+ Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng một cách thường xuyên cho đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về chính
trị, chuyên môn nghiệp vụ theo nhu cầu thực
hiện nhiệm vụ của ngành. Chăm lo công tác
phát triển Đảng trong đội ngũ giáo viên của
các trường để làm hạt nhân trong thực hiện
pháp luật về giáo dục.
+ Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng để chuẩn hóa cho đội ngũ giáo viên
theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhằm tạo nền tảng cho việc thực hiện nâng
cao chất lượng toàn diện trong tất cả các
ngành học. Kết hợp chuẩn hóa đại trà với
đào tạo chuyên sâu để nâng chuẩn cho đội
ngũ giáo viên giảng dạy các lớp chọn, bồi
dưỡng sinh viên giỏi.
+ Cần có những chính sách tuyển dụng,
sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục. Thực hiện tốt
việc quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên để khắc phục tình trạng thiếu giáo
viên dạy các môn pháp luật, quốc phòng, thể
dục. có chính sách thỏa đáng trong việc
giải quyết chế độ cho số giáo viên lớn tuổi,
năng lực chuyên môn yếu không đáp ứng
được với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
+ Các cơ quan quản lý giáo dục, các nhà
trường cần phối hợp với Công đoàn Giáo
dục đẩy mạnh phong trào thi đua “hai tốt”
và các cuộc vận động “dân chủ hóa nhà
trường”, “kỷ cương - tình thương - trách
nhiệm”, giúp đỡ đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục rèn luyện, trau dồi phấm
chất đạo đức, bản lĩnh sư phạm, giữ gìn hình
ảnh tốt đẹp về người thầy giáo, cô giáo, thực
sự là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng cường thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường Đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tăng cường thực hiện pháp luật về
GIAÁO DUÅC TRONG CAÁC TRÛÚÂNG ÀAÅI HOÅC
VŨ THỊ HỒNG VÂN*
Thực hiện pháp luật về giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích làm
cho các quy phạm pháp luật về giáo dục đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế của các chủ thể pháp luật, phát huy tính tích cực, chủ động
trong thực hiện pháp luật, phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm
minh các hành vi vi phạm pháp luật để phát triển vững chắc sự nghiệp giáo
dục, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài cho đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* ThS, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
1. Khái niệm, vai trò thực hiện pháp luật về
giáo dục trong các trường đại học hiện nay
1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về giáo
dục trong các trường đại học
Thực hiện pháp luật là giai đoạn sau khi
đã tiến hành xây dựng pháp luật và là giai
đoạn quan trọng không thể thiếu của cơ chế
điều chỉnh pháp luật. Bởi pháp luật chỉ có
thể phát huy được vai trò và những giá trị
của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã
hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực
hiện đầy đủ, nghiêm minh trong cuộc sống.
Do vậy, vấn đề quan trọng không chỉ là ban
hành nhiều luật mà là thực hiện pháp luật
như thế nào trong thực tế.
Thực hiện pháp luật là quá trình các tổ
chức, cá nhân và các chủ thể pháp luật khác
khi gặp phải tình huống thực tế mà quy
phạm pháp luật đã dự liệu, trên cơ sở nhận
thức của mình chuyển hóa một cách sáng tạo
quy tắc xử sự chung mà Nhà nước đã quy
định vào tình huống cụ thể thông qua hành
vi thực tế hợp pháp của mình, nói cách khác,
những đòi hỏi, cấm đoán hay cho phép của
pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân đã
được biểu hiện thành các hành vi thực tế
thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể
pháp luật.
Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ của các
tổ chức và cá nhân, mọi tổ chức và cá nhân
trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực
hiện pháp luật. Đối với Nhà nước thì thực
hiện pháp luật là một trong những hình thức
để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước, quản lý và bảo vệ xã hội, còn đối
với các tổ chức phi nhà nước hoặc các cá
nhân thì thực hiện pháp luật là hoạt động sử
dụng các quyền, tự do pháp lý và thi hành
các nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật quy định
cho họ.
Giáo dục là hoạt động có mục đích, có
chương trình, tác động vào con người thông
qua một hệ thống các biện pháp tác động
nhằm truyền thụ tri thức và kinh nghiệm, rèn
luyện kỹ năng và lối sống, chuẩn bị cho đối
tượng của giáo dục tham gia lao động, tham
Söë 12 (268) T6/2014
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP42
CHÑNH SAÁCH
gia đời sống xã hội và nâng cao chất lượng
cuộc sống. Giáo dục là hoạt động tất yếu của
phát triển xã hội loài người, là một bộ phận
cơ bản của quá trình tái sản xuất mở rộng
lao động xã hội. Điều 35 Hiến pháp năm
1992 sửa đổi năm 2001 “Phát triển về giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã
hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ...”.
