Dự phòng thiếu sắt cho cơ thể
7.1 Đa dạng hóa bữa ăn
- Tăng cường các loại thực phẩm cung cấp sắt có
giá trị sinh học cao (sắt hem có trong thức ăn động vật).
- Tăng cường các loại thực phẩm hỗ trợ việc hấp
thu sắt.
- Hạn chế tác dụng ức chế hấp thu sắt của một số
chất có trong thực phẩm như phytat (làm đậu hũ hay
lên men. . .).
7.2 Bổ sung sắt cho các đối tượng có nguy cơ
thiếu sắt cao
- Đây là giải pháp tình thế, cấp bách nhằm khắc
phục nhanh tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng đang
lưu hành và dự phòng ở những đối tượng có nguy
cơ thiếu máu cao. Tuy nhiên, muốn thực hiện thành
công giải pháp này, cần có một hệ thống phân bố
và theo dõi tốt, bên canh đó còn đòi hỏi một cơ chế
quản lý, điều hành và chi phí hợp lý.
7.3 Tăng cường sắt vào thực phẩm
- Việc tăng cường một số vi chất dinh dưỡng nói
chung và sắt nói riêng vào một số loại thực phẩm
thiết yếu được tiêu thụ thường xuyên và rộng rãi đã
được chứng minh là giải pháp có hiệu quả và có khả
năng duy trì cao để thanh toán tình trạng thiếu vi
chất dinh dưỡng.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tầm quan trọng của sắt đối với thai kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẠM THANH HẢI TỔNG QUAN
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
06
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Phạm Thanh Hải, email: haiphamtd@gmail.com
Ngày nhận bài (received): 20/03/2015. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 15/04/2015. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 25/04/2015
1. Vai trò sinh học của sắt trong cơ thể
1.1 Phân bố sắt trong cơ thể
Trong cơ thể, tổng số sắt trung bình ở nam giới
khoảng 3,8g và nữ giới là 2,3g được phân bố như sau:
Như vậy sắt được phân bố vào 3 khu vực:
Khu vực chức năng: chiếm khoảng 2/3 lượng
sắt trong cơ thể, chủ yếu trong hemoglobin, 1g
hemoglobin chứa 3,3mg sắt, 1ml khối hồng cầu có
1mg sắt. Một lượng nhỏ sắt có trong các enzyme,
myoglobin.
Khu vực vận chuyển: chiếm khoảng 0,1% lượng
sắt của cơ thể, trong huyết tương sắt được vận
chuyển dưới dạng Fe3+ gắn với transferrin.
Khu vực dự trữ: khoảng 30% lượng sắt được dự
trữ ở dưới dạng ferritin và sản phẩm cô đặc dạng bán
tinh thể của nó gọi là hemosiderin tập trung chủ yếu
trong gan, lách, tuỷ xương[4].
Phạm Thanh Hải
Bệnh viện Từ Dũ
TẦM QUAN TRỌNG CỦA SẮT ĐỐI VỚI THAI KỲ
Tóm tắt
Sắt là một yếu tố thiết yếu cho tất cả các sinh vật vì
nó tham gia vào một loạt các quá trình trao đổi chất bao
gồm: vận chuyển oxy trong cơ thể, tổng hợp ADN và vận
chuyển các chất điện giải. Tuy nhiên, nồng độ sắt trong
các mô của cơ thể phải được quy định chặt chẽ bởi vì số
lượng quá nhiều có thể dẫn đến tổn thương mô. Rối loạn
về chuyển hóa sắt là một trong những bệnh phổ biến
nhất ở người, đặc biệt là ở phụ nữ mang thai. Trong bài
này, chúng tôi trình bày về sự trao đổi chất sắt, sinh khả
dụng, nhu cầu chất sắt, hậu quả của tình trạng thiếu sắt
trong thai kỳ. Cuối cùng, chúng tôi thảo luận về các chiến
lược để phòng ngừa thiếu sắt hiện nay.
Từ khóa: thai kỳ, nhu cầu sắt, chuyển hóa sắt.
Abstract
REVIEW ON IRON AND ITS IMPORTANCE FOR PREGNANCY
Iron is an essential element for almost all living
organisms as it participates in a wide variety of
metabolic processes, including oxygen transport,
deoxyribonucleic acid (DNA) synthesis, and
electron transport. However, iron concentration in
body tissues must be tightly regulated because in
excessive amounts, it can lead to tissue damage.
Disorders of iron metabolism are among the most
common diseases of humans, specialy in gestation.
In this review, we discuss the latest progress in
studies of iron metabolism and bioavailability,
and our current understanding of human iron
requirement and consequences and causes of
iron deficiency. Finally, we discuss strategies for
prevention of iron deficiency.
