyền địa 
phương và các cơ quan khác đưa ra) nhằm đánh giá tác động của chúng và xác định 
các chính sách còn thiếu có thể giúp tăng cường chất lượng cao nghiên cứu; 
• Thúc đẩy trao đổi và tranh luận, cả trong các tổ chức nghiên cứu và với các chủ 
thể bên ngoài, về các chính sách công ảnh hưởng đến hoạt động KH&CN, bằng cách 
sử dụng một loạt các công cụ (các cuộc họp định kỳ, kiểm toán công, nhóm thảo luận, 
kết nối mạng lưới, v.v...); 
• Xác định và quản lý các yếu tố và cơ hội cản trở liên quan đến các chính sách 
công khác nhau và các tương tác lẫn nhau của chúng, thông qua các nghiên cứu và 
phân tích cụ thể; các sáng kiến cụ thể có thể được thực hiện để phối hợp các chủ thể 
nhà nước thông qua quan hệ đối tác và kết nối mạng, nhằm ngăn chặn các tác động 
ngoài ý muốn và lãng phí tài nguyên. 
Đối với các nhà quản lý nghiên cứu ở tất cả các cấp và, đối với một số khía 
cạnh, các chủ thể xã hội 
Vì những lý do khác nhau, các nhóm nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu có xu 
hướng hiếm khi liên kết với những chủ thể khác trong môi trường xã hội của họ, bất 
chấp những áp lực ngày càng tăng đòi hỏi phải gắn kết nghiên cứu với nhu cầu kinh tế 
và xã hội. Thông thường, những xu hướng này hướng tới “bối cảnh hoá xã hội” của 
nghiên cứu đã bị thay đổi nhiều hơn mong muốn của các tổ chức nghiên cứu khi các 
tổ chức này thường coi chúng là một hạn chế hơn là yếu tố thúc đẩy nghiên cứu. Một 
số mục tiêu được đề cập ở đây có thể bao gồm: 
• Củng cố thói quen tương tác với các chủ thể xã hội giữa các tổ chức nghiên cứu 
và nhóm nghiên cứu; điều này có nghĩa là nhân rộng các cơ hội để các tổ chức nghiên 
cứu liên kết với các chủ thể bên ngoài, thông qua các công cụ linh hoạt và phù hợp 
nhất (diễn đàn, hội nghị, bài giảng, thuyết trình kết quả nghiên cứu, tham quan các 
hiệp hội bên ngoài, kết nối mạng lưới, v.v...); đặc biệt thú vị có thể là, trong viễn cảnh 
này, kinh nghiệm của các cửa hàng khoa học1; 
• Thúc đẩy sự tham gia của các chủ thể xã hội vào sự phát triển của các viện 
nghiên cứu, bằng cách thiết lập các chương trình nghiên cứu chung, các sáng kiến phổ 
biến chung cho các kết quả nghiên cứu, hoặc các loại quan hệ đối tác và các dự án liên 
kết khác; liên quan đến các bên liên quan trong các hoạt động giảng dạy, thực hành 
đánh giá và lập kế hoạch nghiên cứu chiến lược có thể đặc biệt hiệu quả trong việc tạo 
cầu nối giữa các tổ chức nghiên cứu và các chủ thể xã hội; mỗi nhóm nghiên cứu có 
1 Cửa hàng khoa học không phải là cửa hàng theo nghĩa truyền thống của từ này. Cửa hàng Khoa học 
là một cơ sở, thường được gắn liền với một bộ phận cụ thể của một trường đại học hoặc một tổ chức 
phi chính phủ, hỗ trợ nghiên cứu độc lập để giải quyết những lo ngại của xã hội dân sự. 
35 
thể nỗ lực xác định các bên liên quan liên quan đến chuỗi nghiên cứu riêng của họ và 
các dự án cụ thể; 
• Duy trì việc làm cho các tác động xã hội và kinh tế trở thành một trong những 
tiêu chí thúc đẩy việc lập kế hoạch và quản lý nghiên cứu; điều này có thể kéo theo 
một cuộc tranh luận trong các nhóm nghiên cứu, phòng ban và tổ chức nghiên cứu về 
những gì có thể được thực hiện một cách thực tế để thúc đẩy các quá trình bối cảnh 
hoá xã hội, bắt đầu từ các chương trình nghiên cứu hiện có và không giới hạn quyền 
tự chủ của các nhà nghiên cứu. 
4.2. Đổi mới sáng tạo 
Liên kết nghiên cứu với đổi mới sáng tạo và tăng trưởng kinh tế là một xu hướng 
đã có từ lâu. Trên thực tế, kể từ Thế chiến thứ hai, theo những cách khác nhau và với 
tốc độ gia tăng, các chính phủ đã theo đuổi mục tiêu tăng cường vai trò của khoa học 
trong các quá trình đổi mới sáng tạo, đưa ra một loạt các chính sách và biện pháp. 
Cụ thể, nỗ lực này đã được chuyển từ một sáng kiến dựa trên những khám phá cá 
nhân không thể đoán trước sang một khám phá được khai thác kinh tế, cho một “cỗ 
máy đổi mới sáng tạo”, tức là “hệ thống đổi mới sáng tạo”, dựa trên sự hợp tác và hiệp 
lực của nhiều chủ thể nhà nước và tư nhân, có thể tạo ra một dòng thường xuyên 
những khám phá và ứng dụng công nghệ mới. 
Trong viễn cảnh này, đổi mới sáng tạo ngày càng được xem là đầu ra cuối cùng 
của một hành động tập thể, liên quan đến một số lượng ngày càng tăng các cá nhân và 
tổ chức trong một chuyển động xoắn ốc lên trên. Do đó, hình dạng xã hội của các quá 
trình đổi mới sáng tạo không còn là hình dạng xã hội của một hệ thống có cấu trúc 
phân cấp giống như máy móc, mà là hệ thống xã hội của các “đổi mới sáng tạo” hay 
“mạng lưới đổi mới sáng tạo”, tức là các mạng có cấu trúc theo chiều ngang được tạo 
thành từ các chủ thể đa dạng và có tính chuyên biệt cao (viện nghiên cứu, doanh 
nghiệp, chính quyền địa phương, cơ quan chính phủ, nhà cung cấp, tổ chức tài chính 
và các loại hình chủ thể khác). 
