Tăng cường thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường Đại học

+ Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng một cách thường xuyên cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ theo nhu cầu thực hiện nhiệm vụ của ngành. Chăm lo công tác phát triển Đảng trong đội ngũ giáo viên của các trường để làm hạt nhân trong thực hiện pháp luật về giáo dục. + Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa cho đội ngũ giáo viên theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm tạo nền tảng cho việc thực hiện nâng cao chất lượng toàn diện trong tất cả các ngành học. Kết hợp chuẩn hóa đại trà với đào tạo chuyên sâu để nâng chuẩn cho đội ngũ giáo viên giảng dạy các lớp chọn, bồi dưỡng sinh viên giỏi. + Cần có những chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Thực hiện tốt việc quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên để khắc phục tình trạng thiếu giáo viên dạy các môn pháp luật, quốc phòng, thể dục. có chính sách thỏa đáng trong việc giải quyết chế độ cho số giáo viên lớn tuổi, năng lực chuyên môn yếu không đáp ứng được với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. + Các cơ quan quản lý giáo dục, các nhà trường cần phối hợp với Công đoàn Giáo dục đẩy mạnh phong trào thi đua “hai tốt” và các cuộc vận động “dân chủ hóa nhà trường”, “kỷ cương - tình thương - trách nhiệm”, giúp đỡ đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục rèn luyện, trau dồi phấm chất đạo đức, bản lĩnh sư phạm, giữ gìn hình ảnh tốt đẹp về người thầy giáo, cô giáo, thực sự là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng cường thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường Đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tăng cường thực hiện pháp luật về GIAÁO DUÅC TRONG CAÁC TRÛÚÂNG ÀAÅI HOÅC VŨ THỊ HỒNG VÂN* Thực hiện pháp luật về giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy phạm pháp luật về giáo dục đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế của các chủ thể pháp luật, phát huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật, phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật để phát triển vững chắc sự nghiệp giáo dục, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. * ThS, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. 1. Khái niệm, vai trò thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học hiện nay 1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học Thực hiện pháp luật là giai đoạn sau khi đã tiến hành xây dựng pháp luật và là giai đoạn quan trọng không thể thiếu của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Bởi pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm minh trong cuộc sống. Do vậy, vấn đề quan trọng không chỉ là ban hành nhiều luật mà là thực hiện pháp luật như thế nào trong thực tế. Thực hiện pháp luật là quá trình các tổ chức, cá nhân và các chủ thể pháp luật khác khi gặp phải tình huống thực tế mà quy phạm pháp luật đã dự liệu, trên cơ sở nhận thức của mình chuyển hóa một cách sáng tạo quy tắc xử sự chung mà Nhà nước đã quy định vào tình huống cụ thể thông qua hành vi thực tế hợp pháp của mình, nói cách khác, những đòi hỏi, cấm đoán hay cho phép của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân đã được biểu hiện thành các hành vi thực tế thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật. Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân, mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Đối với Nhà nước thì thực hiện pháp luật là một trong những hình thức để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, quản lý và bảo vệ xã hội, còn đối với các tổ chức phi nhà nước hoặc các cá nhân thì thực hiện pháp luật là hoạt động sử dụng các quyền, tự do pháp lý và thi hành các nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật quy định cho họ. Giáo dục là hoạt động có mục đích, có chương trình, tác động vào con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, chuẩn bị cho đối tượng của giáo dục tham gia lao động, tham Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP42 CHÑNH SAÁCH gia đời sống xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Giáo dục là hoạt động tất yếu của phát triển xã hội loài người, là một bộ phận cơ bản của quá trình tái sản xuất mở rộng lao động xã hội. Điều 35 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 “Phát triển về giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ...”. Bên cạnh đó, chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 xác định mục tiêu, giải pháp và các bước đi theo phương châm đa dạng hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, xây dựng một nền giáo dục có tính chất thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Cần đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt“. Hoạt động giáo dục được đi vào đời sống thì cần phải làm tốt công tác thực hiện pháp luật về giáo dục. Giáo dục là một loại hình hoạt động cơ bản của đời sống xã hội ở nước ta. Các loại hình giáo dục từ buổi sơ khai với những người hay nhóm người làm giáo dục và những cơ sở (nhà trường) chuyên làm công tác giáo dục cho đến khi hình thành một hệ thống nhà trường có mối quan hệ tác động qua lại với các điều kiện, bối cảnh, trình độ phát triển về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học – công nghệ Xuất phát từ thực tiễn và nhu cầu của xã hội đối với giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng về nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập, đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đa trình độ, lao động chất lượng cao, đã hình thành các nhóm quan hệ xã hội, giữa các nội dung về tổ chức và hoạt động giáo dục đại học gồm: thành lập trường đại học, tuyển sinh, đào tạo, nghiên cứu khoa học; tài chính, tài sản; tổ chức nhân sự; hợp tác quốc tếTrên cơ sở đó, có thể nêu khái niện thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học như sau: Thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy phạm pháp luật về giáo dục được phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động giáo dục đại học, bao gồm các quy định về tổ chức cơ sở giáo dục đại học; nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí của giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân; các hoạt động về đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ; hợp tác quốc tế về giáo