Key words: pregnancy, human iron requirement,
iron metabolism
1.2 Chức năng của sắt trong cơ thể
Sắt đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa
của cơ thể, là một mắc xích trong việc tạo các emzym
và tổng hợp hemoglobin và myoglobin.
o Chức năng quan trọng của sắt là tạo
hemoglobin. Hb có vai trò vận chuyển và phân
phối oxy lấy từ phổi đưa đến nuôi dưỡng các nhu
mô trong cơ thể. Myoglobin là phần sắc tố đỏ của
cơ, vận chuyển và dự trữ oxy được sử dụng trong
suốt quá trình co cơ.
o Đồng thời, khoảng 3% sắt là thành phần của
một số emzym oxy hóa khử như catalase, peroxidase,
các cytochroin – những chất xúc tác sinh học quan
trọng của cơ thể[10].
o Sắt cần thiết cho sự tổng hợp myelin cho tế bào
thần kinh.
o Ngoài ra sắt còn có vai trò cần thiết đối với quá
trình phân bào.
2. Chuyển hóa sắt
Sắt được tái sử dụng và thật sự được bảo vệ
trong cơ thể như một chu trình khép kín. Sắt được
chuyển hóa, vận chuyển khắp cơ thể thông qua
transferrin và được lưu trữ trong phân tử ferritin.
Khi sắt được hấp thu thì không có cơ chế sinh lý
Cơ quan, tổ chức Nam (mg Fe/Kg) Nữ (mg Fe/Kg)
Hemoglobin 31 28
Ferritin và hemosiderin 12 6
Myoglobin 5 4
Các emzyme 2 2
Transferrin < 1 < 1
Tổng cộng 50 40
Bảng 1.1. Sự phân bố sắt trong cơ thể người[4],[15].
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
07
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(02-PHỤ BẢN), 06-11, 2015
cho việc bài tiết sắt ra khỏi cơ thể ngoại trừ sắt chỉ
mất qua mất máu và tăng nhu cầu trong thai kỳ.
2.1 Hấp thu
Quá trình tiêu hoá và hấp thu sắt bắt đầu ở dạ
dày nhưng chủ yếu tại hành tá tràng và đoạn đầu
hỗng tràng. Sắt trong thức ăn có hai loại, sắt non-
hem nguồn gốc từ thực vật và sắt hem nguồn gốc
từ động vật (cơ chế hấp thu hiện còn đang trong
quá trình nghiên cứu). Sắt non-hem chủ yếu là
ferric (sắt hoá trị 3) nên khó hoà tan, do đó để hấp
thu được nó phải được hoà tan ở dạ dày khi độ pH
trong khoảng 2-3, HCL khử Fe3+ thành Fe2+. Sau khi
hoà tan, sắt non-hem sẽ gắn với mucin dạ dày và
các thành phần khác trong thức ăn như ascobic,
fructose, histidin Mucin của dạ dày vận chuyển
sắt xuống hỗng tràng và được hấp thu vào tế
bào biểu mô. Trong các tế bào biểu mô ruột, một
phần sắt sẽ được lưu trữ dưới dạng ferritin và các
hình thức lưu trữ khác, một phần sắt sẽ được vận
chuyển qua màng tế bào nhờ Ferroportin[8].
Trong thực phẩm, sắt tồn tại dưới 2 dạng: hem
và không hem. Sắt hem là sắt có giá trị sinh học
cao hơn và được hấp thu qua quá trình chuyển hóa
khác so với sắt không hem. Sắt hem có thể được
hấp thu khác nhau nhưng tỷ lệ hấp thu thay đổi từ
10 – 40% (khoảng 25% trong thịt)[1]. Sắt hem có
thể bị giảm giá trị sinh học hoặc bị chuyển thành
sắt không hem nếu thực phẩm bị nấu trong thời
gian dài ở nhiệt độ cao làm vitamin C bị phân hủy,
ngoài ra canxi cũng ảnh hưởng đến việc hấp thu
sắt hem[16].
2.1.1.1 Các yếu tố hạn chế hấp thu[1],[9],[13]:
o Phytat và tanin hay có trong thực phẩn và đồ
uống, có nhiều trong ngủ cốc, rau củ, đậu đỗ hay trà,
cà phê.
o Người ta cũng lưu ý đến chất khoáng hạn chế
sự hấp thu sắt là canxi và photpho thường cò nhiều
Hình 2.1: Chu trình sắt trong cơ thể (Nguồn hình: Review on iron and its importance [6])
trong sữa. Nếu trong bữa ăn có đồng thời cả canxi và
sắt nhưng tách biệt thời gian ăn cách nhau 2 giờ thì
canxi không gây ức chế hấp thu sắt.
