Một là, hoàn thiện pháp luật về hoạt
động giám sát của Quốc hội. Việc hoàn thiện
pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc
hội đòi hỏi:
Cần quy định chế tài xử lý đối với các
cơ quan, đơn vị, cá nhân trong việc báo cáo,
cung cấp hồ sơ, tài liệu không đúng, không
đầy đủ, kịp thời về các nội dung giám sát liên
quan đến hoạt động giải quyết tố cáo cho cơ
quan giám sát; chế tài xử lý đối với cá nhân
không thực hiện các kiến nghị của chủ thể
giám sát. Đây thực chất là việc xây dựng cơ
chế bảo đảm thực hiện quyền giám sát của
Quốc hội nói chung để hoạt động giám sát
tăng tính hiệu lực, hiệu quả.
Cần quy định cụ thể về yêu cầu đối
với kết luận giám sát giải quyết tố cáo, trách
nhiệm của chủ thể giám sát về kết luận giám
sát; quy định cụ thể về thẩm quyền và trách
nhiệm của các Đoàn đại biểu Quốc hội trong
việc giám sát giải quyết tố cáo, kiến nghị của
công dân; quy định rõ cơ chế giám sát giải
quyết tố cáo đối với những đơn tố cáo ngoài
địa phương gửi đến.
Cần phân định rõ thẩm quyền của các
chủ thể giám sát công tác giải quyết tố cáo
giữa các cơ quan của Quốc hội về nội dung
và hình thức giám sát: giám sát báo cáo công
tác giải quyết tố cáo; giám sát thông qua hoạt
động chất vấn và trả lời chất vấn; giám sát
việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến
trong kỳ họp Quốc hội, giám sát chuyên đề
về giải quyết tố cáo.
Hai là, đổi mới nội dung, phương thức,
trình tự thủ tục giám sát giải quyết tố cáo của
các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc
UBTVQH, các Đoàn đại biểu Quốc hội và
các đại biểu Quốc hội về giám sát giải quyết
tố cáo. Theo đó, hoạt động giám sát giải
quyết tố cáo cần phải được thực hiện thường
xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm; đối
tượng, nội dung giám sát tập trung vào trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cơ quan quản lý nhà nước về tố cáo
thông qua phương thức chất vấn, giải trình
trước Quốc hội, UBTVQH.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 370 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng cường hoạt động giám sát giải quyết tố cáo của quốc hội góp phần bảo đảm quyền tố cáo của công dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: 
Quốc hội là chủ thể thực hiện giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt 
động của bộ máy nhà nước nói chung và với công tác giải quyết tố 
cáo hành chính nói riêng. Việc giám sát bảo đảm cho các quy định 
của Hiến pháp, luật và các nghị quyết của Quốc hội về giải quyết 
tố cáo được thực hiện đúng đắn; đồng thời góp phần bảo đảm thực 
hiện quyền tố cáo của công dân. 
Đặng Thị Kim Ngân*
* ThS. Phó Vụ trưởng, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Abstract 
The National Assembly of Vietnam has authority of the supreme 
supervision of all activities of the state apparatus in general and the 
settlement of administrative denunciations in particular. It is required 
that the supreme supervision is to ensure the Constitution, laws and of 
the National Assembly’s resolutions on settlement of denunciations 
are properly enforced; at the same time, it is to contribute to the 
realization of citizens' right of denounce.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: giám sát, giải quyết tố cáo, 
Quốc hội, bảo đảm quyền tố cáo 
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 14/05/2018
Biên tập : 07/06/2018
Duyệt bài : 14/06/2018
Article Infomation:
Keywords: supervision; settlement of 
administrative denunciations; National 
Assembly; assurance of denounce 
rightArticle History:
Received : 14 May 2018
Edited : 07 Jun 2018
Approved : 14 Jun 2018
TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT GIẢI QUYẾT TỐ CÁO 
CỦA QUỐC HỘI GÓP PHẦN BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN 
1. Khái quát về hoạt động giám sát giải 
quyết tố cáo
Quyền tố cáo của công dân được ghi 
nhận lần đầu tiên tại Hiến pháp năm 1959. 
