Chủ thể có quyền yêu cầu tái thẩm và
thủ tục yêu cầu tái thẩm
Những người có quyền yêu cầu tái thẩm
được quy định tại Điều 623 BLTTHS Pháp
gồm những cá nhân sau:
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
- Bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp
của bị cáo trong trường hợp bị cáo không đủ
năng lực chủ thể;
- Sau khi bị cáo chết hoặc bị tuyên bố
vắng mặt, vợ (hoặc chồng), con cái, bố mẹ,
người được hưởng toàn bộ di sản của bị cáo
hay những người được bị cáo ủy quyền.
Thủ tục tái thẩm được tiến hành trên cơ
sở có đơn yêu cầu tái thẩm; đơn này sẽ được
Ủy ban tái thẩm kiểm tra trước khi chuyển
sang Tòa tái thẩm. Dù được Bộ trưởng Bộ
Tư pháp, bị cáo hay những người có quyền
yêu cầu, yêu cầu tái thẩm cũng sẽ được
chuyển đến một Ủy ban gồm năm thẩm
phán, ủy viên thẩm phán hoặc ủy viên thẩm
phán ad hoc, được chỉ định bởi Đại hội đồng
của Tòa tối cao; một trong số những thành
viên của Ủy ban được lựa chọn trong số các
thành viên của phòng xét xử hình sự và giữ
chức Chủ tịch Ủy ban. Năm thẩm phán dự
khuyết cũng được chỉ định theo thủ tục trên.
Thời gian thi hành công vụ của các thành
viên Ủy ban không được quy định cụ thể.
Những thành viên này thôi nhiệm vụ trong
trường hợp chuyển công tác, không còn làm
việc tại Tòa tối cao hoặc bản thân họ có đơn
xin thôi. Chức năng công tố được thực hiện
bởi cơ quan công tố của Tòa tối cao. Một
yêu cầu gửi trực tiếp cho Tòa tái thẩm sẽ bị
tuyên bố không hợp lệ.
Yêu cầu tái thẩm không bị hạn chế bởi
bất kỳ hình thức cụ thể nào. Tuy nhiên, đơn
yêu cầu tái thẩm phải có đầy đủ thông tin
cần thiết về ngày, tháng, bản chất của bản án
hình sự được yêu cầu tái thẩm và trong một
số trường hợp, việc chấp hành hình phạt do
tòa án quyết định. Yêu cầu tái thẩm phải nêu
rõ cơ sở pháp lý, có nghĩa là nêu trường hợp
mà luật cho phép yêu cầu tái thẩm và trình
bày một cách chính xác, cụ thể các dữ kiện
là cơ sở cho yêu cầu đó. Trước thời điểm có
hiệu lực của luật ngày 23/6/1989, không
chấp nhận yêu cầu tái thẩm của Bộ Tư pháp,
thực hiện trên cơ sở quy định tại Điều 622-
4, theo đó đơn yêu cầu không trình bày bất
kỳ tình tiết nào có bản chất cho phép chứng
minh sự vô tội của bị cáo hoặc, tối thiểu, làm
xuất hiện những nghi ngờ về hành vi phạm
tội của bị cáo (Tòa tối cao, hình sự,
11/5/1976, Tập san hình sự, số 152; Tòa tối
cao, hình sự, 12/7/1988, Tập san hình sự, số
301; 7/6/1989, Tập san hình sự, số 246). Tuy
nhiên, trong trường hợp bị cáo hoặc bị can
được giả định là vô tội thì bị cáo bị kết án
vẫn có thể bị xác định là tội phạm. Sau khi
tòa ra bản án, nghĩa vụ chứng minh đã thay
đổi; lúc này, bị cáo là người phải chứng
minh sự tồn tại sai lầm trong quá trình áp
dụng pháp luật. Cuối cùng, đơn yêu cầu tái
thẩm cần có phụ lục để minh chứng cho nội
dung yêu cầu
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 195 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tái thẩm trong pháp luật tố tụng Cộng hòa Pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
1. Sự phát triển của luật pháp về thủ tục
tái thẩm
Tại Pháp, mặc dù nguyên tắc hiệu lực
của bản án, quyết định của Toà án được
công nhận, nhưng bản án, quyết định kết án
bị cáo về trọng tội hoặc khinh tội đã có hiệu
lực pháp luật vẫn có thể bị huỷ bỏ do sai lầm
về sự việc theo thủ tục kháng cáo, kháng
nghị, đặc biệt là tái thẩm mà thẩm quyền
xem xét kháng cáo, kháng nghị đó thuộc Toà
hình sự Tòa án tối cao. Cơ sở của quan niệm
và thực tiễn nói trên là: một mặt, phải bồi
thường vật chất và tinh thần cho nạn nhân
của sự sai lầm tư pháp và mặt khác, phải tiếp
tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người thực sự phạm tội. Tuy nhiên, để bảo
đảm sự tôn trọng cần thiết đối với bản án,
quyết định của Toà án, thủ tục tái thẩm được
thực hiện theo những điều kiện chặt chẽ về
nội dung và hình thức.