2.1.1.2 Các yếu tố hỗ trợ hấp thu[1],[9],[13]
o Vitamin C có trong khẩu phần ăn làm tăng khả
năng khử ferric thành fertous (là dạng duy nhất có
thể qua được màng nhầy của ruột). Vitamin C còn có
tác dụng đối kháng lại phytat trong khẩu phần.
o Thức ăn động vật như thịt, gia cầm, cá và các loại
thủy sản cũng rất quan trọng trong việc hỗ trợ sự hấp
thu sắt không hem. Thịt, cá và thủy sản có 2 vai trò
đối với dinh dưỡng sắt trong cơ thể, đó là cung cấp
sắt hem (khoảng 50%) và hỗ trợ sự hấp thu sắt (hem
và không hem).
o Các thức ăn lên men như dưa chua, giá muối...
cũng có tác dụng tăng cường hấp thu sắt do làm
giảm pH trong dạ dày, tăng độ hòa tan muối sắt và
còn làm cho phytat được hoạt hóa.
o Các axit hữu cơ cũng đóng vai trò hỗ trợ sự hấp
thu chất sắt. Trong các bữa ăn mà thực phẩm cung
cấp sắt chủ yếu từ gạo (như bữa ăn của người Việt
Nam), thêm các axit citric, malic hay tartatric sẽ làm
tăng gấp 2 – 4 lần lượng sắt được hấp thu. Hấp thu
sắt cao từ bia ngô hay bo bo ở vùng sa mạc Sahara là
nhờ có axit lactic trong bữa ăn.
2.2 Dự trữ
Ferritin là nguồn cung cấp sắt để tổng hợp
hemoglobin trong hồng cầu. Khi hồng cầu tăng nhu
cầu tổng hợp hemoglobin, lượng sắt trong nội bào cũng
như lượng sắt trong phân tử ferritin giảm đi. Ferritin tự
do trong huyết thanh phản ánh nồng độ sắt dự trữ.
Nồng độ ferritin tăng cao trong các trường hợp cơ thể
thừa sắt (do nhiều nguyên nhân), ngoài ra còn trong các
trường hợp có khối u (ung thư gan, tụy, phế quản, thần
kinh, u lympho), viêm cấp và mạn tính [15].
Hemosiderin là một phức hợp sắt-protein, không
hoà tan, được tạo ra từ ferritin. Khoảng 10% ferritin
có khuynh hướng hình thành các oligomer ổn định,
khi có thừa trong các cơ quan dự trữ, nó có thể bị cô
đặc lại thành dạng bán tinh thể ở trong các lysosom,
và có thể nhìn thấy được dưới kính hiển vi quang học
sau khi nhuộm ferrocyanure de potassium (Perls).
Sắt dự trữ trong hemosiderin thì khó huy động hơn,
nó chỉ được giải phóng ra rất chậm sau khi đã huy
động hết sắt trong ferritin.
Gan là nơi dự trữ sắt chính của cơ thể, chiếm
khoảng 1/3 tổng lượng sắt dự trữ trong cơ thể. Trong
điều kiện sinh lý, phần lớn sắt nằm trong tế bào gan,
một lượng nhỏ nằm trong tế bào của hệ liên võng
nội mô trong gan.
PHẠM THANH HẢI TỔNG QUAN
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
08
2.3 Bài tiết
Hàng ngày cơ thể mất đi khoảng vài mg sắt qua
bài tiết mồ hôi, nước tiểu, phân và bong các tế bào
ở da, lông, tóc móng. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ,
mỗi chu kỳ kinh sẽ mất khoảng 30mg sắt.
2.4 Điều hòa sắt trong cơ thể
Phần lớn chuyển hoá sắt được thực hiện trong
hệ thống khép kín giữa các khu vực với nhau. Ở
người trưởng thành, 95% nhu cầu sắt để tạo hồng
cầu được tái sử dụng từ quá trình phân huỷ hồng
cầu già, chỉ có 5% lượng sắt được lấy thêm bằng hấp
thu từ thức ăn. Do đó cơ thể chỉ cần 1mg sắt trong 1
ngày là đủ cho nhu cầu tạo hồng cầu bình thường.