Bên cạnh đó, chiến lược phát triển giáo dục
2001-2010 xác định mục tiêu, giải pháp và
các bước đi theo phương châm đa dạng hóa,
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, xây
dựng một nền giáo dục có tính chất thực tiễn
và hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ
về chất lượng, đưa nền giáo dục nước ta sớm
tiến kịp các nước phát triển trong khu vực
và trên thế giới, nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần
đắc lực thực hiện mục tiêu của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định: “Cần đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó,
đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu
then chốt“. Hoạt động giáo dục được đi vào
đời sống thì cần phải làm tốt công tác thực
hiện pháp luật về giáo dục.
Giáo dục là một loại hình hoạt động cơ
bản của đời sống xã hội ở nước ta. Các loại
hình giáo dục từ buổi sơ khai với những
người hay nhóm người làm giáo dục và
những cơ sở (nhà trường) chuyên làm công
tác giáo dục cho đến khi hình thành một hệ
thống nhà trường có mối quan hệ tác động
qua lại với các điều kiện, bối cảnh, trình độ
phát triển về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, khoa học – công nghệ Xuất phát từ
thực tiễn và nhu cầu của xã hội đối với giáo
dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng
về nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển
giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội
học tập, đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
đa trình độ, lao động chất lượng cao, đã hình
thành các nhóm quan hệ xã hội, giữa các nội
dung về tổ chức và hoạt động giáo dục đại
học gồm: thành lập trường đại học, tuyển
sinh, đào tạo, nghiên cứu khoa học; tài
chính, tài sản; tổ chức nhân sự; hợp tác quốc
tếTrên cơ sở đó, có thể nêu khái niện thực
hiện pháp luật về giáo dục trong các trường
đại học như sau:
Thực hiện pháp luật về giáo dục trong
các trường đại học là quá trình hoạt động
có mục đích làm cho các quy phạm pháp
luật về giáo dục được phát sinh trong quá
trình tổ chức và hoạt động giáo dục đại học,
bao gồm các quy định về tổ chức cơ sở giáo
dục đại học; nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí của
giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục
quốc dân; các hoạt động về đào tạo, nghiên
cứu khoa học và công nghệ; hợp tác quốc tế
về giáo dục đại học; đội ngũ giảng viên, cán
bộ quản lý; chương trình, giáo trình và
phương pháp giảng dạy
1.2. Vai trò thực hiện pháp luật về giáo dục
trong các trường đại học
1.2.1. Thực hiện pháp luật về giáo dục
trong các trường đại học góp phần tích cực
đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn, thúc
đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển đúng quan
điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước
Thực hiện pháp luật là một hiện tượng
xã hội mang tính pháp lý. Quá trình hoạt
động thực hiện pháp luật được diễn ra đồng
thời và tiếp nối với quá trình xây dựng và
hoàn thiện pháp luật của Nhà nước. Xây
dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai
dạng hoạt động khác nhau nhưng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Xây dựng pháp
luật là quá trình hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm ban hành
pháp luật và không ngừng hoàn thiện pháp
luật. Thực hiện pháp luật là trách nhiệm của
mọi tổ chức, mọi công dân Việt Nam và các
tổ chức, công dân nước ngoài làm việc, sinh
sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật và trách nhiệm thực
hiện pháp luật của công dân, tổ chức mang
tính nguyên tắc do Hiến pháp qui định.
Quản lý xã hội bằng pháp luật đòi hỏi
nhà nước phải xây dựng và ban hành pháp
luật. Nếu pháp luật ban hành nhiều nhưng ít
đi vào cuộc sống, hiệu quả điều chỉnh của
các qui phạm pháp luật không cao, chứng tỏ
Söë 12 (268) T6/2014
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP 43
CHÑNH SAÁCH
rằng quản lý nhà nước kém hiệu quả. Vì vậy,
xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật
là đòi hỏi khách quan của việc quản lý nhà
nước và tăng cường pháp chế XHCN.
Để quản lý lĩnh vực giáo dục trong các
trường đại học, nhà nước phải xây dựng, ban
hành và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp
luật về giáo dục, làm căn cứ pháp lý, tạo môi
trường thuận lợi cho các hoạt động về giáo
dục trong các trường đại học. Thực hiện
pháp luật về giáo dục là tích cực đưa pháp
luật vào cuộc sống thực tiễn góp phần thúc
đẩy sự nghiệp giáo dục nước nhà phát triển
đúng với quan điểm, chủ trương của Đảng
và Nhà nước ta. Muốn vậy, cần phải nắm
vững tính chất nền giáo dục nước ta: “Nền
giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN
có tính nhân dân, dân tộc, khoa học và hiện
đại. Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng”; đồng thời nắm
vững mục tiêu của giáo dục”... là đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”1
1.2.2. Thực hiện pháp luật về giáo dục
trong các trường đại học là góp phần ngăn
ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật, giải
quyết kịp thời những vi phạm pháp luật,
tăng cường pháp chế XHCN về lĩnh vực
giáo dục
Yêu cầu đầu tiên của việc thực hiện
pháp luật là sự nhận thức đúng đắn những
qui định của pháp luật cả về tư tưởng, nội
dung và ý nghĩa, từ đó nâng cao ý thức và
chủ động đề ra các biện pháp hữu hiệu để
thực hiện tốt pháp luật. Khi ý thức pháp luật
của các chủ thể được nâng cao và việc thực
hiện pháp luật trở thành tự giác thì sẽ góp
phần ngăn ngừa và hạn chế các vi phạm
pháp luật.
Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều có
ảnh hưởng không tốt tới quá trình điều chỉnh
của pháp luật, làm tổn hại đến pháp chế. Do
vậy, nhà nước cần có những biện pháp
nhanh chóng và hữu hiệu để xử lý nghiêm
minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp
luật. Pháp luật là cơ sở để củng cố và tăng
cường pháp chế, không thể có cơ sở vững
chắc để củng cố nền pháp chế nếu không
chú ý đến những biện pháp đảm bảo cho các
cơ quan có trách nhiệm xây dựng pháp luật
có đủ khả năng và điều kiện để hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Tổ chức và thực hiện
pháp luật là một mặt quan trọng của nền
pháp chế. Kết quả của việc tổ chức và thực
hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn
để xác định tính chất của nền pháp chế
XHCN. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là muốn củng
cố và tăng cường pháp chế thì phải bảo đảm
cho các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền tổ
chức và thực hiện pháp luật một cách có
hiệu quả. Pháp luật về giáo dục cho các
trường đại học là một bộ phận của pháp luật
nói chung nên nó cũng đòi hỏi các chủ thể
cần có nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ
tư tưởng, nội dung và ý nghĩa, chủ động đề
ra biện pháp và tự giác trong thực hiện. Có
như vậy mới hạn chế và ngăn ngừa các vi
phạm pháp luật về giáo dục. Thực hiện pháp
luật về giáo dục trong các trường đại học
một cách nghiêm chỉnh và triệt để của các
chủ thể là góp phần ngăn ngừa và hạn chế
những vi phạm pháp luật về giáo dục. Đồng
thời qua quá trình thực hiện pháp luật về
giáo dục sẽ phát hiện được những sai sót để
điều chỉnh hoặc xử lý kịp thời.
Thực hiện pháp luật về giáo dục trong
các trường đại học góp phần làm cho hoạt
động giáo dục có nề nếp, thống nhất và phát
triển vững chắc, thực hiện được mục tiêu
của giáo dục đại học trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.3. Thông qua thực hiện pháp luật về
giáo dục trong các trường đại học góp phần
phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng thói
quen, ý thức của sinh viên sống và học tập
theo Hiến pháp và pháp luật
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập (1994), Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr 1.
Söë 12 (268) T6/2014
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP44
CHÑNH SAÁCH
Giáo dục pháp luật có vị trí, ý nghĩa rất
quan trọng. Vai trò của pháp luật bắt nguồn
từ giá trị xã hội của pháp luật, từ sự hiểu biết
và thực hiện nghiêm túc của các chủ thể
pháp luật. Nếu pháp luật là công cụ rất quan
trọng để Nhà nước quản lý đất nước, quản
lý xã hội, là phương tiện để công dân thực
thi nghĩa vụ và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình thì giáo dục pháp luật giúp
cho Nhà nước và công dân biết sử dụng
phương tiện đó. Phổ biến, giáo dục pháp luật
có ý nghĩa trực tiếp trong việc nâng cao hiệu
lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý
xã hội.
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về
giáo dục trong các trường đại học là một
khâu trong qui trình tổ chức thực hiện pháp
luật về giáo dục, có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc đưa pháp luật về giáo dục
vào cuộc sống. Hình thức phổ biến, giáo dục
pháp luật được thể hiện thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, giảng dạy,
các hoạt động xét xử,...
Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về
giáo dục trong các trường đại học là một
biện pháp bao gồm nhiều mặt hoạt động
nhằm đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng
và thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tiễn.
Cần tăng cường công tác giải thích pháp luật
về giáo dục để làm sáng tỏ nội dung và ý
nghĩa của các qui định pháp luật làm cơ sở
cho việc phổ biến và giáo dục pháp luật đạt
kết quả. Đẩy mạnh công tác phổ biến và
giáo dục pháp luật về giáo dục nhằm làm
cho sinh viên hiểu biết pháp luật từ đó nâng
cao ý thức pháp luật, xây dựng thói quen
sống và học tập theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Nhu cầu tăng cường thực hiện pháp
luật về giáo dục trong các trường đại học
2.1. Nhu cầu thực hiện mục tiêu giáo dục
trong các trường đại học theo quan điểm
và chủ trương của Đảng và Nhà nước
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện
để phát huy nguồn lực con người – yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững. Để định hướng cho
việc phát triển giáo dục và đào tạo, Đảng ta
đã có các tư tưởng chỉ đạo, chủ trương và
nhiệm vụ phát triển giáo dục trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước được xác định trong các văn kiện của
Đảng: Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết
Trung ương 2 (khóa VIII), Nghị quyết Trung
ương 6 và 9 (khóa IX), ...