Do đó, sự tương tác bắt đầu đóng vai trò quan trọng trong đổi mới sáng tạo, ít 
nhất là vì hai lý do. Một mặt, người ta đã nhận ra rằng những ý tưởng mới và giải 
pháp mới có nhiều khả năng xuất hiện trong các “khu vực ranh giới”, đó là nơi các 
ngành, tri thức, quan điểm, văn hóa, ngôn ngữ và những miêu tả thực tế tiếp xúc và 
chồng chéo. Mặt khác, trong các xã hội phức tạp, sự tương tác ngày càng không thể 
thiếu để huy động và điều phối một tập hợp đa dạng các kỹ năng, năng lực, vai trò và 
chức năng cần thiết cho đổi mới sáng tạo diễn ra. 
Cũng tại châu Âu, các chính phủ và các tổ chức châu Âu, từ những năm 1960, đã 
bắt đầu đề ra các chính sách đổi mới sáng tạo cụ thể nhằm liên kết các “chủ thể đổi 
36 
mới sáng tạo”. Sau khoảng ba thập kỷ thực hiện chính sách đổi mới sáng tạo, có nhiều 
kho tri thức và bí quyết quan trọng (được công bố trong hàng ngàn cuốn sách, cẩm 
nang, trang web, giao thức đánh giá, v.v...) về cách hỗ trợ đổi mới sáng tạo thông qua 
kết nối mạng lưới và hợp tác. Gần đây hơn, trọng tâm ngày càng tập trung vào đổi mới 
sáng tạo dựa vào khoa học và do đó, “hệ thống nghiên cứu” và “hệ thống đổi mới sáng 
tạo” dần dần được xem như là một hệ thống đơn nhất hoặc ít nhất là hai mặt của cùng 
một đồng tiền. 
Mặc dù có những nỗ lực và các kết quả đầu ra thành công trong quá khứ (cho 
phép châu Âu duy trì tốc độ đổi mới sáng tạo), việc kết nối nghiên cứu và đổi mới 
sáng tạo vẫn còn nhiều vấn đề. 
Điểm cốt yếu là sự tương tác giữa các chủ thể đổi mới sáng tạo và các chủ thể 
nghiên cứu hoặc sự phù hợp giữa cung và cầu đối với tri thức cho đổi mới sáng tạo. 
Về phía cung, trong môi trường học thuật, định hướng đổi mới sáng tạo dường 
như vẫn còn rất yếu. Chắc chắn đây là một xu hướng lan tỏa không đều ở châu Âu. Ở 
các quốc gia như Đan Mạch, Phần Lan và Vương quốc Anh, các tổ chức nghiên cứu 
định hướng đổi mới sáng tạo hơn so với các quốc gia khác. Tuy nhiên, số lượng các 
nhà nghiên cứu đầu tư thời gian và “tài nguyên trí tuệ” vào đổi mới sáng tạo và đặt đổi 
mới sáng tạo - ít nhất là trong một thời gian hạn chế - vào trung tâm của lợi ích và 
đam mê của chính họ là tương đối thấp. Thiếu một định hướng như vậy, một lượng 
lớn tri thức dựa trên khoa học bị lãng phí, không phải từ góc độ tiến bộ khoa học, mà 
dưới góc độ các lợi ích kinh tế và xã hội tiềm năng của họ. Tri thức này chỉ đơn giản 
là không thuộc phía cung. 
Sự chú ý dành cho việc cung cấp tri thức nhằm đổi mới xã hội thậm chí còn thấp 
hơn. Các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu đang thiết lập các cấu trúc (như 
văn phòng liên lạc công nghiệp hay văn phòng chuyển giao công nghệ) để có mối 
quan hệ ổn định với các doanh nghiệp, trong khi rất ít hoặc không làm gì để hỗ trợ sử 
dụng tri thức khoa học cho mục đích xã hội hoặc vì lợi ích trực tiếp của mọi người. 
Hơn nữa, các tổ chức nghiên cứu thể hiện định hướng hướng vào đổi mới sáng 
tạo có xu hướng hành động trên cơ sở “quan điểm riêng của họ” về các nhu cầu tri 
thức hiện có. Quan điểm này chủ yếu dựa trên thông tin không cụ thể và được tạo ra 
mà không có tương tác có ý nghĩa với các doanh nghiệp hoặc các chủ thể kinh tế quan 
trọng khác. Do đó, nhu cầu của họ được cho là rất khó có thể trùng khớp hoặc trùng 
lặp với “nhu cầu thực tế” đối với tri thức cho đổi mới sáng tạo. 
Tuy nhiên, nhiều vấn đề cũng phát sinh từ phía cầu. Trong số các công ty, mức 
độ nhận thức về nhu cầu của họ đối với tri thức khoa học thường thấp đáng kể. Tại 
châu Âu, các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động đổi mới sáng tạo được ước 
tính chiếm khoảng 38-40% tổng số doanh nghiệp. Trong số đó, chỉ khoảng 3,5% xác 
37 
định các trường đại học, các tổ chức giáo dục đại học và chỉ khoảng 2,5% xác định 
các viện nghiên cứu công là nguồn thông tin rất quan trọng cho hoạt động đổi mới 
sáng tạo của họ. Điều này có nghĩa là phần lớn các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo 
không khai thác gì ở các tổ chức nghiên cứu và hành động mà không có thông tin 
quan trọng về việc cung cấp kiến thức thực tế và tiềm năng được tạo ra trong các 
trường đại học gần gũi. Hầu hết trong số họ sử dụng các nguồn thông tin trong doanh 
nghiệp (50%) hoặc sử dụng nguồn thông tin khách hàng của họ (27%) hoặc nhà cung 
cấp của họ (24%); ít hơn 8/100 doanh nghiệp sử dụng các tạp chí khoa học hoặc các 
ấn phẩm kỹ thuật. 