3. Nhu cầu sắt trong thai kỳ
Nhu cầu sắt cũng tăng cao ở lứa tuổi thanh thiếu
niên, đặt biệt tăng cao ở giai đoạn phát triển nhanh
chó lúc dậy thì (ở nữ gia tăng nhu cầu sắt do chu kỳ
kinh nguyệt, ở nam gia tăng nhu cầu sắt do tổng hợp
hemoglobin gia tăng)[18]. Trung bình phụ nữ trong độ
tuổi sinh sản lúc hành kinh mất 0,56mg sắt làm tăng
tổng lượng sắt bài tiết ra khỏi cơ thể là 0,8mg/ngày. Điều
này làm nhu cầu sắt trung bình của các phụ nữ trong độ
tuổi sinh sản tăng lên[12]. Ở phụ nữ sau mãn kinh và ở
người nam giới cao tuổi, hoạt động thể lực giảm, sự lão
hóa, khối lượng máu và hemoglobin khối lượng cũng
giảm. Điều này làm giảm các yêu cầu chất sắt hàng ngày
do nhu cầu tạo hồng cầu và hemoglobin giảm. Thiếu
sắt ở người già là do ít có nguồn gốc dinh dưỡng nhưng
thường được gây ra bởi tổn thất sắt bệnh lý.
Hình 2.4: Chu trình khép kín sắt trong cơ thể (Nguồn hình: Pathology of iron metabolism[6])
Nhóm Tổng nhu cầu sắt (mg/ngày)
Sơ sinh < 1 tuổi 10
Trẻ em 5
Nữ
Không có thai 20
Có thai 30
Nam 10
Bảng 3.1. Nhu cầu sắt của cơ thể[9]
Nhu cầu sắt trong thai kỳ
Nhu cầu sắt cần thiết trong quá trình mang
thai được sử dụng nhằm mục tiêu tăng khối lượng
hemoglobin của mẹ do tăng sự vận chuyển oxy trong
quá trình mang thai và là một trong những sự thích
nghi sinh lý quan trọng xảy ra trong thai kỳ[11]. Một
vấn đề lớn đối với sự cân bằng sắt trong thai kỳ là nhu
cầu về sắt phân bố không đồng đều trong suốt thời
gian mang thai. Trong 3 tháng đầu thai kỳ, nhu cầu
sắt tăng không đáng kể và hơn 80 phần trăm tổng
nhu cầu sắt trong thai kỳ đến từ ba tháng cuối.
Khi người phụ nữ mang thai, Sắt được vận chuyển
đến thai nhờ hai cơ chế chính, đó là do sự tăng hấp
thu sắt ở mẹ trong suốt thai kỳ và cơ chế chuyển hóa
nhờ gai nhau. Từ ruột non sắt kết hợp với β-globuline
tạo thành phức hợp transferrin di chuyển trong máu.
Transferin sẽ mang sắt từ tuần hoàn mẹ đến thụ thể
trên bề mặt nhau thai, giải phóng sắt và apotransferin
tự do sẽ quay lại tuần hoàn mẹ. Từ gai nhau, sắt kết
hợp với apotransferin và di chuyển đến thai, lượng sắt
còn lại dự trữ dưới dạng ferritin ở bánh nhau. Khi sắt
trong máu mẹ giảm, số lượng thụ thể ớ bánh nhau
sẽ gia tăng.
Trong giai đoạn sớm của thai kỳ, nồng độ sắt và
nồng độ ferritin huyết thanh có sự gia tăng không
đáng kể do tình trạng vô kinh[14]. Sắt huyết thanh
trong máu mẹ thường giảm từ tuần thứ 12 đến tuần
thứ 25 của thai kỳ do sự tăng sản xuất hồng cầu; tuy
nhiên nhờ cơ chế vận chuyển nêu trên mà lượng sắt
đến thai vẫn được đảm bảo và nồng độ hemoglobin
ở thai vẫn được thiết lập đầy đủ, thậm chí có khi mẹ
có tình trạng thiếu máu thiếu sắt nặng[19].
Trong ba tháng đầu thai kỳ, thai phụ không cần
quá nhiều sắt do giảm lượng sắt mất qua sự hành
kinh và nhu cầu sắt của thai nhi và bánh nhau chưa
quá lớn (yêu cầu cơ bản là 0,8 mg mỗi ngày). Nhu
cầu sắt của sản phụ trở nên cấp thiết ở nữa sau của
thai kỳ, khi mà các cơ quan của thai nhi bắt đầu hình
thành (yêu cầu cơ bản là 4 mg mỗi ngày cho ba tháng
giữa). Đến ba tháng cuối thai kỳ, nhu cầu sắt mỗi ngày
của thai phụ trung bình là 6 - 7 mg (tăng nhiều so
với 1 mg/ngày khi chưa có thai), trong khoảng thời
gian 6 - 8 trước ngày dự sanh nhu cầu sắt hàng ngày
là 10mg. Như vậy, nhu cầu sắt tăng nhanh vào nửa
sau thai kỳ tương ứng với sự tăng nhanh của thể tích
máu, do đó cần phải tăng hấp thu sắt trong chế độ ăn
uống nếu không rất dễ dẫn đến tình trạng thiếu máu
do thiếu sắt[7],[14].