Nhằm đáp ứng nguồn nhân lực theo yêu
cầu trên, mục tiêu giáo dục của nước ta là
xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có lý tưởng, đạo đức, có tính tổ
chức và kỷ luật, có ý thức cộng đồng và tính
tích cực cá nhân làm chủ tri thức hiện đại,
có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác
phong công nghiệp và có sức khỏe đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để định hướng cho việc thực hiện mục
tiêu trên, quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là:
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của
Nhà nước và của toàn dân. Phát triển giáo
dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh.
Để thực hiện quan điểm, đường lối của
Đảng về phát triển giáo dục đại học trong
thời kỳ mới, Quốc hội khóa X đã thông qua
Luật Giáo dục (tháng 12/1998), Quốc hội
khóa 13 đã thông qua Luật Giáo dục đại học
(tháng 6/2012), Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 (khóa 7), Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 3 (khóa VIII), Nghị quyết Đại
hội IX, Nghị quyết 08 Bộ Chính trị ngày
02/01/2002, Nghị quyết Đại hội X và Nghị
quyết Đại hội XI... Đổi mới chương trình,
sách giáo khoa và phương pháp giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, tiếp cận trình độ các nước trong
khu vực và trên thế giới. Phấn đấu đến năm
2020 tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương trong cả nước đạt chuẩn quốc
gia về giáo dục đại học.
Söë 12 (268) T6/2014
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP 45
CHÑNH SAÁCH
Phải nhận thấy rằng để phát triển sự
nghiệp giáo dục theo quan điểm của Đảng,
Luật và Nghị quyết của Quốc hội, trong thời
gian qua Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cụ thể hóa bằng
nhiều văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn thực
hiện. Ở từng địa phương với chức năng và
quyền hạn quản lý của mình, các cấp ủy
đảng và chính quyền đã căn cứ các quy định
của Trung ương và kết hợp tình hình thực
tiễn địa phương ban hành nhiều văn bản
mang tính chỉ đạo cụ thể, đôn đốc thực hiện
nhằm ổn định và phát triển sự nghiệp giáo
dục ở địa phương mình.
Như vậy việc bảo đảm thực hiện pháp
luật về giáo dục trong các trường đại học là
thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng và
Chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm
thực hiện cho được mục tiêu nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước, đáp ứng cho nhu cầu phát triển đất
nước trong giai đoạn mới.
2.2. Nhu cầu tăng cường hiệu lực quản lý
của Nhà nước về giáo dục đại học
Công tác quản lý của Nhà nước về giáo
dục là một nội dung quan trọng của pháp
luật về giáo dục. Nó không những là một nội
dung của thực hiện pháp luật về giáo dục mà
còn là hoạt động nhằm bảo đảm pháp luật
về giáo dục được tổ chức và thực hiện
nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội. Tăng
cường quản lý nhà nước bằng pháp luật
nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động
của cơ quan quản lý giáo dục từ trung ương
đến địa phương, nhằm xác lập hệ thống các
cơ quan quản lý giáo dục các cấp bảo đảm
không chồng chéo về quyền hạn và nhiệm
vụ; tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các
trường đại học phát triển, tạo quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm của nhà trường trong
tổ chức, hoạt động giáo dục phù hợp với đặc
điểm của trường và thực tiễn của Việt Nam.
Tăng cường công tác pháp chế về giáo
dục đại học, trong đó có công tác hoàn thiện
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh các hoạt động của các trường đại học
theo hướng quy định cụ thể, đảm bảo tính
khả thi, quy định rõ trách nhiệm, quyền của
từng chủ thể. Đảm bảo khi văn bản được ban
hành là có thể thực hiện được ngay. Đây là
khâu đột phá, để nâng cao chất lượng và
phát triển toàn diện giáo dục đại học, làm
tiền đề triển khai hệ thống các giải pháp
đồng bộ nhằm khắc phục các yếu kém và
nâng cao chất lượng giáo dục đại học, từng
bước hội nhập với hệ thống các trường đại
học trong khu vực và trên thế giới.
Tăng cường quản lý nhà nước thông qua
các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát
sẽ tạo điều kiện cho các trường đại học thực
hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình
trong tất cả các hoạt động giáo dục: tổ chức,
nhân sự; đào tạo, tuyển sinh; kiểm định chất
lượng giáo dục; nghiên cứu khoa học...