Sự chú ý dành cho nghiên cứu KH&CN thậm chí còn thấp hơn trong các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ. Hầu hết trong số họ dường như không coi các trung tâm nghiên 
cứu và trường đại học là các đối tác và đối tác tiềm năng của họ và không gắn kết sự 
tăng trưởng của họ với đổi mới sáng tạo dựa trên khoa học. 
Những cân nhắc này giúp hiểu rõ hơn về vấn đề “XHH đổi mới sáng tạo”, hay 
XHH kép; các tổ chức nghiên cứu được yêu cầu XHH để đổi mới sáng tạo và các 
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội dân sự XHH để nghiên cứu. 
Tác động chính của tình huống này là các tổ chức nghiên cứu, doanh nghiệp, tổ 
chức xã hội dân sự và các chủ thể trung gian, mặc dù có sự tương tác ngày càng gia 
tăng, các chủ thể này vẫn rất tách biệt. Có một khoảng cách giữa các chủ thể này cần 
được loại bỏ, biểu hiện ở các cấp độ khác nhau (cấp độ vi mô, cấp độ trung bình, cấp 
độ vĩ mô) và trong các quan điểm khác nhau (như chiến lược, chính trị, nhận thức, văn 
hóa, giao tiếp, đạo đức, xã hội hoặc tâm lý một). Nhiều cấp độ và quan điểm này 
thường không được xem xét hoặc hầu như không bị ảnh hưởng bởi các chính sách đổi 
mới sáng tạo. 
Đổi mới sáng tạo không phải là thứ có thể được thực hiện trong thời gian rảnh 
rỗi, cũng không thể bị pháp luật áp đặt. Đổi mới sáng tạo được thực hiện không phải 
bởi các hệ thống khách quan (hệ thống trường đại học, hệ thống công nghiệp, v.v.), 
mà bởi các cá nhân cụ thể và các chủ thể tập thể, mang những câu chuyện, truyền 
thống, tư duy, mô hình văn hóa và chuyên nghiệp của riêng họ. Cũng vì lý do này, sự 
hợp tác giữa họ thường bị cản trở bởi xung đột cá nhân hoặc thể chế, lợi ích khác 
nhau, sự đối đầu thầm lặng trong nghề nghiệp, các hình thức kỳ thị xã hội hoặc thiếu 
tiếng nói chung. Trong khuôn khổ này, đôi khi không có những điều kiện cơ bản nhất 
để tạo niềm tin, thường được coi là yếu tố quyết định để kích hoạt các mạng lưới đổi 
mới sáng tạo thành công. 
Do đó, việc XHH các chủ thể đổi mới sáng tạo sang nghiên cứu KH&CN và các 
chủ thể nghiên cứu sang đổi mới sáng tạo là một bước cần thiết để khắc phục những 
hạn chế này và giải phóng năng lượng xã hội để hướng vào đổi mới sáng tạo. 
38 
Vấn đề chính 
Đối thoại xã hội có lẽ là chìa khóa để thu hẹp khoảng cách hiện có giữa cung và 
cầu tri thức để đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, đối thoại xã hội không được hiểu là một 
hoạt động không liên tục và không thường xuyên (chỉ được thực hiện thông qua các 
hội nghị đồng thuận hoặc các công cụ có chủ ý), thay vào đó là thói quen hàng ngày 
của cộng đồng. Thật không may, đối thoại xã hội về đổi mới sáng tạo, ở nhiều quốc 
gia, vẫn còn ở mức phôi thai. Trên thực tế, việc hợp tác giữa các chủ thể, nếu có, là lẻ 
tẻ. Các “địa điểm” để tiến hành thường xuyên các cuộc đối thoại xã hội là rất ít và 
thường có tác động kém. Các cuộc đối thoại xã hội có nguy cơ được thúc đẩy với 
những nỗ lực tối thiểu mà không có một chiến lược thực sự để phá bỏ các rào cản hạn 
chế giao tiếp tự do giữa các chủ thể tham gia. 
Đổi mới sáng tạo trong nhiều tổ chức nghiên cứu vẫn nhận được sự công nhận 
thấp từ xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu trên khắp châu Âu coi đổi mới sáng tạo là một 
hoạt động nằm ngoài nhiệm vụ của họ hoặc ít nhất là có tầm quan trọng thấp hơn và 
kém hấp dẫn hơn nghiên cứu. Trong sự nghiệp khoa học, các công bố có giá trị hơn 
nhiều so với bằng sáng chế hoặc việc dẫn dắt một dự án chuyển giao công nghệ. 
Trong môi trường học thuật, đôi khi có sự kỳ thị xã hội xung quanh những người, với 
tư cách là nhà nghiên cứu, thực hiện các hoạt động liên quan đến chuyển giao công 
nghệ hoặc nghiên cứu ứng dụng, dường như vẫn là những hoạt động ít cao quý hơn so 
với nghiên cứu hay giảng dạy lý thuyết - thực nghiệm, 
Các hoạt động nghiên cứu theo hướng đem lại các hiệu suất kinh tế đang tạo áp 
lực ngày càng tăng đối với các tổ chức nghiên cứu của chính phủ và doanh nghiệp. 
Đôi khi, áp lực này có vấn đề và thậm chí phản tác dụng. Trên thực tế, xu hướng hiện 
nay đối với các quy trình đề “công nghiệp hoá”, tức là định hình chúng bằng cách áp 
dụng các mô hình văn hóa và tổ chức được rút ra từ các quốc gia công nghiệp, có thể 
thay đổi một số cơ chế nghiên cứu cốt lõi (liên quan đến đánh giá ngang hàng hoặc 
cấu trúc và uy tín của mạng lưới nghiên cứu). Một rủi ro khác là nghiên cứu ngày 
càng hướng đến các mục tiêu liên quan đến ứng dụng ngắn hạn, gây bất lợi cho nghiên 
cứu cơ bản, chỉ có thể tạo ra các kết quả có giá trị kinh tế về lâu dài. Cuối cùng, trong 
bối cảnh quốc gia nơi các chính phủ đặc biệt chủ động thúc đẩy các chính sách đổi 
mới sáng tạo dựa trên khoa học, áp lực này đối với các nhà nghiên cứu có thể ảnh 
hưởng tiêu cực đến môi trường làm việc, gây căng thẳng, kháng cự tiêu cực và các 
phản ứng khác. 