Thủ tục tái thẩm - trong một thời gian
dài trước đây - được qui định từ Điều 443
đến Điều 447 Bộ luật Thẩm cứu hình sự và
hiện nay được quy định từ Điều 622 đến
Điều 626 BLTTHS Pháp. Sự sửa đổi quan
trọng gần đây nhất về tái thẩm được qui định
bởi Luật số 89-431 ngày 23/6/1989 “Về tái
thẩm đối với bản án quyết định kết tội“, có
hiệu lực pháp luật từ ngày 1/10/1989. Đạo
luật này đã giảm nhẹ các điều kiện thực hiện
thủ tục tái thẩm và sửa đổi việc bồi thường
cho nạn nhân của sự sai lầm tư pháp. Quy
định nói trên cũng đã được sửa đổi hai lần
bởi Điều 25 Luật số 99-515 ngày 23/6/1999
60 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 12 (268) T6/2014
TAÁI THÊÍM TRONG PHAÁP LUÊÅT TÖË TUÅNG
CÖÅNG HOÂA PHAÁP
NGUYỄN HẢI NINH*
Các nghiên cứu về thủ tục tái thẩm của Pháp trước đây chủ yếu giới thiệu
quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Pháp mà không có giải
thích1. Bài viết này phân tích cụ thể một số nội dung về đối tượng, trường
hợp và thẩm quyền và thủ tục yêu cầu tái thẩm trong tố tụng hình sự Pháp
trên cơ sở nghiên cứu về thủ tục này của tác giả Étienne Daures in trong
Tuyển tập luật hình sự và luật tố tụng hình sự, nhà xuất bản Dalloz 20122.
Nghiên cứu này có thể giúp tham khảo trong quá trình nghiên cứu hoàn
thiện BLTTHS năm 2003 của Việt Nam, nhất là các quy định về thủ tục tái
thẩm trong tố tụng hình sự.
* ThS, GVC. Khoa Pháp luật hình sự, Đại học Luật Hà Nội
1 Xem Nguyễn Đức Mai (2010), “Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự của một số nước”, Tạp
chí Tòa án nhân dân (10), trang 40; Phạm Hoàng Diệu Linh (2008), “Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới”, Thông tin Khoa học kiểm sát, Viện khoa
học kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, trang 132.
2 Étienne DAURES (2012), ‘Révision’, Répertoire de droit pénal et de procédure pénale, Editions Dalloz.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
(Công báo ngày 24/6/1999) và Điều 6 Luật
số 2000-1354 ngày 30/12/2000 (Công báo
ngày 31/12/2000) về phương thức bồi
thường bằng vật chất cho người bị kết án
được xác định là vô tội.
2. Đối tượng có thể bị áp dụng thủ tục tái
thẩm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 622
BLTTHS Pháp, “bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật có thể bị yêu cầu xem xét
lại theo thủ tục tái thẩm vì lợi ích của người
bị kết án về trọng tội hoặc khinh tội”. Có
nghĩa là thủ tục tái thẩm được áp dụng đối
với tất cả các bản án, quyết định kết án
trong lĩnh vực trọng tội hoặc khinh tội đã
có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định
kết tội vi cảnh không bị tái thẩm3. Tuy
nhiên, tái thẩm cũng được chấp nhận trong
trường hợp bản án, quyết định kết tội bị cáo
về tội vi cảnh và khinh tội mà hai tội này
không thể tách được. Việc không thể tách
tội vi cảnh và khinh tội phải được nhận thấy
một cách rõ ràng.
Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với
tất cả các bản án, quyết định của Toà án xét
xử về nội dung vụ án, dù đó là Toà án theo
luật chung hay theo luật chuyên biệt. Các
bản án, quyết định của Toà án về người chưa
thành niên, Tòa quân sự đều có thể bị tái
thẩm. Tương tự, trong trường hợp không có
các văn bản chuyên biệt quy định khác, thủ
tục tái thẩm cũng được áp dụng đối với các
bản án, quyết định của Tối cao pháp viện
hoặc Toà án tư pháp cộng hoà. Ngược lại,
kháng cáo, kháng nghị tái thẩm đối với
quyết định của Toà hình sự Tòa án tối cao
không được chấp nhận vì cơ quan này
không xét xử về nội dung vụ án và không ra
quyết định kết tội.
Về nguyên tắc, các quyết định tuyên bố
bị cáo vô tội hay được thả tự do không thể
là đối tượng của thủ tục tái thẩm; bản án,
quyết định là đối tượng của thủ tục tái thẩm
phải tuyên án hình phạt về trọng tội hoặc
khinh tội đối với bị cáo. Tuy nhiên, thủ tục
tái thẩm có thể được áp dụng đối với tất cả
các quyết định tuyên bố một cá nhân phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm
tội do cá nhân đó thực hiện, không quan
trọng là cá nhân đó có bị áp dụng hình phạt
tù hay không. Kể cả trong trường hợp bản
án tuyên người bị kết án về khinh tội nhưng
được miễn hình phạt theo điều 469-1 BLT-
THS cũng là đối tượng của tái thẩm.
Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với
bản án, quyết định tuyên người chưa thành
niên không phạm tội vì thiếu khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi; bản án, quyết
định áp dụng biện pháp giáo dục đối với
người chưa thành niên.
Đặc xá chỉ có hiệu lực đối với việc thi
hành hình phạt, không làm thay đổi quyết
định xét xử nên đặc xá không cản trở việc
thực hiện tái thẩm. Ngược lại, ân xá xoá bỏ
tính chất tội phạm của hành vi đã thực hiện
nên bản án, quyết định kết tội được huỷ bỏ
do ân xá về nguyên tắc không phải là đối
tượng của tái thẩm vốn cũng có mục đích
huỷ bỏ sự kết tội. Tuy nhiên, vì lợi ích tinh
thần của người được ân xá và vì hiệu lực hồi
tố của việc hủy bản án, quyết định kết tội
trong trường hợp tái thẩm rộng hơn trường
hợp ân xá nên luật ân xá thừa nhận quyền
kháng cáo tái thẩm cho người được ân xá.
Các bản án, quyết định không phải là
đối tượng của kháng cáo, kháng nghị tái
thẩm gồm: bản án, quyết định sơ thẩm vẫn
còn có thể kháng cáo, kháng nghị phúc
thẩm; bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời
chung thẩm và bản án, quyết định phúc thẩm
mà thời hạn kháng cáo, kháng nghị giám
đốc thẩm vì lợi ích của người bị kết án đối
với bản án, quyết định đó chưa hết hoặc bản
án, quyết định đã bị kháng cáo, kháng nghị
giám đốc thẩm nhưng chưa có quyết định
không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị.
Thủ tục tái thẩm cũng không được áp
dụng nếu còn biện pháp khác cho phép sửa
chữa sai lầm trong quá trình xét xử. Vì vậy,
trong trường hợp bị cáo sử dụng trái phép
các thông tin về nhân thân khiến người khác
bị ghi vào lý lịch tư pháp là đã bị kết án thì
người bị hại này không có quyền kháng cáo
tái thẩm bởi vì họ có quyền yêu cầu cải
61NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 12 (268) T6/2014
3 Tội phạm theo luật hình sự Pháp chia thành ba loại là: trọng tội, khinh tội và tội vi cảnh (crime, délit, contravention)
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
chính thông tin trong lý lịch tư pháp theo
quy định tại điều 778 BLTTHS Pháp. Yêu
cầu tái thẩm không được chấp nhận trong
trường hợp người bị kết án chết trước khi
bản án kết tội có hiệu lực pháp luật.
