Nghiên cứu các hiện tượng của hiện
thực được bắt đầu từ sự quan sát và so
sánh chúng. Tất cả được nhận thức trong
so sánh. Để nói được rằng vật này hay vật
khác tốt hay xấu, cần so sánh chúng với
vật khác nào đó. So sánh tạo nên bước đầu
tiên trong quá trình đi đến kết luận theo
loại suy. So sánh cho phép tìm ra đặc
điểm chung và khác biệt trong các đối
tượng. Khoa học đã biết không ít các phát
minh, sáng chế mà sự nghiên cứu để tạo ra
chúng được bắt đầu từ sự loại suy. Những
kết luận sơ bộ, ban đầu, thường ít có cơ
sở, có tính phỏng đoán - là điểm xuất phát
cho những nghiên cứu mới, kích thích nhà
khoa học tìm kiếm bổ sung. Ví dụ, sự loại
suy giữa các hiện tượng ánh sáng và âm
thanh đã chỉ ra rằng chúng có hàng loạt
tính chất giống nhau: tính lan truyền theo
đường thẳng, tính phản ánh, tính khúc xạ;
giao thoa. Ngoài ra, người ta biết được
rằng âm thanh được sinh ra do các vận
động theo chu kỳ. Trên cơ sở sự giống
nhau của các tính chất đó, các nhà bác học
giả định rằng ánh sáng cũng được sinh ra
do những sự vận động tương tự. Điều này
sau đó dẫn đến phát minh ra sóng ánh
sáng. Hay là, sự giống nhau giữa các hiện
tượng trong máy phát điện và tia chớp đã
dẫn Franklin sáng chế ra cột thu lô
6 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 879 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tâm lý học - Loại suy như là một hình thức tư duy và ý nghĩa của nó trong nhận thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Loại suy như là một hình thức tư duy
và ý nghĩa của nó trong nhận thức
Nguyễn Gia Thơ(*)
Tóm tắt: Loại suy là một hình thức tư duy được con người sử dụng thường xuyên trong
cuộc sống hàng ngày cũng như trong nghiên cứu khoa học. Cùng với hình thức suy luận
gần với nó là quy nạp, loại suy không cho kết luận xác thực như diễn dịch. Tuy nhiên,
loại suy là bước đi đầu tiên không thể thiếu trong quá trình tư duy và nghiên cứu khoa
học; tuy nó chỉ cho những kết luận sơ bộ mang tính xác suất, nhưng lại có tác dụng
hình thành trực giác trong tư duy. Bài viết phân tích loại suy như là một hình thức tư
duy logic, đồng thời chỉ ra ý nghĩa của nó trong nhận thức nói chung và nhận thức khoa
học nói riêng.
Từ khóa: Loại suy, So sánh, Quy nạp, Logic, Nhận thức, Hình thức tư duy
1. Trước hết, về bản chất của loại suy.
Thuật ngữ “loại suy” theo tiếng Hy Lạp cổ
có nghĩa là tỷ lệ. Đầu tiên thuật ngữ này
được các nhà toán học sử dụng để chỉ mối
quan hệ tỷ lệ giữa các con số. Hệ thống
hai số 6 và 9 “loại suy” (tương tự) với hệ
thống hai số 36 và 54, vì 6:9=36:54
(=2/3). (*)
Sau đó “loại suy” được sử dụng với
nghĩa rộng hơn như là sự giống nhau, sự
tương ứng, tương tự giữa các sự vật, đối
tượng, sự đồng nhất các mối quan hệ giữa
chúng. Không chỉ có các đối tượng, các sự
kiện lịch sử có thể tương tự nhau mà cả
các khái niệm, tư tưởng, ý nghĩ. Ví dụ, về
vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại và ý thức,
Hegel có những tư tưởng giống với các tư
tưởng của Platon. Tính đa nghĩa của khái
(*) PGS.TS., Viện Triết học, Viện Hàn lâm KHXH
Việt Nam; Email: nguyentho54@yahoo.com.vn
niệm loại suy là do có sự sử dụng rộng rãi
nó trong thực tiễn tư duy, nhận thức.