Sắt trong thai kỳ được sử dụng chủ yếu để: tăng
khối lượng hồng cầu ở thai phụ, đáp ứng nhu cầu
sắt của thai nhi, bù đắp lượng sắt mất (mất máu) khi
sanh. Hàm lượng sắt của trẻ sơ sinh phụ thuộc vào
cân nặng lúc sinh của trẻ. Một trẻ nhẹ cân với cân
nặng lúc sinh khoảng 2500g, hàm lượng sắt của trẻ
khoảng 200mg trong khi một trẻ cân nặng 3500g đạt
hàm lượng sắt khoảng 270mg.
Tổng nhu cầu sắt cho một thai kỳ bình thường ước
tính khoảng 1240mg (Bảng 3.2). Một lượng lớn sắt
được tái sử dụng để dự trữ, khi khối lượng hồng cầu
của người mẹ sau sinh giảm về mức trước khi có thai.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng càng về
cuối thai kỳ, sự hấp thu sắt càng tăng. Sự gia tăng này
thấy rõ nhất là sau 20 tuần tuổi thai. Như vậy, sự tăng
hấp thu sắt có phải do dự trữ sắt cạn kiệt hay do tăng
nhu cầu ở cuối thai kỳ? Liệu những phụ nữ trước khi
mang thai có dự trữ sắt đầy đủ có biểu hiện tăng hấp
thu sắt như những phụ nữ có dự trữ sắt ít hoặc cạn kiệt
hay không? Câu trả lời là không. Một nghiên cứu tại
Anh cho thấy có sự liên quan nghịch đảo giữa ferritin
huyết thanh và sự hấp thu sắt. Một nghiên cứu ở Peru
cho kết quả có sự liên quan nghịch đảo giữa ferritin
huyết thanh và hấp thu sắt. Những phụ nữ có ferritin
huyết thanh <30µg/l có mức hấp thu sắt trung bình
là 12.2%, trong khi những người có ferritin >30µg/l thì
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
09
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(02-PHỤ BẢN), 06-11, 2015
Nhu cầu Sắt (mg)
Mất sắt chủ động (0,8mg x 290 ngày) 230
Tăng khối lượng hồng cầu 450
Thai nhi (3500g) 270
Bánh nhau, dây rốn 90
Máu mất lúc sinh 200
Tổng nhu cầu 1240
Giảm hồng cầu sau sinh - 450
Vô kinh - 160
Tổng cộng 630
Bảng 3.2. Nhu cầu sắt trong thai kỳ[17]
Thực phẩm Fe (mg%) Thực phẩm Fe (mg%)
Gạo tẻ 1,3 Bưởi 0,5
Ngô vàng khô 2,3 Cam 0,4
Mì sợi 1,5 Chanh 0,6
Khoai lang 1,0 Chuối tiêu 0,6
Khoai tây 1,2 Thịt bò 2,7
Củ sắn 1,2 Gan bò 9,0
Đậu tương 11,0 Thịt ba chỉ 1,5
Đậu phộng hạt 2,2 Gan heo 12,0
Mè 10,0 Thịt gà 1,5
Cà chua 1,4 Cá chép 0,9
Cà rốt 0,8 Trứng gà 2,7
Rau muống 1,4 Trứng vịt 3,2
Su hào 0,6 Sữa mẹ 0,1
Bắp cải 1,1 Sữa bò 0,1
Bảng 4.1. Hàm lượng sắt trong một số thực phẩm
mức hấp thu trung bình là 6.8% và người có ferritin cao
nhất 61µg/l có độ hấp thu 1.5%. Những kết quả trên
cho thấy một cách chắc chắn, tình trạng sắt thấp là lý
do chính dẫn đến sự gia tăng hấp thu sắt.
4. Các nguồn cung cấp sắt từ thực phẩm
Sự ăn uống thay đổi và cân đối sắt cung cấp lượng
chất sắt được hấp thụ thích đáng. Các thức ăn dưới đây
đặc biệt là nguồn chất sắt tốt:
5. Các xét nghiệm đánh giá dự trữ sắt
trong cơ thể
Tiêu chuẩn vàng để đánh giá lượng sắt trong cơ
thể là sinh thiết tủy xương, tuy nhiên đây là xét nghiệm
khá xâm lấn và không được áp dụng rộng rãi. Chính vì
thế hiện tại các trung tâm lâm sàng thường đánh giá
tình trạng sắt của cơ thể thông qua các trị số sinh hóa
ít can thiệp hơn.