2.3. Nhu cầu khắc phục những hạn chế,
tồn tại của việc thực hiện pháp luật về giáo
dục trong các trường đại học
Việc thực hiện pháp luật về giáo dục ở
các trường đại học trong thời gian qua đã đạt
được những kết quả nhất định. Các chủ thể
thực hiện pháp luật về giáo dục đã nhận thức
được vai trò của giáo dục đối với xã hội, từ
đó đã thực sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo và
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện pháp luật
về giáo dục trong phạm vi quản lý của mình.
Với việc tích cực thực hiện pháp luật về giáo
dục và những thành tích của ngành giáo dục
đạt được trong thời gian qua đã chứng minh
cho sự quan tâm này.
Các hoạt động của giáo dục đại học ở
các trường đại học đã thực sự thực hiện
nghiêm túc các quy định của pháp luật các
cấp quản lý về giáo dục đã vận dụng các
hình thức thực hiện pháp luật, đặc biệt là
hình thức thi hành pháp luật và áp dụng
pháp luật để đưa pháp luật về giáo dục vào
thực tiễn xã hội. Bên cạnh đó, việc thực hiện
các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục
được quan tâm đúng mức. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng về đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước
đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục được đặc biệt chú ý. Một số hạn
chế là:
+ Một số trường chưa làm tốt chức năng
tham mưu và quản lý nhà nước về giáo dục
nên các cấp ủy Đảng, chính quyền chưa có
những chủ trương, biện pháp cụ thể, thiết
Söë 12 (268) T6/2014
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP46
CHÑNH SAÁCH
thực, kịp thời để thúc đẩy sự nghiệp giáo
dục;
+ Ngân sách đầu tư cho giáo dục còn eo
hẹp, chưa đáp ứng kịp với quy mô phát triển
các ngành học, cấp học. Cơ sở vật chất phục
vụ cho việc dạy và học nhìn chung vẫn còn
nghèo nàn, thiếu thốn ở một số trường đại học;
+ Các văn bản pháp quy về quản lý giáo
dục nói chung, thực hiện pháp luật về giáo
dục nói riêng vừa thiếu, vừa không đồng bộ
nên quá trình tổ chức thực hiện gặp nhiều
ách tắc, khó khăn;
+ Công tác quản lý ở một số trường
ngoài công lập, các hình thức học tập tại
chức chưa được quản lý chặt chẽ, chất lượng
chưa đảm bảo theo yêu cầu. Một số tiêu cực
trong ngành giáo dục chưa được xử lý
nghiêm minh, kịp thời. Việc phát hiện vi
phạm pháp luật về giáo dục còn chậm, chưa
xử lý những vi phạm một cách triệt để.
Những hạn chế của việc thực hiện pháp
luật về giáo dục ở các trường đại học trong
thời gian qua đã đặt ra yêu cầu cấp bách đòi
hỏi phải xây dựng các giải pháp nhằm bảo
đảm thực hiện pháp luật về giáo dục là mối
quan tâm của các chủ thể tham gia hoạt
động giáo dục.
3. Các giải pháp nhằm tăng cường thực
hiện pháp luật về giáo dục trong các
trường đại học hiện nay
3.1. Nâng cao nhận thức về thực hiện pháp
luật về giáo dục trong trường đại học
Để nâng cao nhận thức thực hiện pháp
luật về giáo dục trong các trường đại học là
phải nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý
nghĩa của việc thực hiện pháp luật về giáo
dục để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà
nước ta: giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhằm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển
và năm 2010 và cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020, đòi hỏi giáo dục đại học phải phát
triển mạnh mẽ để góp phần thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Việc chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN; sự phát triển
nhanh chóng của khoa học và công nghệ; xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế; nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân
dân vừa là thời cơ, vừa tạo ra thách thức to
lớn đối với giáo dục đại học nước ta.
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, có
nghĩa là chính sách giáo dục của Đảng và
Nhà nước có tầm quan trọng vào hàng thứ
nhất trong tất cả chính sách khác. Muốn giáo
dục là quốc sách hàng đầu thì phải từ cán
bộ, chính sách ưu tiên và tổ chức quản lý.
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, phục vụ yêu cầu về quyền
được học tập của nhân dân. Phát triển giáo
dục cả hai mặt: số lượng và chất lượng;
trong đó phát triển số lượng là quan trọng,
phát triển chất lượng là quyết định, vì chất
lượng quyết định hiệu quả của phát triển
giáo dục.
Thực hiện pháp luật về giáo dục có vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là cách
thức tốt nhất để đưa pháp luật về giáo dục
vào cuộc sống, tích cực thực hiện mục tiêu
giáo dục của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Có
thực hiện tốt những quy định của pháp luật
về giáo dục sẽ góp phần hạn chế những vi
phạm pháp luật, tăng cường pháp chế
XHCN trong lĩnh vực giáo dục; góp phần
phổ biến giáo dục pháp luật và xây dựng
thói quen, ý thức pháp luật sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật.