Như vậy, loại suy là một dạng suy
luận về tính thuộc về đối tượng một dấu
hiệu xác định (hoặc có thể là tính chất hay
mối quan hệ xác định) trên cơ sở sự giống
nhau theo những dấu hiệu cơ bản với sự
vật khác.
Trong logic học và nhận thức luận,
loại suy được xem như hình thức thu nhận
tri thức kết luận như một suy luận, trong
đó trên cơ sở giống nhau của các sự vật ở
một số dấu hiệu người ta rút ra kết luận về
sự giống nhau của những sự vật này ở
những dấu hiệu khác. Ví dụ từ thực tiễn
nhận thức khoa học: trong phổ vùng các
nguyên tố hóa học ở xa trái đất, các đường
sương mù chuyển dịch về hướng màu đỏ
của quang phổ so với các vạch của nguyên
tố này - có thể quan sát được trong những
điều kiện trái đất. Đó là hiện tượng của
4 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016
“hỗn hợp màu đỏ” - là kết quả của sự xa
nhau ra của các thiên hà trong lĩnh vực vũ
trụ bao quanh ta. Hiện tượng “hỗn hợp
màu đỏ” đã được phát hiện tương tự với
các hiện tượng âm thanh - cái gọi là “hiệu
ứng Dopler”. Tần suất dao động hay là độ
dài của sóng âm, được nhận biết bởi nhà
quan sát, thay đổi phụ thuộc vào sự vận
động của nguồn âm thanh và tương ứng
với người quan sát. Khi chúng gần nhau,
tần suất tăng lên; khi xa nhau, tần suất
giảm. Trong âm học, khi nguồn âm và
người tiếp nhận gần nhau, âm sắc cao lên;
khi xa nhau, âm sắc hạ thấp. Sự giống
nhau giữa bản chất của ánh sáng và âm
thanh ở hàng loạt tính chất là có cơ sở cho
sự phân tích “hỗn hợp màu đỏ” giống với
hiệu ứng Dopler. Như đã biết, tốc độ ánh
sáng không phụ thuộc vào tốc độ của
nguồn phát sáng nhưng độ dài sóng ánh
sáng tri giác được lại phụ thuộc vào tốc độ
nguồn phát sáng. Nếu nguồn chuyển động
theo hướng đến người quan sát, thì người
quan sát tiếp nhận ánh sáng tri giác được
ánh sáng có tần suất lớn (nghĩa là tiếp cận
đến vùng tím của quang phổ). Nếu nguồn
vận động theo hướng xa người quan sát,
thì tần suất ánh sáng tri giác được sẽ giảm
và diễn ra sự hỗn hợp các vạch quang phổ
đến vùng đỏ.
Công thức sơ đồ của suy luận theo
loại suy như sau:
A có các dấu hiệu a b c d
B có các dấu hiệu a b c
-------------------------------------------
Kết luận: Khả năng là B cũng có dấu hiệu d
Dấu hiệu của đối tượng (hay của hệ
thống các đối tượng, hệ thống tư tưởng, tri
thức) có thể là tính chất của đối tượng,
mối quan hệ của nó, đặc điểm, cấu trúc,
chức năng của nó.
Ý nghĩa của loại suy thể hiện ở chỗ là
để tìm ra những dấu hiệu chưa biết của đối
tượng trên cơ sở tri thức được lĩnh hội từ
trước về đối tượng khác giống với nó,
chuyển thông tin từ một đối tượng sang
đối tượng khác trên cơ sở một số mối
quan hệ giữa chúng.
2. Các kiểu loại suy được phân biệt
với nhau phụ thuộc vào đặc điểm thông
tin chuyển dịch. Nếu các đối tượng được
so sánh với nhau theo các tính chất của
chúng, thì có một kiểu loại suy thuộc tính.