5.1 Sắt huyết thanh (Serum Iron: SI)
Định lượng sắt huyết thanh là một trong các
phương pháp để đánh giá sự đáp ứng sắt cho quá
trình tổng hợp Hb. Trường hợp khi đủ sắt trong huyết
thanh trị số bình thường là 115 ± 40 mcg/dl. Ở người
phụ nữ trưởng thành, nếu SI < 60 được xem là thiếu
sắt; trường hợp SI < 40 đồng nghĩa với nguyên hồng
cầu trong tủy xương không đủ đáp ứng với cơ thể.
5.2 Khả năng gắn sắt toàn phần (Total Iron
Binding Capacity: TIBC)
Kết quả từ các xét nghiệm lâm sàng cho thấy khả
năng gắt kết sắt toàn phần đại diện cho tổng lượng sắt
gắn nội sinh trong huyết tương và sắt bổ sung được
gắn đặc hiệu. khi cơ thể thiếu sắt thì TIBC tăng lên. Ở
ngưỡng TIBC > 400 mcg/dl thì cơ thể bị coi là thiếu sắt.
5.3 Bão hòa Transferine (Transferrin Saturation: TfS)
Một protein chuyên biệt – Transferrin – có nhiệm
vụ vận chuyển sắt qua huyết tương. Khi sắt trong tủy
xương không cung cấp đủ để tổng hợp Hb, người ta
thường định lượng mức bão hòa transferrin song song
với định lượng sắt huyết thanh.
TfS được tính gián tiếp theo công thức:
Khi mức bão hòa TfS tăng lên có nghĩa là sắt huyết
thanh thấp hoặc thiếu nên không đủ để gắn với
protein gắn sắt là transferrin. Trong trạng thái sinh lý
bình thường, chỉ có 33% các vị trí của transferrin được
bão hòa bởi sắt, khi TfS dưới 16%nghĩa là cơ thể thiếu
chất sắt.
PHẠM THANH HẢI TỔNG QUAN
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
10
5.4 Ferritin huyết thanh (Serum Ferritin: SF)
Đây là xét nghiệm đặc hiệu nhất trong việc xác
định tình trạng thiếu sắt trong cơ thể. Bình thường
cứ 1mcg ferritin huyết thanh tương đương với
10mg sắt dự trữ, khi ferritin huyết thanh thấp phản
ánh tình trạng dự trữ sắt đã bị cạn kiệt. Ngưỡng
được sử dụng chung cho cộng đồng hiện nay là
mức độ cạn kiệt sắt được xác định khi ferritin <
12 mcg/l, tuy nhiên tình trạng ferritin huyết thanh
giảm từ 12 – 20 mcg/l đã được coi là nguy cơ đáng
kể thiếu sắt và dưới 60 mcg/l đã được xem là thấp.
Trong thực hành lâm sàng, việc sử dụng một giá
trị cutoff cao hơn cho ferritin được khuyến cáo khi
sàng lọc thiếu sắt. Cụ thể, một điểm cắt 40 ug /
L sẽ làm tăng độ nhạy chẩn đoán cho bệnh nhân
có tình trạng không có bị biến chứng bởi nhiễm
trùng hoặc viêm nhiễm.
6. Thiếu sắt trong thai kỳ
Nguyên nhân của tình trạng thiếu sắt trong thai
kỳ do gia tăng nhu cầu sắt trong cơ thể.
Tần suất thiếu máu thiếu sắt ở những nước
công nghiệp giảm đáng kể trong những thập kỷ
gần đây, nhưng tần suất thiếu máu thiếu sắt trên
toàn thế giới biến chuyển rất ít. Năm 1985, các
nghiên cứu cho thấy 4 - 29% phụ nữ mang thai tại
châu Âu có tình trạng thiếu máu, đến năm 1988
các số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ thiếu máu phổ
biến tổng thể trong thai phụ ở châu Âu và Bắc Mỹ
là 17%. Tại Hà Lan, tỷ lệ ước tính của bệnh thiếu
máu trong phạm vi mang thai từ 6 đến 28%. Singh
nghiên cứu tất cả các thai phụ đến khám thai tại
bệnh viện Đại học quốc gia Singapore năm 1993
nhận thấy tỷ lệ thiếu máu là 15,3%, nguyên nhân
thiếu máu thường gặp nhất là do thiếu sắt (81,3%).