Nền giáo dục Việt Nam phải là nền giáo
dục của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
hướng tới một xã hội học tập. Hệ thống giáo
dục không chỉ dành cho tuổi trẻ mà còn dành
cho tất cả mọi người để học tập suốt đời,
trong đó học theo trường lớp chính quy và
không chính quy đều có thể đạt được trình
độ mong muốn về kiến thức và kỹ năng. Nhà
nước cần tạo cơ chế mạnh dạn huy động
nguồn lực và trí tuệ từ nhân dân để phát triển
giáo dục và có chính sách bảo đảm bình đẳng
giữa trường công lập và trường ngoài công
lập. Gắn chặt hơn nữa mối quan hệ giữa nhà
trường, gia đình và xã hội.
3.2. Hoàn thiện pháp luật về giáo dục
trong các trường đại học
Muốn hoàn thiện pháp luật về giáo dục
trong các trường đại học ở Việt Nam hiện
Söë 12 (268) T6/2014
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP 47
CHÑNH SAÁCH
nay thì trước hết phải hoàn thiện hình thức
pháp luật về giáo dục đại học. Hệ thống
pháp luật về giáo dục đại học của nước ta
vẫn chưa ngang tầm với đòi hỏi của thực
tiễn hoạt động giáo dục đại học về số lượng
và chất lượng; còn thiếu tính toàn diện, chưa
đầy đủ, thiếu đồng bộ, chồng chéo, không
thống nhất, thậm chí mâu thuẫn, tính khả thi
thấp, chậm đi vào cuộc sống. Chưa kịp phản
ánh, điều chỉnh các hoạt động của giáo dục
đại học. Để thực hiện hoạt động giáo dục đại
học thì hàng năm phải có hàng trăm văn bản
quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban
hành từ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các
Bộ, ngành có liên quan ban hành để điều
chỉnh các hoạt động của giáo dục đại học.
Trong Nghị quyết số 50/2010/QH12 ngày
19/6/2010 của Quốc hội về việc thực hiện
chính sách, pháp luật về thành lập trường,
đầu tư và bản đảm chất lượng đào tạo đối
với giáo dục đại học đã khẳng định: “Những
hạn chế, bất cập nêu trên trong giáo dục đại
học là do hệ thống pháp luật về giáo dục đại
học chưa hoàn thiện, việc hướng dẫn thi
hành Luật Giáo dục còn chậm; một số chính
sách về giáo dục đại học ban hành chậm,
chưa đồng bộ và chưa được sửa đổi, bổ sung
kịp thời để phù hợp với thực tiễn...”. Mặt
khác, để đảm bảo các quy định pháp luật
hiện hành thống nhất, phù hợp Nghị quyết
cũng yêu cầu Chính phủ “khẩn trương rà
soát, hoàn thiện hệ thống văn bản dưới luật
về giáo dục đại học; ban hành theo thẩm
quyền hoặc chỉ đạo các bộ, cơ quan hữu
quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật
cần thiết, sửa đổi, bổ sung văn bản quy
phạm pháp luật không còn phù hợp, ban
hành Điều lệ trường đại học và Điều lệ
trường cao đẳng”.
Ngoài những vấn đề quy định trong
Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học thì vấn
đề khác sẽ được điều chỉnh bằng hệ thống
văn bản dưới Luật như các Nghị quyết, Nghị
định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư... nhằm
hướng dẫn, quy định cụ thể các quy định của
Luật Giáo dục đại học và các nội dung thuộc
thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo và liên Bộ. Như vậy, cùng với Luật
Giáo dục đại học là văn bản có giá trị pháp
lý cao thì sẽ hình thành một hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống
nhất điều chỉnh tất cả các hoạt động của giáo
dục đại học tạo nên một hệ thống pháp luật
về giáo dục đại học.