Nếu cơ sở của sự so sánh là các mối quan
hệ của các đối tượng, thì sẽ có kiểu loại
suy khác - loại suy quan hệ. Trong loại
suy về nguyên nhân, những hiện tượng
giống nhau là những hiện tượng được sinh
ra bởi các nguyên nhân như nhau. Thuộc
tính “có nguyên nhân như nhau” được
chuyển từ hiện tượng này sang hiện tượng
khác. Nhưng khả năng còn có cả quá trình
đối lập, khi cơ sở của kết luận theo loại
suy là tính cùng loại của các nguyên nhân,
còn kết luận thể hiện ở việc chuyển dịch
thông tin về một trong những hoạt động
của nguyên nhân sang hiện tượng khác
(loại suy hệ quả). Trong loại suy về chức
năng-cấu trúc, cấu trúc của các hệ thống
đồng nhất với nhau trên cơ sở đồng nhất
các chức năng của chúng. Ngược lại,
trong những loại suy cấu trúc-chức năng,
sự đồng nhất về cấu trúc là cơ sở cho sự
đồng nhất các chức năng.
Cơ sở khách quan của loại suy là mối
quan hệ của các đối tượng, mối liên hệ
mang tính quy luật giữa những mặt, những
thuộc tính riêng biệt trong các đối tượng
được so sánh. Ví dụ, ở động vật có vú có
sự phụ thuộc giữa chất lượng thức ăn, cấu
tạo răng và dạ dày. Sự phụ thuộc này là cơ
bản và cần thiết. Nó cho phép dựa trên cơ
sở giống nhau của các điều kiện tự nhiên
của sự tồn tại động vật mà kết luận về tính
chung của cấu trúc các cơ quan của chúng.
Sự lặp lại hàng tỷ lần sự phụ thuộc lẫn
nhau này của các đối tượng trong hoạt
Loại suy như lš§ 5
động thực tiễn của con người được thể
hiện trong tiền đề của phép loại suy: nếu
các đối tượng giống nhau ở một số dấu
hiệu nhất định, chúng có thể giống nhau ở
các dấu hiệu khác. Loại suy phản ánh sự
giống nhau của các đối tượng và hiện
tượng. Khi người ta nói rằng hai sự vật
giống nhau, có nghĩa là: chúng giống nhau
trong một số mối quan hệ. Những đối
tượng giống nhau có những phần giống
nhau, có những phần khác nhau. Vây ở cá
giống như cánh ở chim. Sự giống nhau
của các đối tượng trong một mối quan hệ
nhất định không thể là cơ sở cho sự đồng
nhất hoàn toàn của các đối tượng này.
3. Những điều kiện để nâng cao trình
độ xác thực của kết luận trong loại suy.
Kết luận theo loại suy luôn mang đặc
điểm xác suất. Xác thực và xác suất thể
hiện những trình độ khác nhau của tính
chứng minh được của tri thức. Tri thức
xác suất có nhiều tầng khác nhau: từ xác
suất nhỏ, không xác thực, đến gần với xác
thực. Vậy trình độ tính xác suất chân thực
của các kết luận theo loại suy phụ thuộc
vào cái gì? Có những cơ sở logic nào của
các kết luận này?
Có những cơ sở khách quan tạo ra
khả năng có các kết luận theo loại suy. Để
biến khả năng thành hiện thực cần những
điều kiện xác định - những điều kiện đó là
cơ sở logic cho loại suy. Những điều kiện
để nâng cao xác suất chân thực của các kết
luận theo loại suy về cơ bản là tính chi tiết
và bề rộng của sự nghiên cứu các đối
tượng hay hiện tượng giống nhau. Công
việc nghiên cứu các hiện tượng tất nhiên
có trước các kết luận.
Loại công việc nghiên cứu đơn giản
nhất, đó là xem xét sự giống nhau giữa
các hiện tượng tương tự nhau, vạch ra một
số lượng lớn các dấu hiệu giống nhau.