Các quyết định về dân sự (bồi thường
thiệt hại, chi phí tư pháp, hoàn lại hoặc khôi
phục nguyên trạng) của Toà án hình sự
không phải là đối tượng của tái thẩm.
3. Các trường hợp tái thẩm
Kháng cáo, kháng nghị tái thẩm đối với
bản án, quyết định chỉ được thực hiện trong
bốn trường hợp quy định tại Điều 622 BLT-
THS Pháp; những trường hợp này cũng từng
được quy định tại Điều 443 Bộ luật Thẩm
cứu hình sự. Theo quy định tại Điều 622
BLTTHS Pháp, thủ tục tái thẩm có thể được
thực hiện trong các trường hợp sau:
- Sau khi ra bản án kết tội giết người thì
có chứng cứ cho phép kết luận người được
xác định là nạn nhân của vụ giết người vẫn
còn sống (Điều 622-1 BLTTHS Pháp)
Điều luật này đòi hỏi trước hết phải có
bản án kết tội giết người như các tội ám sát,
giết người, đầu độc, giết người thân thích,
giết trẻ em, cố ý gây thương tích dẫn đến
hậu quả chết người, vô ý làm chết người.
Ngược lại, không được tái thẩm đối với bản
án kết tội đe dọa giết người, bởi vì trong
trường hợp này người bị hại không bị chết
do sự đe dọa. Ngoài ra, điều luật nói trên còn
đòi hỏi chứng cứ mới cho phép kết luận
người bị hại còn sống phải xuất hiện sau khi
bản án kết tội giết người, và chứng cứ đó
phải đủ cơ sở để kết luận nạn nhân của vụ
giết người vẫn còn sống vào thời điểm ra
bản án. Tuy nhiên, không quan trọng là
người đó còn sống hay không kể trong
khoảng thời gian từ khi ra bản án kết tội đến
khi có yêu cầu tái thẩm.
Trên thực tế, chưa từng có án lệ nào về
việc áp dụng thủ tục tái thẩm trong trường
hợp nói trên.
- Trong trường hợp sau khi có bản án
kết án bị cáo về trọng tội hoặc khinh tội thì
có bản án mới kết tội bị cáo khác về cùng
hành vi phạm tội nhưng sự kết tội của hai
bản án mâu thuẫn nhau; sự mâu thuẫn này
là cơ sở khẳng định sự vô tội của một trong
hai bị cáo (Điều 622-2 BLTTHS Pháp).
Trường hợp này đòi hỏi thực tế là có hai
lần kết tội đối với cùng một hành vi bằng hai
bản án riêng biệt và mâu thuẫn nhau. Nếu
hai hay nhiều người bị kết án trong cùng một
bản án thì dù tồn tại mâu thuẫn, thủ tục tái
thẩm không được áp dụng; mà trong trường
hợp này có thể thực hiện thủ tục giám đốc
thẩm. Tương tự, thủ tục tái thẩm không được
áp dụng trong trường hợp lời khai của người
làm chứng hay các chứng cứ khác tại phiên
tòa mới mâu thuẫn với bản án kết tội đã
tuyên trước đó, bởi vì trong trường hợp này
không có mâu thuẫn giữa hai bản án.
Hai bản án mâu thuẫn phải được tuyên
bởi tòa án hình sự và là hai bản án kết tội.
Nếu một trong hai bản án đó được tuyên bởi
tòa án dân sự, thương mại hay hành chính
thì thủ tục tái thẩm cũng không được áp
dụng, mặc dù bản án này mâu thuẫn với bản
án hình sự. Ví dụ: không được tái thẩm đối
với bản án hình sự kết án bị cáo về tội lừa
đảo do hành vi lập công ty trái phép và
chiếm đoạt vốn, mặc dù sau đó có bản án
của toà thương mại có hiệu lực pháp luật
khẳng định việc lập công ty là hợp pháp.