Các Hiến pháp năm 1980, 1992, 2013 tiếp 
tục kế thừa và ghi nhận quyền tố cáo của công 
dân theo hướng ngày càng mở rộng, tạo điều 
kiện tốt nhất cho công dân thực hiện quyền 
này, trong đó xác định trách nhiệm của cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo 
đảm thực hiện quyền tố cáo của công dân.
Giám sát công tác giải quyết tố cáo 
được hiểu là việc các cơ quan, tổ chức, cá 
nhân có thẩm quyền theo dõi, xem xét, đánh 
giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân 
có trách nhiệm trong ban hành văn bản quy 
phạm pháp luật, quản lý nhà nước về tố cáo; 
trong tiếp công dân, xử lý đơn thư tố cáo; 
trong kiểm tra, xác minh, kết luận về nội 
dung tố cáo và quyết định giải quyết, xử lý 
của người giải quyết tố cáo theo thẩm quyền. 
Giám sát là điều kiện, tiền đề cần thiết 
cho việc củng cố kỷ luật, kỷ cương, pháp chế 
và trật tự xã hội. Nếu như hoạt động kiểm 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 13(365) T6/2018
tra, thanh tra có mục đích phát hiện và xử 
lý vi phạm thì hoạt động giám sát là đưa 
ra các khuyến cáo, cảnh báo, góp phần cải 
thiện trạng thái và hoạt động của cơ quan 
nhà nước. Hoạt động giám sát trong bảo đảm 
quyền tố cáo của công dân cũng nhằm mục 
đích khuyến cáo, cảnh báo đối với các cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền để quyền tố 
cáo của công dân được thực thi trên thực tế, 
đóng vai trò là một phương thức kiểm soát 
việc thực hiện quyền hành pháp trong lĩnh 
vực giải quyết tố cáo, góp phần thúc đẩy việc 
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, 
tổ chức, cá nhân; đồng thời hoạt động này 
cũng góp phần hoàn thiện pháp luật và dân 
chủ trong đời sống xã hội1.
Ở Việt Nam, hoạt động giám sát việc 
thực hiện pháp luật về tố cáo, giám sát việc 
bảo đảm thực thi quyền tố cáo được thực hiện 
bằng ba phương thức chủ yếu là giám sát 
chính trị, giám sát nhà nước và giám sát của 
xã hội. Giám sát chính trị là hoạt động kiểm 
tra, giám sát của Đảng Cộng sản Việt Nam 
- lực lượng lãnh đạo hoạt động của bộ máy 
nhà nước. Đảng đề ra đường lối, chủ trương 
về bảo đảm quyền con người nói chung và 
bảo đảm quyền tố cáo nói riêng để Nhà nước 
thể chế hóa trong hệ thống pháp luật và tổ 
chức thực hiện trên thực tế, đồng thời Đảng 
còn kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện 
các đường lối, chủ trương đó. Giám sát nhà 
nước là hoạt động giám sát được thực hiện 
bởi các cơ quan nhà nước, mang tính chất 
thực thi quyền lực nhà nước. Hoạt động giám 
sát nhà nước luôn được quy định chặt chẽ bởi 
luật pháp và thường ở tầm quy định cao nhất 
là Hiến pháp. Chủ thể có chức năng giám 
sát nhà nước về bảo đảm quyền tố cáo rất 
đa dạng, có thể là cơ quan lập pháp, hành 
pháp và tư pháp, trong đó đặc biệt quan trọng 
là giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước 
và giám sát của các cơ quan hành chính cấp 
1 Trần Văn Long, Nâng cao hiệu quả công tác giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở nước ta, 
vn/thanhtra/tin-tuc/1158/52950/nang-cao-hieu-qua-cong-tac-giam-sat-giai-quyet-khieu-nai--to-cao-hanh-chinh-o-
nuoc-ta--.aspx.
2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015, Luật Mặt trận Tổ quốc năm 2015, Luật Tố cáo năm 2011.
trên thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra 
trách nhiệm công vụ của cơ quan hành chính 
cấp dưới. Trong hệ thống giám sát nhà nước, 
quyền giám sát tối cao của Quốc hội đóng 
vai trò quan trọng nhất. Giám sát của xã hội 
đối với việc bảo đảm quyền tố cáo, là hoạt 
động giám sát không mang tính chất thực thi 
quyền lực nhà nước, đây là một phần trong 
cơ chế xã hội bảo đảm thực hiện quyền con 
người, quyền công dân.