Nhưng tự nó, sự hiện diện của các dấu
hiệu chung ở các đối tượng so sánh với
nhau không phải là quyết định để nhận
được các kết luận theo loại suy. Cần cố
gắng sao cho các dấu hiệu chung của các
đối tượng cần so sánh là điển hình đối với
các đối tượng này, sao cho chúng có mối
liên hệ chặt chẽ với các dấu hiệu đặc thù
của chúng. Trái đất và sao hỏa đều được
tạo nên từ các nguyên tử và phân tử.
Nhưng những dấu hiệu chung này cũng
vốn có của các đối tượng vật chất khác, vì
thế chúng không được sử dụng với vai trò
là cơ sở logic cho loại suy trong việc xem
xét vấn đề tồn tại sự sống trên sao hỏa.
Sự đa dạng các tính chất chung ở các
đối tượng được so sánh có ý nghĩa lớn.
Nếu các tính chất chung là cùng một kiểu
(ví dụ hình học hay vật lý), thì kết luận sẽ
ít hợp lý hơn so với ở tính chung như hình
học, cũng như cả vật lý, hóa học và các
tính chất khác cùng được xem xét.
Trong việc phân tích các cơ sở logic,
cần đi từ hiện tượng đến bản chất, bởi vì
sự vận động này là quy luật chung của
mọi loại nhận thức. Suy luận theo loại suy
sẽ có cơ sở, căn cứ lớn hơn, nếu các đối
tượng cần so sánh có tính chung ở những
dấu hiệu cơ bản, hơn là trong các trường
hợp chúng chỉ giống nhau ở những dấu
hiệu ngẫu nhiên. Sự giống nhau giữa các
đối tượng so sánh càng mang tính căn bản,
thì suy luận theo loại suy càng có căn cứ
lớn hơn. Ví dụ, sẽ có xác suất chân thực
cao hơn khi chúng ta chờ đợi hái những
quả tương tự từ những cây ăn quả mà
chúng ta đã biết. Nhưng nếu chúng ta thấy
trên công trường xây dựng có vài đống cát
mà ở mỗi đống có ba viên gạch, theo loại
suy chúng ta có hy vọng chăng sẽ gặp trên
đống cát tiếp theo ba viên gạch? Ở trường
hợp thứ nhất, mối liên hệ hữu cơ trong
thành phần các đối tượng giống nhau là mối
liên hệ cơ bản; còn trong trường hợp thứ
hai, sự liên kết máy móc của hai đối tượng
6 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016
mang đặc điểm ngẫu nhiên. Sự không
phân biệt được các mối liên hệ này sẽ dẫn
đến tính không có căn cứ của loại suy.
Trong số các cơ sở logic của loại suy
còn cần chỉ ra một quy tắc nữa: trình độ
xác suất chân thực của kết luận phụ thuộc
vào sự làm quen chi tiết hơn với các đối
tượng giống nhau. Sự hiểu biết mỗi đối
tượng càng đầy đủ, thì mặt số lượng càng
ít vai trò. Các đối tượng có thể giống nhau
ở nhiều dấu hiệu mà chúng ta biết, và hơn
nữa, chúng ta sẽ không có cơ sở cho xác
suất chân thực cao các kết luận theo loại
suy, nếu các đối tượng ít được nghiên cứu,
nếu không vạch ra được bản chất của
chúng, nếu không chú ý đến các đặc thù
của các hiện tượng cần nghiên cứu, nếu
không chú ý đến các dấu hiệu khác nhau
có trong các hiện tượng cần so sánh.
Không tính đến tất cả các nhân tố này sẽ
dẫn đến loại suy hời hợt.
Như vậy, việc nâng cao trình độ xác
suất chân thực của các kết luận theo loại
suy phụ thuộc vào những điều kiện sau: 1)
số lượng các dấu hiệu giống nhau được
xem xét ở các hiện tượng cần so sánh; 2)
mức độ tính căn bản của các dấu hiệu này.