Thiếu máu do thiếu sắt là vấn đề dinh dưỡng quan
trọng tại Hàn Quốc, Yu báo cáo cho thấy 18% thai
phụ tại Hàn Quốc có thiếu máu thiếu sắt. Tại Pháp
thiếu máu là tình trạng thường gặp trong quá
trình mang thai, nó xảy ra 10% đến 30% thai phụ ở
miền Trung nước Pháp và thường xuyên hơn trong
dân số nhập cư trong đó thiếu sắt là nguyên nhân
chủ yếu.
Tại các nước kém và đang phát triển đặc biệt là
các nước Châu Á – Châu Phi là nơi mà tình trạng
thiếu máu nhất là thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ
vẫn là một vấn đề sức khỏe ưu tiên cần can thiệp.
Tỷ lệ tỷ lệ thiếu máu (hemoglobin < 110g / L) trong
phụ nữ mang thai tại Nam Á dao động giữa 40% và
50%, tiếp tục là một trong số cao nhất thế giới. Tỷ
lệ phổ biến của thiếu máu nặng là cao nhất ở vùng
cận Sahara Châu Phi tiếp theo là Nam Á. Thiếu sắt
có thể là nguyên nhân hàng đầu gây thiếu máu ở
Nam Á nơi mà chế độ ăn chủ yếu là ngũ cốc, ít sản
phẩm động vật, và trong thực phẩm có hàm lượng
cao các chất ức chế sự hấp thu sắt như phytate,
chất xơ, và tannin. Ngoài sắt, thiếu hụt các vitamin
như acid folic, vitamin A, vitamin C, riboflavin,
vitamin E cũng có thể ức chế erythropoiesis.
Hậu quả thiếu sắt trong thai kỳ
- Năm 1991, trong nghiên cứu bệnh chứng thực
hiện trên 1700 thai phụ, Klebanoff nhận thấy thiếu
máu thiếu sắt từ tuần 13 đến tuần 26 làm gia tăng
nguy cơ sanh non tăng gấp 2 lần, trong khi thiếu
máu trong suốt 3 tháng cuối thai kỳ không làm
tăng nguy cơ sinh non.
- Trong một nghiên cứu với hơn 800 phụ nữ
mang thai, phân biệt giữa thiếu máu do thiếu sắt
(ferritin huyết thanh <12 mg/l), và thiếu máu do
nguyên nhân khác. Sau khi hiệu chỉnh cho các biến
nhiễu, thiếu máu thiếu sắt có liên quan với sự gia
tăng nguy cơ sinh con nhẹ cân và sanh non. Tuy
nhiên, thiếu máu, do các nguyên nhân khác, không
liên quan với kết cục thai kỳ nghèo nàn. Điều này
cho thấy rất quan trọng để xác định nguyên nhân
gây thiếu máu ở phụ nữ mang thai khi đánh giá
những tác động của thiếu máu trên kết cục thai kỳ.
- Một nghiên cứu ở California cho thấy nguy
cơ sinh non tăng gấp 2 lần ở những phụ nữ thiếu
máu trong 3 tháng giữa thai kỳ, nhưng không tăng
nguy cơ nếu thiếu máu xảy ra ở 3 tháng cuối.
- Bệnh thiếu máu do thiếu sắt gây ra tăng mệt
mỏi, giảm hiệu suất làm việc, căng thẳng tim mạch,
giảm sức đề kháng ở phụ nữ mang thai. Mang thai,
thiếu sắt làm tăng nguy cơ nhiễm trùng đường
tiểu và viêm đài bể thận. Một trong những lý do
cho điều này là thiếu máu để bảo vệ cơ thể chống
lại các tác nhân gây bệnh.
7. Dự phòng thiếu sắt cho cơ thể
7.1 Đa dạng hóa bữa ăn
- Tăng cường các loại thực phẩm cung cấp sắt có
giá trị sinh học cao (sắt hem có trong thức ăn động vật).
- Tăng cường các loại thực phẩm hỗ trợ việc hấp
thu sắt.
- Hạn chế tác dụng ức chế hấp thu sắt của một số
chất có trong thực phẩm như phytat (làm đậu hũ hay
lên men. . .).
7.2 Bổ sung sắt cho các đối tượng có nguy cơ
thiếu sắt cao
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
11
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(02-PHỤ BẢN), 06-11, 2015
- Đây là giải pháp tình thế, cấp bách nhằm khắc
phục nhanh tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng đang
lưu hành và dự phòng ở những đối tượng có nguy
cơ thiếu máu cao. Tuy nhiên, muốn thực hiện thành
công giải pháp này, cần có một hệ thống phân bố
và theo dõi tốt, bên canh đó còn đòi hỏi một cơ chế
quản lý, điều hành và chi phí hợp lý.