Thủ tục tái thẩm được áp dụng không
phụ thuộc vào việc một hoặc cả hai bản án
kết tội đang được thi hành hoặc đã thi hành
xong.
Như vậy, để áp dụng thủ tục tái thẩm,
hai bản án kết tội về cùng một trọng tội hoặc
khinh tội phải có nội dung mâu thuẫn nhau,
bởi vì “sự mâu thuẫn này là bằng chứng vô
tội của một trong các bị cáo” (Điều 622-
2, đoạn cuối). Ví dụ, thủ tục tái thẩm được
áp dụng trong trường hợp hai bản án có hiệu
lực pháp luật mâu thuẫn nhau, kết tội hai bị
cáo khác nhau về cùng một hành vi trộm cắp
mà hành vi đó chỉ do một cá nhân thực hiện
Tóm lại, để chấp nhận tái thẩm trong
trường hợp có mâu thuẫn giữa các bản án,
cần phải có sự đối lập giữa hai bản án kết
tội, và sự đối lập này là đối lập về pháp lý
chứ không phải về sự kiện; có nghĩa rằng,
việc kết tội đối với từng bị cáo phải mang
tính chất độc lập, riêng biệt, đến mức sai lầm
tư pháp được nhận thấy rõ ràng.
- Người làm chứng sau khi xét xử thì bị
truy tố và kết án về hành vi làm chứng
không đúng sự thật chống lại bị cáo (Điều
622-3 BLTTHS Pháp).
62 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 12 (268) T6/2014
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
Trước hết, cần xác định người làm
chứng đã có hành vi làm chứng không đúng
sự thật, có nghĩa đã làm chứng sai tại phiên
tòa, sau khi tuyên thệ. Hành vi làm chứng
không đúng sự thật bị phát hiện sau khi Tòa
đã tuyên án. Nếu người làm chứng không
đúng sự thật bị truy tố trước khi tuyên án,
hoặc đã chết trước khi bị truy tố, hoặc không
thể bị truy tố do hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự thì thủ tục tái thẩm không
được áp dụng. Thủ tục tái thẩm có thể được
yêu cầu trong trường hợp, sau khi tòa đã
tuyên án, một trong những người làm chứng
bị truy tố và kết án về hành vi làm chứng
không đúng sự thật chống lại bị cáo. Thẩm
phán trực tiếp xem xét hành vi làm chứng
không đúng sự thật hoặc thẩm phán được
giao nhiệm vụ xét xử lại vụ án là người có
thẩm quyền xem xét liệu hành vi làm chứng
không đúng sự thật có ảnh hưởng quan trọng
đến bản án đã tuyên và làm sai lệch toàn bộ
chứng cứ đã được thu thập trước đó hay
không. Trong trường hợp xác định được việc
làm chứng không đúng sự thật thì yêu cầu
tái thẩm được chấp nhận. Việc xét xử người
làm chứng không đúng sự thật phải dẫn đến
hệ quả: sau khi xem xét hành vi làm chứng
sai sự thật, bị cáo được tuyên không có tội.
Trong trường hợp hành vi làm chứng sai sự
thật không ảnh hưởng đến quyết định xác
định bị cáo phạm tội, và bị cáo vẫn bị tuyên
phạm tội trên cơ sở các bằng chứng khác,
thủ tục tái thẩm không được chấp nhận với
lý do có hành vi làm chứng sai sự thật.
- Sau khi có bản án kết tội thì có tình tiết
mới hoặc phát hiện tình tiết mới hoặc tình
tiết mà tòa án không biết được khi xét xử
gây nghi ngờ về tội phạm của người bị kết
án (Điều 622-4 BLTTHS Pháp).