Tóm lại, phân tích sự giống và khác nhau
giữa các hiện tượng cần nghiên cứu càng
tỉ mỉ, kết luận theo loại suy càng có cơ sở.
Để có được những kết luận theo loại
suy có xác suất chân thực cao cần có sự
giống nhau nhiều hơn giữa các hiện
tượng, đối tượng so sánh. Thế nhưng ở
đây tính đến một hoàn cảnh rất căn bản:
sự giống nhau càng nhiều giữa các đối
tượng so sánh, thì suy luận theo loại suy
càng ít giá trị sáng tạo. Ví dụ, trong lý
thuyết mô hình, có thể hoàn toàn đúng khi
cho rằng mô hình quá xa (so với khách
thể) có thể sẽ dẫn đến nhầm lẫn, còn khi
mô hình “quá chính xác” cũng mất ý
nghĩa và trở thành không có hiệu quả.
Trong nghiên cứu so sánh các ngôn ngữ
gần nhau, nhà nghiên cứu dựa vào các sự
kiện không chỉ giống nhau, mà cả sự khác
nhau. Nếu sự khác biệt giữa chúng cực
tiểu, thì chúng không cho nhà nghiên cứu
nhiều tư liệu để tìm tòi.
Các kết luận theo loại suy mang tính
xác suất. Nhưng đặc điểm xác suất của
các kết luận này không nên tuyệt đối hóa.
Khác với các loại suy thông thường - được
sử dụng trong thực tiễn hàng ngày của con
người, một số kết luận khoa học được xây
dựng trên sự loại suy-gần với tri thức xác
thực. Chúng ta biết rằng, hoạt động của
các công trình như cầu, đập đầu tiên
được nghiên cứu dựa trên các mô hình.
Mô hình - giống với đối tượng. Mô hình
hóa cho phép dựa trên tỷ lệ tăng, giảm,
người ta nghiên cứu được các mặt lượng
và chất của quá trình diễn ra trong nguyên
mẫu (nguyên mẫu này không nghiên cứu
chi tiết được). Các kết quả của kinh
nghiệm đơn lẻ được khái quát và chuyển
sang toàn bộ nhóm các đối tượng giống
với các đối tượng cần nghiên cứu. Phương
pháp mô hình hóa dựa vào lý thuyết giống
nhau cung cấp cơ sở cho việc chuyển các
quy luật nhận được từ mô hình sang
nguyên mẫu. Ở những trường hợp này, kết
luận gần xác thực.
4. Ý nghĩa nhận thức của suy luận
theo loại suy .
Nhận thức có tính biện chứng. Trong
nhận thức, con người đi từ không biết đến
biết, từ tri thức chưa đầy đủ đến ngày càng
đầy đủ hơn, xác thực hơn. Hiểu biết về
hiện tượng và nhận thức bản chất thể hiện
là những nấc thang đặc thù của quá trình
nhận thức. Công việc nghiên cứu có trước
việc khám phá ra quy luật và bản chất.
Ý nghĩa nhận thức của loại suy được
xác định ở chỗ, loại suy thể hiện là một
trong những thủ pháp nghiên cứu tích cực
Loại suy như lš§ 7
có ưu thế ở giai đoạn ban đầu của quá
trình nhận thức. Đơn giản trong cấu trúc,
phổ thông trong sử dụng, loại suy thể hiện
là hình thức ban đầu của nhận thức, nó
cấu thành một trong những mắt xích đầu
tiên trong sợi xích các kết quả khoa học.