Bên cạnh việc hoàn thiện hình thức
pháp luật về giáo dục thì cũng phải hoàn
thiện nội dung pháp luật về giáo dục trong
các trường đại học như:
+ Thể chế các quy định về quản lý giáo
dục đại học theo hướng tăng quyền tự chủ,
nâng cao trách nhiệm xã hội và thúc đẩy
năng lực cạnh tranh của các cơ sở giáo dục
đại học;
+ Thể chế các quy định về giao chỉ tiêu
tuyển sinh, phương pháp tuyển sinh, quản lý
cấp phát bằng, chứng chỉ trên cơ sở tăng tính
tự chủ tự chịu trách nhiệm của nhà trường
trước người học và xã hội;
+ Quy định nội dung, phương pháp và
chương trình giáo dục đáp ứng nhu cầu đào
tạo nguồn lực có trình độ cao và hội nhập
quốc tế;
+ Thể chế hóa các quy định về nhà giáo
nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà giáo là khâu then chốt trong việc
nâng cao chất lượng giáo dục đại học;
+ Quy định quy hoạch mạng lưới và cơ
cấu hệ thống giáo dục đại học nhằm đổi mới
cơ bản, toàn diện cơ cấu đào tạo nhân lực có
trình độ cao;
+ Quy định và đa dạng hóa các nguồn
lực đầu tư cho giáo dục đại học, giao quyền
tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học trong
lĩnh vực tài chính nhằm tạo điều kiện cho
các trường chủ động xây dựng và phát triển;
+ Thể chế các quy định về nghiên cứu
khoa học và công nghệ, đẩy mạnh hợp tác
quốc tế trong giáo dục đại học góp phần hội
nhập với hệ thống giáo dục đại học khu vực
và thế giới;
+ Thể chế các quy định về đảm bảo và
kiểm định chất lượng giáo dục để duy trì và
không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục
đại học.
Söë 12 (268) T6/2014
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP48
CHÑNH SAÁCH
3.3. Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật trong các trường đại học
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
thì nhu cầu về nguồn nhân lực đòi hỏi ngày
càng tăng cả về số lượng và chất lượng, thì
vai trò của giáo dục phải luôn được khẳng
định và đặt đúng vị trí của nó, do đó việc
thực hiện pháp luật về giáo dục phai ngang
tầm với sự đòi hỏi của xã hội. Ở các trường
đại học hiện nay vấn đề thực hiện pháp luật
về giáo dục phải được xem là một hình thức
tốt nhất để đưa pháp luật về giáo dục vào các
trường, góp phần hạn chế, ngăn ngừa những
vi phạm pháp luật về giáo dục, do đó, đòi
hỏi phải có nhận thức đúng đắn quan điểm
giáo dục là quốc sách hàng đầu và vị trí, vai
trò, ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật về
giáo dục trong đời sống xã hội. Vì vậy, việc
đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật về giáo dục là biện pháp chủ yếu để đạt
được yêu cầu về nhận thức nói trên.
Từ khi có Chỉ thị số 02/CT-TTg, Quyết
định số 03/QĐ-TTg ngày 07/01/1998 của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật thì công tác
này đang từng bước được đẩy mạnh, góp
phần tích cực vào việc nâng cao ý thức pháp
luật của người dân, động viên hướng dẫn
nhân dân hăng hái tham gia vào phát triển
kinh tế - xã hội. Các ngành, các cấp đã quan
tâm trong việc củng cố tổ chức, huy động
cán bộ, xây dựng cơ chế, tạo điều kiện về cơ
sở vật chất để thực hiện công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật. Nhưng cũng phải thấy
được rằng, mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành một số văn bản pháp luật làm cơ
sở pháp lý cho việc đẩy mạnh công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật và xét về mặt tổng
thể tuy có những hoạt động sôi nổi, rộng
khắp với sự nỗ lực thường xuyên của nhiều
tổ chức, cơ quan từ Trung ương đến địa
phương nhưng hiệu quả công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, tác động của phổ biến,
giáo dục pháp luật đối với việc nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của người dân, đến
trật tự kỷ cương pháp luật, cũng còn những
hạn chế. Một trong những nguyên nhân của
tình trạng này là do hiện nay việc thực hiện
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn
còn dàn trải, chưa hình thành được cơ chế,
phương thức hữu hiệu, tập trung nguồn lực
cũng như huy động sự tham gia đóng góp
của toàn xã hội cho công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật.
Để công tác này thực sự đổi mới về
chất, cần phải có bước đi mạnh mẽ, phải có
trọng tâm, trọng điểm trong kế hoạch tổng
thể về phổ biến, giáo dục pháp luật để góp
phần thực hiện các mục tiêu, chính sách về
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-
2010 được thông qua tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX và thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục.
Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của
Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân,
“...công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần
được tiếp tục đổi mới về phương thức thực
hiện để có những chuyển biến tích cực đáp
ứng những đòi hỏi của thời kỳ phát triển mới
của đất nước ta“2. Nước ta đang trong thời
kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, nhu cầu quản lý xã hội
nói chung và quản lý lĩnh vực giáo dục và
đào tạo nói riêng cần có những văn bản pháp
luật sát hợp để điều chỉnh các quan hệ xã hội
này. Thực tiễn ở nước ta hiện có rất nhiều
văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ
trong lĩnh vực giáo dục; điều đó đòi hỏi phải
phổ biến, giáo dục như thế nào cho đạt hiệu
quả, để pháp luật đó đi vào cuộc sống và
được bảo đảm thực hiện.