Ngay cả khi sẵn sàng hợp tác, mối quan hệ giữa các tổ chức nghiên cứu và doanh 
nghiệp thường gặp nhiều khó khăn. Các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp hoạt 
động ở các giai đoạn khác nhau và áp dụng các mô hình tổ chức và hoạt động không 
giống nhau; họ có những kỳ vọng và lợi ích khác nhau; họ thường không tin tưởng lẫn 
39 
nhau; ngôn ngữ và thói quen giao tiếp của họ khác nhau và đôi khi, thậm chí là xung 
đột, tạo ra những hiểu lầm có hệ thống. Các vấn đề tương tự phát sinh trong các “tổ 
chức hỗn hợp” như các trường đại học, khu khoa học công nghệ và văn phòng chuyển 
giao công nghệ. Những khó khăn này có xu hướng gia tăng hơn nữa khi các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ lo ngại, vì họ thường hành động trong tầm nhìn ngắn hạn và không 
có nhiều thời gian và nguồn lực để đầu tư xây dựng mối quan hệ với các tổ chức 
nghiên cứu và học thuật. 
Như đã nhấn mạnh, việc thúc đẩy, quản lý và phát triển các quy trình đổi mới 
sáng tạo dựa trên khoa học cần có một loạt các kỹ năng và năng lực chuyên môn (liên 
quan đến ví dụ như tiếp thị, truyền thông, quản trị, luật, quản lý, và v.v...) để bổ sung 
cho các kỹ năng kỹ thuật và khoa học. Những kỹ năng và năng lực này cần được phổ 
biến rộng rãi giữa các chủ thể liên quan, cho phép họ tương tác và hợp tác hiệu quả. 
Thật không may, chúng dường như hiếm khi được khuếch tán giữa các tổ chức nghiên 
cứu và thậm chí giữa các doanh nghiệp hoặc các chủ thể khác. Một trong những yếu 
tố cản trở là nhiều kỹ năng và năng lực liên quan đến đổi mới sáng tạo không được thể 
hiện trong các số liệu chuyên môn chính thức hoặc trong các kho tri thức chuyên môn 
được xác định rõ ràng, cũng không được đưa vào các chương trình giảng dạy tiêu đại 
học tiêu chuẩn của các khoa khoa học. Hơn nữa, các cơ quan dịch vụ cung cấp tư vấn 
và đào tạo chất lượng cao trong lĩnh vực này là rất ít. 
Một thay đổi tích cực thực sự được chỉ ra là sự phổ biến giữa các trường đại học 
và các tổ chức nghiên cứu về các chính sách và biện pháp nhằm phát triển cái gọi là 
“nhiệm vụ thứ ba” của trường đại học, đó là sự tham gia trực tiếp của các tổ chức 
nghiên cứu vào việc hỗ trợ phát triển kinh tế và xã hội, được bổ sung vào các nhiệm 
vụ nghiên cứu và giảng dạy truyền thống của họ. Theo quan điểm này, ở nhiều trường 
đại học, các văn phòng chuyển giao công nghệ đã được thành lập, các quy trình cấp 
bằng sáng chế đã được tăng cường, các công ty khởi nguồn (spin-off) và vườn ươm 
công nghệ cao của các trường đại học đã được thúc đẩy, các cách hiệu quả hơn để liên 
kết trường đại học và môi trường kinh tế xã hội xung quanh đã được giới thiệu và các 
mối quan hệ với khu vực tư nhân đã được thúc đẩy. Tác động của các chính sách này 
có thể được ghi nhận ở tất cả các nước châu Âu, mặc dù với cường độ khác nhau. Dù 
sao đi nữa, điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng khái niệm về nhiệm vụ thứ ba trực 
tiếp cung cấp cho các trường đại học và tổ chức nghiên cứu một “vị trí văn hóa” và 
một lĩnh vực chiến lược để tập trung và phối hợp các nỗ lực của họ cho đổi mới sáng 
tạo và sự tham gia của xã hội. 
Hầu hết mọi nơi ở châu Âu, có thể nhận thấy sự tham gia ít ỏi của các tổ chức xã 
hội dân sự và doanh nghiệp vào nhiệm vụ thứ ba này (với một số trường hợp ngoại lệ 
đáng chú ý, chẳng hạn như các hiệp hội của người khuyết tật hoặc người mắc bệnh 
mãn tính cũng như nhiều nhóm môi trường) trong khi họ thường thể hiện sự không tin 
40 
tưởng vào nghiên cứu KH&CN. Điều này được hiểu là một khía cạnh có vấn đề, vì 
kinh nghiệm, chuyên môn và năng lực của các tổ chức đó có tầm quan trọng cốt lõi 
trong việc xây dựng nhu cầu kiến thức cho đổi mới sáng tạo. 