Nghiên cứu các hiện tượng của hiện
thực được bắt đầu từ sự quan sát và so
sánh chúng. Tất cả được nhận thức trong
so sánh. Để nói được rằng vật này hay vật
khác tốt hay xấu, cần so sánh chúng với
vật khác nào đó. So sánh tạo nên bước đầu
tiên trong quá trình đi đến kết luận theo
loại suy. So sánh cho phép tìm ra đặc
điểm chung và khác biệt trong các đối
tượng. Khoa học đã biết không ít các phát
minh, sáng chế mà sự nghiên cứu để tạo ra
chúng được bắt đầu từ sự loại suy. Những
kết luận sơ bộ, ban đầu, thường ít có cơ
sở, có tính phỏng đoán - là điểm xuất phát
cho những nghiên cứu mới, kích thích nhà
khoa học tìm kiếm bổ sung. Ví dụ, sự loại
suy giữa các hiện tượng ánh sáng và âm
thanh đã chỉ ra rằng chúng có hàng loạt
tính chất giống nhau: tính lan truyền theo
đường thẳng, tính phản ánh, tính khúc xạ;
giao thoa. Ngoài ra, người ta biết được
rằng âm thanh được sinh ra do các vận
động theo chu kỳ. Trên cơ sở sự giống
nhau của các tính chất đó, các nhà bác học
giả định rằng ánh sáng cũng được sinh ra
do những sự vận động tương tự. Điều này
sau đó dẫn đến phát minh ra sóng ánh
sáng. Hay là, sự giống nhau giữa các hiện
tượng trong máy phát điện và tia chớp đã
dẫn Franklin sáng chế ra cột thu lôi.
Hàng ngàn vật liệu được tạo ra bởi
các nhà hóa học dựa trên tư duy theo loại
suy với các hợp chất tự nhiên của chúng.
Tập hợp các phân tử được tổng hợp theo
các cơ chế loại suy.
Các nhà tư tưởng xuất chúng đều sử
dụng loại suy trong nghiên cứu khoa học.
Vai trò của loại suy trong sáng tạo của
Darwin là một ví dụ. Các kết luận về mặt
lý thuyết trong các nghiên cứu của ông đã
được thực hiện theo sự loại suy với chọn
lọc nhân tạo. Sự khởi đầu trong công việc
khoa học của ông là khái quát thực tiễn
đang biến đổi của việc hoàn thiện, chọn
lọc vật nuôi, cây trồng của con người
Vì khái niệm loại suy có nghĩa tương đối
rộng, nên việc sử dụng nó trong thực tiễn
tư duy và nhận thức cũng đa dạng
Tư duy theo loại suy không chỉ có ý
nghĩa lớn trong nghiên cứu khoa học về
mặt lý thuyết, mà cả trong thực tiễn. Ví
dụ, việc tìm ra kim cương ở Siberia: Đầu
tiên người ta nhận ra cấu trúc địa chất của
cao nguyên Nam Phi có nhiều tính chất
chung với cấu trúc địa chất của đất vùng
Đông Siberia. Trong các mạch kim cương
ở Nam Phi, người ta tìm thấy khoáng chất
có màu xanh lam. Một cách ngẫu nhiên
người ta cũng tìm thấy khoáng chất có
màu xanh lam như vậy ở cửa một con
sông ở Yakutsk. Và đi đến kết luận có tính
giả thuyết là ở Yakutsk (Siberia) khả năng
cũng có kim cương. Kết luận có tính giả
thuyết này sau được xác nhận là đúng.
Trong hiện thực khách quan cái
chung tồn tại trong cái riêng. Tư duy là cái
phản ánh hiện thực (nên nó tương tự hiện
thực) và do đó ở đây cái chung và cái trừu
tượng biểu hiện thông qua cái riêng và cái
cụ thể. Ví dụ, trong quá trình định nghĩa
khái niệm - khái niệm dùng để định nghĩa
được thể hiện thông qua một hệ thống tri
thức cụ thể - tri thức đó vạch ra nghĩa của
khái niệm cần định nghĩa. Ở đây cần các
khái niệm và hình ảnh tương tự - mà
chúng không làm thay đổi ngoại diên khái
niệm - làm cụ thể hóa nội hàm của chúng.
Tư duy, giống như một ngân hàng lớn - có
lượng vốn nhất định trong quỹ của mình -
đó là các khái niệm, biểu tượng cụ thể. Ở
những nơi không có vốn đó, những khái
niệm chung chỉ là những sự trừu tượng ít
8 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016
thích dụng, và tư duy - giống như một nhà
băng bị phá sản - trở thành không có căn cứ.