7.3 Tăng cường sắt vào thực phẩm
- Việc tăng cường một số vi chất dinh dưỡng nói
chung và sắt nói riêng vào một số loại thực phẩm
thiết yếu được tiêu thụ thường xuyên và rộng rãi đã
được chứng minh là giải pháp có hiệu quả và có khả
năng duy trì cao để thanh toán tình trạng thiếu vi
chất dinh dưỡng.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Thị Thúy Hòa. (2003). Hiệu quả bổ sung sắt/acid
folic đối với tình trạng thiếu máu thiếu sắt của phụ nữ có
thai ở một số vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Viện vệ sinh
dịch tễ Trung Ương, Hà Nội.
2. Phạm Thanh Hải. (2011). Hiệu quả điều trị thiếu máu
thiếu sắt trong thai kỳ (đề cương nghiên cứu sinh). Đại học
Y dược, Tp. HCM.
3. Võ Thị Thu Nguyệt. (2009). Tình trạng thiếu máu thiếu
sắt trong 3 tháng giữa thai kỳ và các yếu tố liên quan tại
bệnh viện Đại học Y dược. Đại học Y dược, Hồ Chí Minh.
4. Thái Quý, Nguyễn Hà Thanh. (2006). Chuyển hoá sắt và
thiếu máu thiếu sắt. In Bài giảng huyết học truyền máu (pp.
208 - 213). nhà xuất bản Y học, Hà nội.
5. Abbaspour N, Hurrell R, Kelishadi R (2014), “Review on
iron and its importance for human health”. J Res Med Sci,
19, 164-174.
6. Andrews NC. (2008). Pathology of iron metabolism. In 5
(Ed.), Hoffman: Hematology: Basic Principles and Practice.
Churchill Livingstone, Philadelphia.
7. Bothwell TH (2000), “Iron requirements in pregnancy
and strategies to meet them”. American Journal of Clinical
Nutrition, 72(1 Suppl), 257S-264S.
8. Donovan A (2005), “The iron exporter ferroportin/Slc40a1
is essential for iron homeostasis”. Cell Metab, 1(191).
9. Ernest B. (2010). Disorder of iron metabolism. In 8 (Ed.),
William Hematology (pp. 511 - 537). The McGraw-Hill Companies
10. Fairbanks V.F. (1994), “Iron in medicine and nutrition, “.
In Mordern Nutrition in Health and Disease (Shils M.E., Olson
J.A., Shike M.,eds.), Lea and Febiger, Philadelphia 1, 185-211.
11. Hallberg L. (1992). Iron balance in pregnancy and
lactation. In Nutritional anemias (Vol. Nestlé Nutrition
Workshop Series, vol 30, pp. 13-25). Raven Press, Ltd, New York.
12. Hallberg L, Rossander-Hulthénm L (1991), “Iron
requirements in menstruating women”. Am. J. Clin. Nutr,
54, 1047-1058.
13. Institute of Medicine. (2001). Iron. In Dietary
Reference Intakes for Vitamin A, Vitamin K, Arsenic, Boron,
Chromium, Copper, Iodine, iron, Manganese, Molybdenum,
Nickel, Silicon, Vanadium, and Zinc (pp. 290-393). National
Academy Press, Washington, DC.
14. Isah HS, Fleming AF, Ujah, Ekwempu CC (1995),
“Anemia and iron status of pregnant and non-pregnant
women in the guinea savanna of Nigeria”. Ann Trop Med
Parasitol, 79(5), 485 - 493.
17. Manfred W (1998), “Iron metabolism and its
disorders”. Clinical Laboratory Diagnostics, 268-283.
16. Martinez-Torres C., Leeb I., Taylor P., Ramirez J., DelValle
camacho M., Layrisse M. (1986), “Hem, ferritin and vegatable
iron absorption in human from meals denatured of hem iron
during the cooking of beef”. J Nutr, 116, 1720-1725.
17. Milman N (2006), “Iron and pregnancy—a delicate
balance”. Ann Hematol,, 85, 559-565.
18. Rossander-Hulthén L, Hallberg L. (1996). Prevalence
of iron deficiency in adolescents. In Iron nutrition in health
and diseas (pp. 149-156). John Libby& Co, London.
19. Russell M, Dunn-Albanese L. (2005). Anemia. In 1
(Ed.), Medical complication in pregnancy (pp. 95 - 114).
McGRAW-HILL
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tam_quan_trong_cua_sat_doi_voi_thai_ky.pdf