Hiện nay, pháp luật quy định trách 
nhiệm giám sát giải quyết tố cáo để bảo đảm 
thực thi quyền tố cáo của công dân thuộc về 
các chủ thể sau: Ủy ban Thường vụ Quốc hội 
(UBTVQH), Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban 
của Quốc hội, đại biểu Quốc hội; Thường 
trực Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ban 
của HĐND, đại biểu HĐND; Mặt trận Tổ 
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của 
Mặt trận2.
Công tác giám sát giải quyết tố cáo có 
mục đích chính là đánh giá hiệu lực, hiệu quả 
của việc thực hiện pháp luật về giải quyết tố 
cáo, từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm 
khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá 
trình tổ chức, tiến hành thực hiện nâng cao 
hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo. 
Chính vì vậy, tăng cường vai trò, trách nhiệm 
của các cơ quan có chức năng giám sát 
trong công tác giải quyết tố cáo hành chính, 
đặc biệt là Quốc hội luôn là một yêu cầu 
 khách quan. 
Chức năng giám sát của Quốc hội 
được quy định tại Hiến pháp năm 2013 và 
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và 
HĐND năm 2015. Theo đó, Quốc hội là chủ 
thể thực hiện giám sát tối cao đối với toàn bộ 
hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung 
và với công tác giải quyết tố cáo hành chính 
nói riêng. Việc giám sát này nhằm bảo đảm 
cho các quy định của Hiến pháp, luật và các 
nghị quyết của Quốc hội về giải quyết tố 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 13(365) T6/2018
cáo được thực hiện đúng đắn; bảo đảm trách 
nhiệm giải trình của Chính phủ trong công 
tác giải quyết tố cáo. Ngoài hoạt động giám 
sát tối cao của Quốc hội, việc giám sát của 
Quốc hội còn được thực hiện bởi UBTVQH, 
Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, 
các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu 
Quốc hội.
2. Thực trạng giám sát giải quyết tố cáo 
của Quốc hội
Trong thời gian qua, hoạt động giám 
sát công tác giải quyết tố cáo của Quốc hội, 
UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn 
đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội (giám 
sát của Quốc hội) đã đạt được những kết quả 
nhất định, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về việc xem xét các báo cáo 
giải quyết tố cáo: Quốc hội đã xem xét các 
báo cáo của Chính phủ về việc giải quyết tố 
cáo của công dân; báo cáo công tác và báo 
cáo kết quả giám sát về công tác giải quyết 
tố cáo của các cơ quan của Quốc hội và một 
số báo cáo của các cơ quan có liên quan khác 
trình Quốc hội. Các cơ quan của Quốc hội 
đã tiến hành thẩm tra; UBTVQH xem xét, 
cho ý kiến tại ít nhất một phiên họp trong 
năm. Quốc hội thảo luận, xem xét các báo 
cáo về công tác giải quyết tố cáo một cách 
nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn, bảo đảm 
đúng quy định; đưa ra những nhận định đúng 
đắn, kịp thời, sát thực tế. Đồng thời, các đại 
biểu Quốc hội và Uỷ ban Pháp luật đã đề 
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu 
quả công tác giải quyết tố cáo như: rà soát 
những tồn tại, bất cập của chính sách pháp 
luật, nhất là pháp luật về đất đai, tài nguyên, 
môi trường, quản lý tài sản của Nhà nước 
và một số lĩnh vực khác có phát sinh nhiều 
khiếu nại, tố cáo; bảo đảm hài hòa lợi ích của 
người dân, doanh nghiệp và Nhà nước khi 
thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội 
nhằm góp phần hạn chế nguyên nhân phát 
sinh tố cáo 
3 Báo cáo 202/BC-UBTVQH14, ngày 22/10/2017 của UBTVQH về kết quả tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát 
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội (từ 16/8/2016 đến 15/8/2017).