Chỉ dẫn hoạt động 
Một số chỉ dẫn hoạt động cho XHH đổi mới sáng tạo được tóm tắt một cách khái 
quát trong các nội dung sau: 
Đối với các tổ chức nghiên cứu, các tổ chức chính phủ 
Nhìn chung, hành động của các tổ chức nghiên cứu đối với đổi mới sáng tạo vẫn 
còn yếu và chưa hệ thống. Trong nhiều trường hợp, điều còn thiếu là năng lực của các 
tổ chức nghiên cứu để huy động tất cả các thành phần của tổ chức (nhà nghiên cứu, 
quản lý nghiên cứu, trưởng phòng, nhân viên kỹ thuật, quản trị, v.v...) tham gia vào 
đổi mới sáng tạo. Trong khuôn khổ này, việc thành lập các đơn vị tổ chức chuyên về 
chuyển giao công nghệ là không đủ; điều quan trọng không kém là định hình và 
khuếch tán trong các tổ chức nghiên cứu một định hướng tổng thể hướng tới đổi mới 
sáng tạo cho phép các chiến lược và cấu trúc cốt lõi của nó được triển khai. Một số 
biện pháp có thể được thực hiện ví dụ như: 
• Áp dụng các cơ chế và thủ tục cho phép các tổ chức nghiên cứu đánh giá năng 
lực đổi mới sáng tạo của chính họ, loại bỏ các yếu tố cản trở trong các tổ chức và 
trong bối cảnh xã hội và kinh tế, để có biện pháp thích hợp; 
• Thúc đẩy gia tăng giá trị xã hội và học thuật của đổi mới sáng tạo, thông qua 
các biện pháp như công nhận cao hơn các hoạt động liên quan đến đổi mới sáng tạo 
trong sự nghiệp khoa học, các hoạt động nhạy cảm về đổi mới sáng tạo giữa các nhà 
nghiên cứu và sinh viên, khuyến khích về kinh tế cho các dự án đổi mới sáng tạo, tăng 
cường các luận án về chủ đề đổi mới sáng tạo, thành lập các giải thưởng hay các sáng 
kiến mang tính biểu tượng khác; 
• Phát triển và phổ biến các năng lực và bí quyết của tổ chức nghiên cứu cần 
thiết để thúc đẩy các liên kết với các ngành nghiên cứu liên quan, ví dụ: khía cạnh 
pháp lý, giao tiếp với doanh nghiệp, các khía cạnh tổ chức liên quan đến chuyển giao 
công nghệ; trong viễn cảnh này, dường như đặc biệt hiệu quả khi đưa giảng dạy tập 
trung vào đổi mới sáng tạo vào các khoa khoa học; 
• Thúc đẩy các hoạt động của các tổ chức nghiên cứu nhằm vào hoạt động tìm 
kiếm đổi mới sáng tạo, tức là tìm kiếm bối cảnh và tập trung vào các ý tưởng, giải 
pháp, sản phẩm, quy trình hoặc công nghệ mới; điều này nên bao gồm sự giao tiếp 
mạnh mẽ hơn giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; một trong những mục tiêu 
chính đầu tiên được theo đuổi là “đưa kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu ra 
khỏi ngăn kéo”, cho phép đánh giá chúng về tiềm năng đổi mới sáng tạo, cả về kinh tế 
41 
và xã hội; 
• Củng cố định hướng của các tổ chức nghiên cứu hướng tới nhiệm vụ thứ ba, 
bằng cách thúc đẩy việc phối hợp tất cả các công cụ có sẵn để thương mại hóa kết quả 
nghiên cứu (Văn phòng Liên lạc công nghiệp, Văn phòng chuyển giao công nghệ, 
thỏa thuận khung với các doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức xã hội dân sự, truyền 
thông kết quả nghiên cứu, cửa hàng khoa học, công viên khoa học, vườn ươm, v.v...), 
tạo cảm xúc cho các nhà nghiên cứu và sinh viên về những vấn đề này và tạo cơ hội 
để tranh luận về chúng. 
Đối với các doanh nghiệp, mạng lưới các doanh nghiệp, liên đoàn công nghiệp 
và các tổ chức trung gian của các quan hệ đối tác ngành công nghiệp - đại học, các 
nhà quản lý của các tổ chức nghiên cứu 
Cần có một nỗ lực lớn để thu hút khu vực tư nhân tham gia vào nghiên cứu 
KH&CN. Trong viễn cảnh này, dường như rất cần vượt qua các trở ngại chính - kỹ 
thuật, văn hóa, quan hệ, tổ chức, v.v - ngăn cản nhiều doanh nghiệp lấy nghiên cứu 
làm nguồn quan trọng để đổi mới sáng tạo sản phẩm và quy trình của họ. Một số biện 
pháp có thể đề cập ở đây: 
• Tạo ra kiến thức mới về định hướng doanh nghiệp hướng tới nghiên cứu, cả 
thông qua các dự án nghiên cứu cụ thể ở cấp địa phương hoặc quốc gia và thông qua 
khai thác kiến thức cấp hai đã có sẵn; điều này có thể giúp các tổ chức nghiên cứu và 
các cơ quan đổi mới sáng tạo trung gian đưa ra các chiến lược được nhắm mục tiêu 
hơn; 
• Thúc đẩy các sáng kiến phối hợp trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo liên 
quan đến các doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác; điều này cũng có thể kéo theo 
một cuộc tranh luận mở về các công cụ, chiến lược và thủ tục hiện được áp dụng trong 
việc kết nối các doanh nghiệp với các tổ chức nghiên cứu, để phát triển các công cụ 
mới; 
• Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ tư vấn chuyên về 
nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, với sự tham khảo đặc biệt về liên kết doanh nghiệp - 
đại học, đổi mới sáng tạo dựa trên khoa học, đánh giá nhu cầu công nghệ, cụm đổi 
mới sáng tạo, tiếp cận quỹ công để đổi mới sáng tạo; một vai trò chủ động có thể được 
thực hiện bởi các liên đoàn công nghiệp; 
• Việc thúc đẩy các sáng kiến cụ thể cho các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp 
siêu nhỏ dường như gặp phải vấn đề lớn trong việc hợp tác với các tổ chức nghiên cứu 
và thậm chí để hiểu vai trò then chốt của nghiên cứu trong đổi mới sáng tạo; điều này 
đặc biệt quan trọng, có tính đến trọng lượng của các doanh nghiệp vừa và siêu nhỏ 
trong các nền kinh tế quốc gia châu Âu; khía cạnh chính để đối phó là hỗ trợ các 
42 
doanh nghiệp vừa và nhỏ va siêu nhỏ tạo ra nhu cầu về tri thức, có một “khối lượng 
quan trọng”, đủ để cải thiện các khoản đầu tư vào quan hệ đối tác trường đại học - 
ngành công nghiệp; một lần nữa, các liên đoàn công nghiệp có thể đóng một vai trò 
quan trọng. 