Quy định này được đưa ra trong luật
ngày 23/6/1989, rộng hơn quy định trước
đây chỉ cho phép tái thẩm trong trường hợp
“có tình tiết mới hoặc chứng cứ không được
biết đến khẳng định sự vô tội của người
bị kết án”. Sự mở rộng điều kiện tái thẩm
thể hiện ở hai mức độ: bên cạnh tình tiết
mới, quy định thêm tình tiết mà tòa án
không được biết khi xét xử sơ thẩm; tình tiết
mới hoặc tình tiết không được biết đến này,
về bản chất, chỉ cần gây nghi ngờ về tội
phạm của người bị kết án chứ không đòi hỏi
phải khẳng định người đó vô tội.
Một số ví dụ về tình tiết mới trong thực
tế tái thẩm của Pháp: Sau khi ra bản án kết
tội thì phát hiện người bị kết án bị liệt toàn
thân vào thời điểm hành động phạm tội được
thực hiện (Tòa tối cao, hình sự, 26/10/1911,
DP 1912.1.421) hoặc bị bệnh tâm thần (Tòa
tối cao, hình sự, 3/5/1994, Tập san hình sự,
số 163, D. 1995, somm. 144 obs. Pradel);
Vào thời điểm xảy ra tội phạm, người bị kết
án đang điều trị tại bệnh viện ở nơi khác,
cách xa nơi xảy ra tội phạm và thông tin về
nhân thân của người này đã bị một người
khác chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp (Tòa
tối cao, hình sự, 28/6/1994, Tập san hình sự,
số 258); Trong trường hợp kết án về hành vi
đầu độc bằng chất asenic, sau đó một nghiên
cứu khoa học chỉ ra rằng lượng chất asenic
tìm thấy trong tử thi không đủ là nguyên
nhân dẫn đến sự nhiễm độc và những phát
hiện mới trong y học cho thấy tồn tại một
loại bệnh, trong một số trường hợp, có những
triệu chứng bệnh tương tự như bị trúng độc
và những điều này cho phép kết luận nạn
nhân chết do bị mắc căn bệnh nêu trên.
4. Chủ thể có quyền yêu cầu tái thẩm và
thủ tục yêu cầu tái thẩm
Những người có quyền yêu cầu tái thẩm
được quy định tại Điều 623 BLTTHS Pháp
gồm những cá nhân sau:
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
- Bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp
của bị cáo trong trường hợp bị cáo không đủ
năng lực chủ thể;
- Sau khi bị cáo chết hoặc bị tuyên bố
vắng mặt, vợ (hoặc chồng), con cái, bố mẹ,
người được hưởng toàn bộ di sản của bị cáo
hay những người được bị cáo ủy quyền.
Thủ tục tái thẩm được tiến hành trên cơ
sở có đơn yêu cầu tái thẩm; đơn này sẽ được
Ủy ban tái thẩm kiểm tra trước khi chuyển
sang Tòa tái thẩm. Dù được Bộ trưởng Bộ
Tư pháp, bị cáo hay những người có quyền
yêu cầu, yêu cầu tái thẩm cũng sẽ được
chuyển đến một Ủy ban gồm năm thẩm
phán, ủy viên thẩm phán hoặc ủy viên thẩm
phán ad hoc, được chỉ định bởi Đại hội đồng
của Tòa tối cao; một trong số những thành
viên của Ủy ban được lựa chọn trong số các
thành viên của phòng xét xử hình sự và giữ
63NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 12 (268) T6/2014
3.5. Đảm bảo điều kiện vật chất cho việc
thực hiện pháp luật về giáo dục ở các
trường đại học
Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng cho giáo dục đại học; các
trường đại học cũng đã tập trung đầu tư xây
dựng cơ sở như: trung tâm thư viện, phòng
thí nghiệm, ký túc xá và sân chơi thể dục thể
thao... Nhà nước có chính sách ưu đãi, hỗ
trợ, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước
và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực giáo dục
đại học; bảo đảm quyền sở hữu theo pháp
luật và các quyền lợi về vật chất và tinh thần
của nhà đầu tư. Các trường đại học cũng đã
chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn thu
từ các hợp đồng đào tao, nghiên cứu và triển
khai, chuyển giao công nghệ, các hoạt động
dịch vụ, sản xuất, kinh doanh.