Chỉ ra ý nghĩa nhận thức của loại suy,
cùng với các khái niệm khác, người ta đã
chỉ ra những phạm trù triết học quan trọng
như trừu tượng và cụ thể. Loại suy là
phương tiện cụ thể hóa ý nghĩ, tư tưởng.
Liên quan đến điều này cần chính xác hóa
vấn đề về vai trò của các trừu tượng khoa
học. So với các hình ảnh trực quan cảm
tính, chúng phản ánh hiện thực sâu hơn -
giúp cho nghiên cứu khoa học tránh được
phiến diện. Nhưng tự các trừu tượng khoa
học không phải là mục đích của nhận
thức. Chúng là phương tiện đạt mục đích.
Mục đích của nhận thức là phân tích một
cách cụ thể các hiện tượng của hiện thực,
nhận thức chúng trong hoàn cảnh lịch sử
cụ thể tương ứng với các điều kiện không
gian - thời gian nhất định. Trong mối liên
hệ này, tư duy trừu tượng - có nghĩa là đặt
ra và giải quyết các vấn đề một cách
chung chung, ví dụ, bàn về bình đẳng “nói
chung” mà không xem xét kinh nghiệm cụ
thể của lịch sử sẽ ít có hiệu quả. Hegel đã
đúng khi cho rằng, tính cụ thể của tư duy
là một trong những điều kiện cần thiết cho
tính đúng đắn của nó. Tư duy đúng không
chỉ là tư duy xác định, nhất quán, được
chứng minh, mà còn là tư duy cụ thể.
Là một phương pháp tư duy đôi khi
dẫn con người đến phát minh, loại suy
không thích dụng với chứng minh và bác
bỏ. Những người không làm quen với
logic học thường nhầm lẫn và coi các suy
luận xác suất theo loại suy là chứng minh.
Các suy luận loại suy về lịch sử mà
trong đó dẫn ra sự giống nhau của hai
hay nhiều hiện tượng lịch sử không xác
định các đặc điểm khác nhau, là không có
căn cứ.
Loại suy dẫn con người đến tri thức,
giúp phát minh ra chân lý, nhưng không
thể thực hiện vai trò là phương pháp
nghiên cứu khoa học duy nhất và căn bản.
Loại suy là một thủ pháp bổ trợ trong
nhận thức Và, cũng cần nhớ rằng loại
suy không phải luôn luôn có vai trò tích
cực. Loại suy thực chất là so sánh, mà mọi
so sánh đều khập khiễng, nên loại suy
không phải bao giờ cũng hữu dụng. Loại
suy có thể đẩy nhà nghiên cứu đi theo con
đường sai lầm.
Loại suy được xem như một phương
pháp bổ trợ, như là một trong các phương
pháp thuộc kho tàng các phương pháp
nhận thức - là hoàn toàn có cơ sở, và đồng
thời là thủ pháp thu nhận tri thức mới, là
thủ pháp đưa nhà nghiên cứu đến những
phỏng đoán trước phát minh, thủ pháp giải
thích và cụ thể hóa tri thức
Tài liệu tham khảo
1. Vương Tất Đạt (1997), Logic học đại
cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
2. Nguyễn Đức Dân (2003), Giáo trình
Nhập môn logic hình thức, Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Tp.
Hồ Chí Minh.
3. D.F. Gorki (1963), Logic học, Moskva
(tiếng Nga).
4. E.K. Voishvilo, M.G. Degtiarev
(1998), Logic học - Sách giáo khoa
dành cho các trường đại học, Moskva
(tiếng Nga).
5. N.I. Kandacov (1976), Từ điển logic
học - Sách tra cứu, Moskva (tiếng
Nga).
6. Bùi Thanh Quất (chủ biên), Nguyễn
Tuấn Chi (1994), Giáo trình logic
hình thức, Khoa luật, Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26231_88134_1_pb_5486.pdf