Đối với cả các tổ chức nghiên cứu và các chủ thể kinh tế, bao gồm các cơ quan 
đổi mới sáng tạo và liên đoàn công nghiệp. 
Ở châu Âu, sự tương tác giữa các doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu đã là 
chủ đề của các chiến lược và hướng dẫn thực tế. Tuy nhiên, như đã chỉ ra, mối quan 
hệ này vẫn có vẻ yếu và chất lượng thấp. Do đó, một số sáng kiến có thể được thực 
hiện đặc biệt nhằm cải thiện sự tương tác giữa các tổ chức nghiên cứu và khu vực tư 
nhân. Trong số các biện pháp có thể, những điều sau đây có thể được trích dẫn: 
• Mở cửa các tổ chức nghiên cứu cho các doanh nghiệp, bao gồm các doanh 
nhân và và các nhà quản lý công ty ví dụ: tham gia vào các hoạt động giảng dạy, lập 
kế hoạch dự án nghiên cứu, sắp xếp các nhà nghiên cứu trẻ, đào tạo tiển sỹ và sử dụng 
nhiều công cụ hiện có (hội thảo, thỏa thuận, giai đoạn đào tạo, quan hệ đối tác nghiên 
cứu, v.v...); 
• Phát triển các con số chuyên nghiệp cụ thể trong quan hệ đối tác trường đại học 
- doanh nghiệp, tạo ra các bài đăng cụ thể mới trong các tổ chức nghiên cứu, mạng 
lưới nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, các “thực thể lai ghép hay các hiệp hội doanh 
nghiệp “lai ghép”; quá trình này đòi hỏi một phân tích chi tiết về các liên kết phức tạp 
kết nối trường đại học và khu vực tư nhân và các vai trò, chức năng và nhiệm vụ thực 
sự liên quan đến chúng; 
• Phát triển các chính sách đổi mới sáng tạo dựa trên khoa học theo ngữ cảnh, có 
thể tính đến các tính năng cụ thể của các tổ chức nghiên cứu, doanh nghiệp và các chủ 
thể khác liên quan đến bối cảnh cụ thể đó, tránh các nỗ lực tối thiểu, công thức trừu 
tượng, mô hình bắt chước hoàn toàn và giải pháp phi thực tế; 
• Cung cấp các tương tác không chính thức giữa các nhà nghiên cứu và quản lý 
doanh nghiệp, dựa trên niềm tin và mối quan hệ trực diện, có vẻ hiệu quả hơn so với 
các tổ chức chính thức và đơn thuần; theo quan điểm này, việc thúc đẩy các địa điểm 
vật lý và ảo nơi các nhà nghiên cứu và nhà quản lý có thể gặp gỡ không chính thức (ví 
dụ: tạo ra các hiệp hội và mạng lưới hỗn hợp, đặt các trường đại học trong các khu 
vực công nghiệp và các ngành công nghiệp gần với các tổ chức nghiên cứu; hội chợ 
công nghiệp và thương mại và ngược lại); 
• Lập bản đồ, đánh giá và giám sát các yếu tố thành công và các trở ngại trong 
lĩnh vực liên kết đại học, phát triển các quy trình và tiêu chí cụ thể phù hợp với bối 
cảnh cụ thể; 
43 
• Thúc đẩy các sáng kiến thử nghiệm nhằm liên tục cải tiến các phương pháp và 
công cụ để hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp, áp dụng quan điểm của 
châu Âu, sử dụng các chiến lược điểm chuẩn và hỗ trợ các quá trình học tập của tổ 
chức. 
Đối với một loạt các chủ thể, tức là tất cả những người có tác động hoặc đóng 
vai trò trong sự phát triển của địa phương 
Từ lâu, các tổ chức châu Âu (chủ yếu thông qua Quỹ phát triển khu vực), chính 
phủ quốc gia và chính quyền địa phương đã thúc đẩy các sáng kiến phát triển địa 
phương dựa trên sự hiện thực hóa đầy đủ các tiềm năng hữu hình và vô hình của địa 
phương. Tuy nhiên, sự tham gia của các tổ chức nghiên cứu vào các sáng kiến phát 
triển địa phương dường như vẫn còn ít nhiều. Thực tế này một phần là do xu hướng 
trường đại học xa cách và một phần là do nhận thức thấp mà ngành công nghiệp và 
chính quyền địa phương có về giá trị gia tăng tiềm năng của nghiên cứu cho các chính 
sách phát triển địa phương. Các biện pháp có thể được thực hiện có thể là, ví dụ: 
• Thúc đẩy việc thành lập các liên minh lãnh thổ phát triển địa phương quan tâm 
đến việc hỗ trợ và định hướng nghiên cứu và xoay quanh các sáng kiến đổi mới sáng 
tạo dựa trên khoa học; các liên minh này có thể nhận ra cho các tổ chức nghiên cứu 
một vai trò hàng đầu, hợp tác với các bên liên quan khác; điều này có thể đòi hỏi một 
nỗ lực cụ thể nhằm tạo ra xung quanh các tổ chức nghiên cứu một mạng lưới các chủ 
thể liên quan; 
• Khuyến khích sự tham gia của các tổ chức nghiên cứu vào các sáng kiến phát 
triển địa phương hiện có (khu công nghệ, mạng lưới đổi mới sáng tạo, v.v...) liên quan 
trực tiếp đến các nhóm nghiên cứu và phòng nghiên cứu, áp dụng các chiến lược linh 
hoạt nhưng được xác định rõ ràng; 
• Nâng cao năng lực của chính quyền địa phương trong việc thiết kế, quản lý và 
đánh giá các chương trình phát triển địa phương dựa trên cơ sở khoa học; điều này đòi 
hỏi phải tăng cường năng lực của chính quyền địa phương trong việc kết nối nghiên 
cứu với các chính sách lãnh thổ khác (như các chính sách liên quan đến cơ sở hạ tầng, 
phát triển xã hội, bảo vệ môi trường, giáo dục hoặc phát triển đô thị); 
• Thúc đẩy thông tin rộng rãi và liên tục về các tổ chức nghiên cứu (trường đại 
học, cơ quan nghiên cứu công cộng, cơ cấu nghiên cứu tư nhân, trung tâm nghiên cứu 
phi lợi nhuận, v.v...) hoạt động trong môi trường địa phương, đặc biệt chú ý đến các 
hoạt động nghiên cứu của họ, những vấn đề họ đang đối phó với, sự tham gia thực tế 
và tiềm năng của họ với các sáng kiến phát triển địa phương. 