Thực hiện hạch toán thu – chi đối với
các trường đại học công lập, có quyền tự chủ
cao trong thu – chi theo nguyên tắc lấy các
nguồn thu bù đủ các khoản chi hợp lý, có
tích lỹ cần thiết để phát triển cơ sở vật chất
phục vụ đào tạo và nghiên cứu.
Nhìn chung, cơ sở vật chất của các
trường đại học, trang thiết bị, đồ dùng dạy
học được tăng cường. Nhưng vẫn còn một
số trường (nhất là các trường ở miền núi, ở
Tây Nguyên) thì cơ sở vật chất còn khó khăn
còn thiếu thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm,
phòng thư viện, phòng bộ môn, mặt bằng
chật hẹp... Thực trạng đó cũng đã làm ảnh
hưởng không ít đến việc thực hiện pháp luật
về giáo dục ở các trường đại học.
Để bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo
dục ở các trường đại học, nhằm nâng cao
chất lượng, ngăn ngừa, hạn chế những vi
phạm, pháp luật về giáo dục, yêu cầu đặt ra
là các cấp phải quan tâm đầu tư kinh phí
đúng vị trí, ngang tầm với nhiệm vụ của giáo
dục, bảo đảm những điều kiện vật chất cần
thiết để hoạt động thực hiện pháp luật về
giáo dục được tiến hành một cách bình
thường và đạt hiệu quả n
Tăng cường
(TiÕp theo trang 50)
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
chức Chủ tịch Ủy ban. Năm thẩm phán dự
khuyết cũng được chỉ định theo thủ tục trên.
Thời gian thi hành công vụ của các thành
viên Ủy ban không được quy định cụ thể.
Những thành viên này thôi nhiệm vụ trong
trường hợp chuyển công tác, không còn làm
việc tại Tòa tối cao hoặc bản thân họ có đơn
xin thôi. Chức năng công tố được thực hiện
bởi cơ quan công tố của Tòa tối cao. Một
yêu cầu gửi trực tiếp cho Tòa tái thẩm sẽ bị
tuyên bố không hợp lệ.
Yêu cầu tái thẩm không bị hạn chế bởi
bất kỳ hình thức cụ thể nào. Tuy nhiên, đơn
yêu cầu tái thẩm phải có đầy đủ thông tin
cần thiết về ngày, tháng, bản chất của bản án
hình sự được yêu cầu tái thẩm và trong một
số trường hợp, việc chấp hành hình phạt do
tòa án quyết định. Yêu cầu tái thẩm phải nêu
rõ cơ sở pháp lý, có nghĩa là nêu trường hợp
mà luật cho phép yêu cầu tái thẩm và trình
bày một cách chính xác, cụ thể các dữ kiện
là cơ sở cho yêu cầu đó. Trước thời điểm có
hiệu lực của luật ngày 23/6/1989, không
chấp nhận yêu cầu tái thẩm của Bộ Tư pháp,
thực hiện trên cơ sở quy định tại Điều 622-
4, theo đó đơn yêu cầu không trình bày bất
kỳ tình tiết nào có bản chất cho phép chứng
minh sự vô tội của bị cáo hoặc, tối thiểu, làm
xuất hiện những nghi ngờ về hành vi phạm
tội của bị cáo (Tòa tối cao, hình sự,
11/5/1976, Tập san hình sự, số 152; Tòa tối
cao, hình sự, 12/7/1988, Tập san hình sự, số
301; 7/6/1989, Tập san hình sự, số 246). Tuy
nhiên, trong trường hợp bị cáo hoặc bị can
được giả định là vô tội thì bị cáo bị kết án
vẫn có thể bị xác định là tội phạm. Sau khi
tòa ra bản án, nghĩa vụ chứng minh đã thay
đổi; lúc này, bị cáo là người phải chứng
minh sự tồn tại sai lầm trong quá trình áp
dụng pháp luật. Cuối cùng, đơn yêu cầu tái
thẩm cần có phụ lục để minh chứng cho nội
dung yêu cầu n
64 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 12 (268) T6/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_tham_trong_phap_luat_to_tung_cong_hoa_phap.pdf