Thứ hai, hoạt động giám sát chuyên 
đề về giải quyết tố cáo: Quốc hội đã thành 
lập nhiều Đoàn giám sát việc giải quyết tố 
cáo của công dân thuộc thẩm quyền của cơ 
quan hành chính nhà nước trong phạm vi cả 
nước. Theo đó, các đoàn được thành lập trực 
tiếp giám sát tại một số tỉnh, thành phố trực 
thuộc Trung ương, cơ quan tiếp công dân của 
Trung ương tại một số tỉnh, làm việc tại một 
số Bộ về việc tiếp nhận đơn thư tố cáo, giải 
quyết tố cáo.
Trong năm 2017, UBTVQH đã ban 
hành Nghị quyết 336/NQ-UBTVQH14 về 
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo 
của công dân gửi đến Quốc hội năm 2017 
trong đó giao Trưởng ban Dân nguyện thuộc 
UBTVQH làm Trưởng đoàn giám sát. Đoàn 
giám sát đã làm việc với một số bộ, ngành 
và 08 địa phương về việc giải quyết đơn thư 
khiếu nại, tố cáo do Quốc hội chuyển đến3.
Sau giám sát, Quốc hội đã ban hành 
những nghị quyết liên quan về các vấn đề 
đã giám sát, giúp Chính phủ có những điều 
chỉnh phù hợp trong công tác chỉ đạo, điều 
hành, khắc phục những hạn chế, bất cập, 
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà 
nước về công tác giải quyết tố cáo.
Thứ ba, về hoạt động chất vấn công 
tác giải quyết tố cáo: Quốc hội đã dành 
thời gian trong các kỳ họp để tiến hành chất 
vấn và trả lời chất vấn về các vấn đề kinh 
tế - xã hội trong đó có công tác giải quyết tố 
cáo. Nội dung chất vấn tập trung vào nhóm 
những vấn đề bức xúc được đại biểu và cử tri 
quan tâm phản ánh qua các đơn thư tố cáo. 
Việc chất vấn được tiến hành công khai, dân 
chủ, thẳng thắn. Sau chất vấn Quốc hội ban 
hành nghị quyết và yêu cầu báo cáo việc thực 
hiện các nội dung mà người trả lời chất vấn 
đã cam kết tại các kỳ họp, bước đầu đã tạo 
cơ chế ràng buộc trách nhiệm của người trả 
lời chất vấn.
Thứ tư, việc các cơ quan của Quốc hội, 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 13(365) T6/2018
cơ quan của UBTVQH, các Đoàn đại biểu 
Quốc hội và đại biểu Quốc hội tiếp nhận 
đơn, thư tố cáo. Đây là hoạt động diễn ra 
thường xuyên hàng ngày của Quốc hội. Sau 
khi nhận đơn thư của công dân, các cơ quan 
của Quốc hội tiến hành phân loại và chuyển 
tới các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trong năm 2017, Quốc hội nhận được 
tổng số 42.855 đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến 
nghị, phản ánh của công dân. Sau khi nghiên 
cứu, xem xét, đã chuyển 7.121 đơn đủ điều 
kiện xử lý tới các cơ quan có thẩm quyền giải 
quyết, đạt tỷ lệ 48,01% (tăng so với cùng kỳ 
1.661 văn bản chuyển), đã nhận được 3.591 
văn bản trả lời, đạt tỷ lệ 50,43% (tăng so với 
cùng kỳ năm trước 100 văn bản). Trong đó 
đơn tố cáo chủ yếu là đối với cán bộ, công 
chức vi phạm pháp luật trong quản lý, sử 
dụng đất đai, quản lý tài chính, ngân sách và 
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo4. 
3. Những hạn chế trong việc giám sát giải 
quyết tố cáo của Quốc hội
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, 
công tác giám sát giải quyết tố cáo của Quốc 
hội vẫn còn những hạn chế nhất định, cụ thể:
Thứ nhất, hoạt động giám sát việc giải 
quyết tố cáo của Quốc hội còn chưa thường 
xuyên, chủ yếu là giám sát qua báo cáo, ít 
giám sát vụ việc cụ thể nên kiến nghị giám 
sát còn chung chung, chưa xác định rõ trách 
nhiệm của các chủ thể liên quan sau giám 
sát. Việc xem xét các báo cáo về công tác 
giải quyết tố cáo của Quốc hội tại kỳ họp 
chất lượng chưa cao. Các đại biểu Quốc hội 
mới chỉ tập trung thảo luận, đánh giá về tồn 
tại, hạn chế trong hoạt động giải quyết tố cáo 
mà chưa đi sâu làm rõ việc thực hiện chức 
năng, nhiệm vụ, quyền hạn về giải quyết tố 
cáo của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền 
theo quy định pháp luật. 