Đối với một loạt các chủ thể ở cả cấp địa phương (tổ chức nghiên cứu, tổ chức 
xã hội dân sự, chính quyền địa phương, hiệp hội doanh nghiệp địa phương, v.v...) và ở 
44 
cấp quốc gia (Cá Bộ, cơ quan quốc gia, hội đồng nghiên cứu quốc gia, v.v...) 
Như đã nhấn mạnh, đối thoại xã hội không chỉ được hiểu là một công cụ cần 
thiết để dân chủ hóa các quá trình ra quyết định liên quan đến nghiên cứu. Thực tế 
hơn, đối thoại xã hội cũng nên được xem là một bước cần thiết để tạo ra môi trường 
xã hội, cho phép các doanh nghiệp, các bên liên quan và các tổ chức nghiên cứu phát 
triển thói quen tương tác của người dùng, học cách giao tiếp với nhau và chia sẻ và 
trao đổi ý tưởng, đại diện và quan điểm về đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển 
địa phương. Trong số các biện pháp chính được thực hiện, những biện pháp sau đây 
có thể được đề xuất: 
• Thúc đẩy các sáng kiến nhằm vào sự tham gia mạnh mẽ và lan tỏa hơn của các 
tổ chức xã hội dân sự với sự đổi mới sáng tạo dựa trên khoa học; trong viễn cảnh này, 
các sáng kiến hợp tác chung huy động các tổ chức nghiên cứu, doanh nghiệp và tổ 
chức xã hội dân sự sẽ được thúc đẩy, tạo ra các quy trình đặc biệt hoặc sử dụng và sửa 
đổi những quy trìnhi hiện có (ví dụ, những quy trình thường áp dụng cho chuyển giao 
công nghệ như công ty khởi nguồn, Văn phòng liên lạc công nghiệp hoặc văn phòng 
chuyển giao công nghệ); 
• Tạo điều kiện cho sự phổ biến ở cấp quốc gia và địa phương các công cụ đối 
thoại xã hội đã được thử nghiệm về KH&CN như thăm dò ý kiến có chủ ý, hội thảo và 
hội thảo công dân, hội thảo tư vấn, hội nghị đồng thuận, đối thoại qua Internet và các 
nhóm tập trung, vẫn được áp dụng trong một số lượng rất nhỏ các trường hợp và bối 
cảnh xã hội hoặc thể chế; do đó, cần sự khuếch tán lớn hơn và nhắm mục tiêu hơn vào 
dữ liệu và thông tin về chúng; 
• Mở rộng việc sử dụng CNTT nhằm hỗ trợ đối thoại xã hội để đổi mới sáng tạo, 
tạo ra môi trường ảo cho phép các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, tổ chức xã hội 
dân sự, chính quyền địa phương và các bên liên quan khác cũng như một phần của quá 
trình, theo một nguyên tắc nhân rộng các công cụ và thủ tục đối thoại xã hội thông 
thường; 
• Thúc đẩy các sáng kiến nhạy cảm về đối thoại xã hội giữa tất cả các chủ thể có 
liên quan, như là một bước cần thiết để thúc đẩy và cải thiện chất lượng các chương 
trình đổi mới sáng tạo dựa trên khoa học ở cấp địa phương hoặc khu vực; các nhà 
chuyên môn cụ thể chuyên thiết kế và quản lý các chương trình đối thoại và đổi mới 
sáng tạo xã hội cũng có thể được xác định và phát triển; 
• Tăng cường phổ biến các thực hành dự báo công nghệ, là một trong những 
công cụ chính cung cấp các khung khả thi cho cả định hướng các chương trình đổi 
mới sáng tạo dựa trên khoa học và thúc đẩy các mối quan hệ đối tác và mạng lưới định 
hướng đổi mới sáng tạo; 
45 
• Ủng hộ việc phát triển các hình thức “trách nhiệm đối với công nghệ”, tức là sự 
định hướng tự nguyện của các chủ thể nghiên cứu, các bên liên quan hoặc các cá nhân 
góp phần hỗ trợ phát triển KH&CN, trong việc giúp các tổ chức nghiên cứu thúc đẩy 
hành động của họ, khuyến khích sử dụng có trách nhiệm các kết quả nghiên cứu và 
thúc đẩy sự tham gia nhiều hơn của mọi người vào các hoạt động ra quyết định và 
chính sách liên quan đến khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; các công cụ được 
sử dụng rất khác nhau về bối cảnh cũng như các mục tiêu theo đuổi và các chủ thể 
tham gia; các công cụ có thể được đề cập có thể là, ví dụ, thành lập các tổ chức tình 
nguyện mới, các tổ chức đỡ đầu, diễn đàn và kết nối mạng lưới, thực hiện các dự án 
hành động - nghiên cứu về đối thoại xã hội về khoa học; thực hành đánh giá để giải 
quyết các vấn đề gặp phải trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo KH&CN, ở cấp địa 
phương hoặc quốc gia. 