3.4. Kiện toàn tổ chức và hoạt động về giáo
dục trong các trường đại học
Trong sự nghiệp giáo dục, đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục có vai trò
đặc biệt quan trọng, là nòng cốt để nâng cao
chất lượng giáo dục. Trong thời gian qua,
các trường đại học đã quan tâm xây dựng
được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục khá đông đảo, phần lớn có phẩm
chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng
lực thực tiễn. Tuy nhiên, so với yêu cầu của
sự phát triển giáo dục trong thời kỳ mới thì
Söë 12 (268) T6/2014
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP 49
CHÑNH SAÁCH
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
còn những hạn chế và bất cập. Vì vậy, các
cơ quan quản lý giáo dục cần phải xây dựng
và thực hiện quy chế làm việc theo yêu cầu
cải cách thủ tục hành chính. Các trường học
và cơ sở đào tạo khác tổ chức và hoạt động
theo quy định của Điều lệ nhà trường phù
hợp với chức năng nhiệm vụ và ngành nghề
đào tạo, các trường học theo hướng tinh gọn
đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Thực hiện
nghiêm túc quy chế chuyên môn xem đây là
hình thức chủ yếu của việc thực hiện pháp
luật về giáo dục trong trường học để nâng
cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục.
Công khai minh bạch công tác thu chi tài
chính, kiên quyết ngăn chặn và xử lý
nghiêm minh đối với các hành vi tham
nhũng, sử dụng kinh phí giáo dục sai mục
đích, lợi dụng hoạt động giáo dục để vụ lợi.
Hiệu quả thực hiện pháp luật về giáo
dục phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cũng như phẩm chất đạo
đức, lòng nhiệt thành và trách nhiệm của đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Do
vậy, việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục giỏi về chuyên môn,
nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức, tận tụy
với nghề nghiệp là một trong những yếu tố
quan trọng tạo điều kiện cho sự bảo đảm cho
việc thực hiện pháp luật về giáo dục. Bên
cạnh việc củng cố tổ chức bộ máy và cán bộ,
cần quan tâm đẩy mạnh các hoạt động trọng
tâm trong nhà trường như việc tổ chức giảng
dạy và học tập theo chương trình, kế hoạch
và tổ chức các hoạt động giáo dục khác để
nâng cao chất lượng toàn diện cho thế hệ trẻ
theo mục tiêu giáo dục. Quan tâm củng cố
các tổ chức trong nhà trường như tổ chức
đảng, công đoàn, đoàn thanh niên; các tổ
chuyên môn, hội đồng khoa học, hội đồng
giáo dục... nhằm tạo một sức mạnh tổng hợp
để thực hiện nhiệm vụ của nhà trường.
Để đảm bảo việc thực hiện pháp luật về
giáo dục trong các trường đại học ở Việt
Nam hiện nay được tốt hơn, đòi hỏi phải xây
dựng và thực hiện chu đáo công tác quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý để bảo đảm hoàn
thành được nhiệm vụ. Công tác quy hoạch,
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải đảm
bảo các yêu cầu sau:
+ Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng một cách thường xuyên cho đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về chính
trị, chuyên môn nghiệp vụ theo nhu cầu thực
hiện nhiệm vụ của ngành. Chăm lo công tác
phát triển Đảng trong đội ngũ giáo viên của
các trường để làm hạt nhân trong thực hiện
pháp luật về giáo dục.
+ Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng để chuẩn hóa cho đội ngũ giáo viên
theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhằm tạo nền tảng cho việc thực hiện nâng
cao chất lượng toàn diện trong tất cả các
ngành học. Kết hợp chuẩn hóa đại trà với
đào tạo chuyên sâu để nâng chuẩn cho đội
ngũ giáo viên giảng dạy các lớp chọn, bồi
dưỡng sinh viên giỏi.
+ Cần có những chính sách tuyển dụng,
sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục. Thực hiện tốt
việc quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên để khắc phục tình trạng thiếu giáo
viên dạy các môn pháp luật, quốc phòng, thể
dục... có chính sách thỏa đáng trong việc
giải quyết chế độ cho số giáo viên lớn tuổi,
năng lực chuyên môn yếu không đáp ứng
được với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
+ Các cơ quan quản lý giáo dục, các nhà
trường cần phối hợp với Công đoàn Giáo
dục đẩy mạnh phong trào thi đua “hai tốt”
và các cuộc vận động “dân chủ hóa nhà
trường”, “kỷ cương - tình thương - trách
nhiệm”, giúp đỡ đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục rèn luyện, trau dồi phấm
chất đạo đức, bản lĩnh sư phạm, giữ gìn hình
ảnh tốt đẹp về người thầy giáo, cô giáo, thực
sự là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo.
2 Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp: Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, NXB
Thanh niên, H., (1997).
Söë 12 (268) T6/2014
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP50
CHÑNH SAÁCH
(Xem tiÕp trang 64)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tang_cuong_thuc_hien_phap_luat_ve_giao_duc_trong_cac_truong.pdf