Thứ hai, hoạt động giám sát chuyên đề 
về công tác giải quyết tố cáo chưa thể hiện 
4 Báo cáo 202/BC-UBTVQH14, ngày 22/10/2017, (tlđd). 
5 Báo cáo số 1065/BC-UBTVQH13 ngày 20/3/2016 của UBTVQH về tổng kết hoạt động của UBTVQH nhiệm kỳ Quốc 
hội khóa XIII (2011- 2016).
rõ trách nhiệm, nội dung, thời gian yêu cầu 
các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám 
sát giải quyết, xử lý, khắc phục dứt điểm 
những hạn chế, bất cập đã phát hiện trong 
quá trình giám sát để có điều kiện theo dõi, 
đôn đốc, giám sát việc thực hiện. Nhiều đoàn 
giám sát chuyên đề về giải quyết tố cáo chưa 
có những kiến nghị cụ thể về ban hành hoặc 
sửa đổi chính sách về giải quyết tố cáo, bảo 
vệ người tố cáo hoặc báo cáo Quốc hội việc 
xử lý cá nhân, tập thể có sai phạm trong quá 
trình thực hiện quản lý nhà nước về công tác 
giải quyết tố cáo và thực hiện hoạt động giải 
quyết tố cáo.
Thứ ba, hoạt động chất vấn liên quan 
đến giải quyết tố cáo chưa có chế tài bắt 
buộc thực hiện sau khi chất vấn đối với các 
cá nhân có trách nhiệm trong việc quản lý, 
giải quyết tố cáo. Đồng thời, việc theo dõi, 
giám sát các vấn đề đã chất vấn chưa được 
thực hiện triệt để.
Thứ tư, việc gắn kết giữa hoạt động 
tiếp công dân, xử lý đơn thư với giám sát giải 
quyết tố cáo còn chưa chặt chẽ, chưa thực sự 
quan tâm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện 
kết luận, kiến nghị sau hoạt động giám sát, 
chưa quyết liệt trong việc yêu cầu cơ quan có 
thẩm quyền xem xét lại và giám sát cho đến 
khi giải quyết dứt điểm vụ việc nên hiệu lực, 
hiệu quả giám sát còn hạn chế5.
 Những hạn chế trên xuất phát từ những 
nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, các đại biểu Quốc hội thiếu 
căn cứ để đánh giá các báo cáo công tác giải 
quyết tố cáo, năng lực, trách nhiệm thực hiện 
nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền giải 
quyết tố cáo do đến nay chưa có quy định về 
các tiêu chí bắt buộc trong báo cáo giải quyết 
tố cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối 
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Hai là, việc chất vấn về những vấn đề 
liên quan đến tố cáo và giải quyết tố cáo chưa 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 13(365) T6/2018
thực sự sôi nổi; trách nhiệm giải trình, cam 
kết thực hiện lời hứa của người trả lời chất 
vấn chưa được xác định rõ.
Ba là, hiện chưa có văn bản pháp luật 
quy định ràng buộc về trách nhiệm hay chế 
tài xử lý cụ thể đối với người có thẩm quyền 
giải quyết tố cáo khi không thực hiện hoặc 
thực hiện chậm, thực hiện không đầy đủ các 
kết luận, kiến nghị giám sát về tố cáo của cơ 
quan tiến hành giám sát nên hiệu quả giám 
sát chưa cao.
Bốn là, các Đoàn đại biểu Quốc hội chủ 
yếu do đại biểu chuyên trách tại địa phương 
đảm nhiệm nên ít có điều kiện đi sâu nghiên 
cứu, giám sát giải quyết tố cáo. Ngoài ra, một 
số đại biểu Quốc hội lại là người đứng đầu 
cơ quan ở địa phương, là cơ quan bị giám sát 
nên đôi khi cũng ảnh hưởng đến tính độc lập, 
khách quan trong việc xác định các nội dung 
giám sát của Đoàn. Bên cạnh đó, năng lực, 
trình độ của cán bộ giúp việc tại các cơ quan 
của Quốc hội, Văn phòng Đoàn đại biểu 
Quốc hội vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu 
cầu thực tiễn của công tác tiếp công dân và 
việc nghiên cứu, tham mưu xử lý đơn tố cáo.
4. Kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động 
giám sát giải quyết tố cáo của Quốc hội
 Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu 
quả hoạt động giám sát công tác giải quyết 
tố cáo của Quốc hội, xin kiến nghị thực hiện 
những biện pháp sau: 
Một là, hoàn thiện pháp luật về hoạt 
động giám sát của Quốc hội. Việc hoàn thiện 
pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc 
hội đòi hỏi: 
Cần quy định chế tài xử lý đối với các 
cơ quan, đơn vị, cá nhân trong việc báo cáo, 
cung cấp hồ sơ, tài liệu không đúng, không 
đầy đủ, kịp thời về các nội dung giám sát liên 
quan đến hoạt động giải quyết tố cáo cho cơ 
quan giám sát; chế tài xử lý đối với cá nhân 
không thực hiện các kiến nghị của chủ thể 
giám sát... Đây thực chất là việc xây dựng cơ 
chế bảo đảm thực hiện quyền giám sát của 
Quốc hội nói chung để hoạt động giám sát 
tăng tính hiệu lực, hiệu quả.
Cần quy định cụ thể về yêu cầu đối 
với kết luận giám sát giải quyết tố cáo, trách 
nhiệm của chủ thể giám sát về kết luận giám 
sát; quy định cụ thể về thẩm quyền và trách 
nhiệm của các Đoàn đại biểu Quốc hội trong 
việc giám sát giải quyết tố cáo, kiến nghị của 
công dân; quy định rõ cơ chế giám sát giải 
quyết tố cáo đối với những đơn tố cáo ngoài 
địa phương gửi đến.
Cần phân định rõ thẩm quyền của các 
chủ thể giám sát công tác giải quyết tố cáo 
giữa các cơ quan của Quốc hội về nội dung 
và hình thức giám sát: giám sát báo cáo công 
tác giải quyết tố cáo; giám sát thông qua hoạt 
động chất vấn và trả lời chất vấn; giám sát 
việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến 
trong kỳ họp Quốc hội, giám sát chuyên đề 
về giải quyết tố cáo.
Hai là, đổi mới nội dung, phương thức, 
trình tự thủ tục giám sát giải quyết tố cáo của 
các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc 
UBTVQH, các Đoàn đại biểu Quốc hội và 
các đại biểu Quốc hội về giám sát giải quyết 
tố cáo. Theo đó, hoạt động giám sát giải 
quyết tố cáo cần phải được thực hiện thường 
xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm; đối 
tượng, nội dung giám sát tập trung vào trách 
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, 
đơn vị, cơ quan quản lý nhà nước về tố cáo 
thông qua phương thức chất vấn, giải trình 
trước Quốc hội, UBTVQH.
Ba là, cần nâng cao năng lực, ý thức 
trách nhiệm của các chủ thể giám sát thuộc 
Quốc hội trong việc giám sát giải quyết tố 
cáo qua việc tập huấn kiến thức, kỹ năng về 
giám sát, pháp luật tố cáo và bảo đảm quyền 
tố cáo... cho cán bộ, công chức làm công tác 
giám sát; nêu cao tinh thần trách nhiệm trong 
thực hiện nhiệm vụ, theo đó cán bộ giám 
sát phải có bản lĩnh và không ngại va chạm, 
 nể nang.
Bốn là, nâng cao hiệu quả phối hợp 
giữa các cơ quan có chức năng giám sát công 
tác giải quyết tố cáo theo quy định của pháp 
luật, bao gồm Quốc hội, HĐND, Mặt trận Tổ 
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của 
Mặt trận.
(Xem tiếp trang 36)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 13(365) T6/2018
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tang_cuong_hoat_dong_giam_sat_giai_quyet_to_cao_cua_quoc_hoi.pdf tang_cuong_hoat_dong_giam_sat_giai_quyet_to_cao_cua_quoc_hoi.pdf