KẾT LUẬN 
Do tác động của sự chuyển đổi tổng thể từ xã hội công nghiệp sang xã hội tri 
thức, các phương thức thực hiện nghiên cứu KH&CN đang thay đổi sâu sắc: Ranh 
giới giữa các ngành học đang suy yếu; các lĩnh vực ứng dụng tăng lên theo cấp số 
nhân; nghiên cứu cần phải hiệu quả, nhanh chóng, có trách nhiệm, liên ngành, định 
hướng kết quả hơn và có thể tạo ra lợi ích cho cả người dân và doanh nghiệp. Hơn 
nữa, sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ khoa học - xã hội cũng đang diễn ra ở 
nhiều cấp độ: Ngày càng nhiều chủ thể và các bên liên quan tham gia vào sản xuất 
nghiên cứu; tính phổ biến của công nghệ có xu hướng khiến người dùng trở thành một 
phần tích cực trong phát triển công nghệ; các vấn đề dân chủ và đạo đức mới đang nổi 
lên. 
Những chuyển đổi này đã diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn và thường 
theo cách hỗn loạn và mâu thuẫn. Trong khi các cơ chế xã hội và thể chế truyền thống 
để định hướng nghiên cứu và điều chỉnh các mối quan hệ khoa học - xã hội dường như 
ngày càng không hiệu quả, các cơ chế mới rất khó để ban hành. Kết quả là, nghiên 
cứu dường như ít gắn kết với xã hội hơn trước đây, trong khi sự thừa nhận và chấp 
nhận của xã hội đối với nghiên cứu vẫn không ổn định và không chắc chắn. 
Tất cả điều này có thể được xem xét dưới góc độ XHH KH&CN, nghĩa là năng 
lực của các hệ thống khoa học và đổi mới để thích ứng với một xã hội đang thay đổi 
và để quản lý và điều khiển các chuyển đổi ảnh hưởng đến chúng. Xã hội hóa 
KH&CN yếu kém không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế của KH&CN trong xã hội, 
mà còn dẫn đến việc KH&CN như một tổ chức ngoại lai đối với hệ thống xã hội. 
Tương tự như vậy, một xã hội kém XHH khoa học có nguy cơ tụt lại phía sau. 
Thông thường, những vấn đề này thường được giải quyết theo những vấn đề đơn 
46 
lẻ (thiếu giao tiếp khoa học, tương tác khó khăn giữa các trường đại học và doanh 
nghiệp, tổ chức nghiên cứu kém, v.v...) như thể chúng không liên quan đến nhau. Trái 
lại, viễn cảnh XHH KH&CN có thể đối mặt với chúng một cách tổng thể. 
Ngoài khái niệm mô tả về cách tiếp cận tổng thể và sự kết nối giữa KH&CN ở 
tất cả các cấp, XHH cũng có một khái niệm quy định. Trên thực tế, XHH có thể được 
xem là mục tiêu của các hệ thống nghiên cứu của châu Âu, ngụ ý rằng việc tăng 
cường mối quan hệ khoa học - xã hội cũng như giải quyết và khai thác tốt hơn các 
động lực xã hội ngày càng tham gia vào quá trình nghiên cứu. 
Theo quan điểm này, các chính sách XHH cụ thể cần được đưa ra ở cấp quốc gia 
để hỗ trợ các chính sách khoa học và đổi mới hiện nay. Các chính sách này cần có khả 
năng đánh giá XHH KH&CN và phát triển các biện pháp mới để cải thiện mức độ 
XHH nghiên cứu KH&CN cũng như phối hợp và cải thiện những biện pháp hiện có. 
Để làm được việc này, các quốc gia cần thúc đẩy sự hợp tác mạnh mẽ và cởi mở hơn 
giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên bằng cách giải quyết các rào cản văn hóa, 
nghề nghiệp và tổ chức hiện đang cản trở sự hợp tác này. 
Để phát triển các chính sách XHH hiệu quả, các nước không nên sao chép các 
mô hình XHH khác (như được áp dụng ở Hoa Kỳ hoặc các nước khác) mà phải đầu tư 
vào XHH KH&CN 'chất lượng cao' cụ thể của riêng mình, có tính đến các giá trị văn 
hóa của quốc gia như tính bền vững, đoàn kết, công bằng và dân chủ. Trong viễn cảnh 
này, cần có một nỗ lực để xác định các chủ thể có liên quan, đặc biệt là những chủ thể 
đã tham gia vào XHH KH&CN, các thử nghiệm nơi các vấn đề XHH có thể được giải 
quyết, và các cơ chế hiệu quả nhất để tìm ra giải pháp phù hợp. 
Tuy nhiên, việc phát triển các chính sách XHH không thể được thực hiện nếu 
không củng cố thái độ của công chúng nói chung về trách nhiệm đối với công nghệ, 
tức là sự tham gia rộng rãi của xã hội và cá nhân để dẫn dắt cả cách khoa học ảnh 
hưởng đến xã hội và cách xã hội ảnh hưởng đến khoa học. Mọi người, ở các cấp độ 
khác nhau, cần thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ liên quan đến quyền công dân 
khoa học, đòi hỏi các nước phải hành động và tạo ra cơ hội cho mọi người đóng vai 
trò riêng của họ để hỗ trợ KH&CN. 
47 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Handbook on the socialisation of scientific and technological research, 
Social Sciences and European Research Capacities (SS-ERC) Project, 
Sixth framework programme: Citizenship and governance, 2009 
2. Arnstein, S. R. (1969) A Ladder of Citizen Participation. JAIP, Vol. 35, 
No. 4, pp. 216-224 
3. Baker, K.A., Branch, K.M. (2002) Concepts underlying organizational 
effectiveness: trends in the organization and management science 
literature. In WREN, Management benchmarking study. Washington, 
DC.: Department of Energy, Office of Science 
4. Creighton, J. L. (2005) The Public Participation Handbook: Making 
Better Decisions Through Citizen Involvement. San Francisco: Jossey-
Bass. 
5. Dahler-Larsen, P. (2006) Evaluation after Disenchantment? Five Issues 
Shaping the Role of Evaluation in Society. In Shaw, I. F., Greene, J. C., 
Mark, M. M. (eds), The Sage Handbook of Evaluation. London: Sage 
Publications. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tai_lieu_xa_hoi_hoa_nghien_cuu_khoa_hoc_va_cong_nghe_kinh_ng.pdf