dục đại học; đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý; chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy 1.2. Vai trò thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học 1.2.1. Thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học góp phần tích cực đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý. Quá trình hoạt động thực hiện pháp luật được diễn ra đồng thời và tiếp nối với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Nhà nước. Xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai dạng hoạt động khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm ban hành pháp luật và không ngừng hoàn thiện pháp luật. Thực hiện pháp luật là trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi công dân Việt Nam và các tổ chức, công dân nước ngoài làm việc, sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và trách nhiệm thực hiện pháp luật của công dân, tổ chức mang tính nguyên tắc do Hiến pháp qui định. Quản lý xã hội bằng pháp luật đòi hỏi nhà nước phải xây dựng và ban hành pháp luật. Nếu pháp luật ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống, hiệu quả điều chỉnh của các qui phạm pháp luật không cao, chứng tỏ Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP 43 CHÑNH SAÁCH rằng quản lý nhà nước kém hiệu quả. Vì vậy, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là đòi hỏi khách quan của việc quản lý nhà nước và tăng cường pháp chế XHCN. Để quản lý lĩnh vực giáo dục trong các trường đại học, nhà nước phải xây dựng, ban hành và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục, làm căn cứ pháp lý, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động về giáo dục trong các trường đại học. Thực hiện pháp luật về giáo dục là tích cực đưa pháp luật vào cuộc sống thực tiễn góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục nước nhà phát triển đúng với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Muốn vậy, cần phải nắm vững tính chất nền giáo dục nước ta: “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN có tính nhân dân, dân tộc, khoa học và hiện đại. Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”; đồng thời nắm vững mục tiêu của giáo dục”... là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1 1.2.2. Thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học là góp phần ngăn ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật, giải quyết kịp thời những vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN về lĩnh vực giáo dục Yêu cầu đầu tiên của việc thực hiện pháp luật là sự nhận thức đúng đắn những qui định của pháp luật cả về tư tưởng, nội dung và ý nghĩa, từ đó nâng cao ý thức và chủ động đề ra các biện pháp hữu hiệu để thực hiện tốt pháp luật. Khi ý thức pháp luật của các chủ thể được nâng cao và việc thực hiện pháp luật trở thành tự giác thì sẽ góp phần ngăn ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều có ảnh hưởng không tốt tới quá trình điều chỉnh của pháp luật, làm tổn hại đến pháp chế. Do vậy, nhà nước cần có những biện pháp nhanh chóng và hữu hiệu để xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Pháp luật là cơ sở để củng cố và tăng cường pháp chế, không thể có cơ sở vững chắc để củng cố nền pháp chế nếu không chú ý đến những biện pháp đảm bảo cho các cơ quan có trách nhiệm xây dựng pháp luật có đủ khả năng và điều kiện để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tổ chức và thực hiện pháp luật là một mặt quan trọng của nền pháp chế. Kết quả của việc tổ chức và thực hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn để xác định tính chất của nền pháp chế XHCN. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là muốn củng cố và tăng cường pháp chế thì phải bảo đảm cho các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền tổ chức và thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả. Pháp luật về giáo dục cho các trường đại học là một bộ phận của pháp luật nói chung nên nó cũng đòi hỏi các chủ thể cần có nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ tư tưởng, nội dung và ý nghĩa, chủ động đề ra biện pháp và tự giác trong thực hiện. Có như vậy mới hạn chế và ngăn ngừa các vi phạm pháp luật về giáo dục. Thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học một cách nghiêm chỉnh và triệt để của các chủ thể là góp phần ngăn ngừa và hạn chế những vi phạm pháp luật về giáo dục. Đồng thời qua quá trình thực hiện pháp luật về giáo dục sẽ phát hiện được những sai sót để điều chỉnh hoặc xử lý kịp thời. Thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học góp phần làm cho hoạt động giáo dục có nề nếp, thống nhất và phát triển vững chắc, thực hiện được mục tiêu của giáo dục đại học trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 1.2.3. Thông qua thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen, ý thức của sinh viên sống và học tập theo Hiến pháp và pháp luật 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập (1994), Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr 1. Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP44 CHÑNH SAÁCH Giáo dục pháp luật có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng. Vai trò của pháp luật bắt nguồn từ giá trị xã hội của pháp luật, từ sự hiểu biết và thực hiện nghiêm túc của các chủ thể pháp luật. Nếu pháp luật là công cụ rất quan trọng để Nhà nước quản lý đất nước, quản lý xã hội, là phương tiện để công dân thực thi nghĩa vụ và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì giáo dục pháp luật giúp cho Nhà nước và công dân biết sử dụng phương tiện đó. Phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa trực tiếp trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục trong các trường đại học là một khâu trong qui trình tổ chức thực hiện pháp luật về giáo dục, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đưa pháp luật về giáo dục vào cuộc sống. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật được thể hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, giảng dạy, các hoạt động xét xử,... Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học là một biện pháp bao gồm nhiều mặt hoạt động nhằm đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tiễn. Cần tăng cường công tác giải thích pháp luật về giáo dục để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các qui định pháp luật làm cơ sở cho việc phổ biến và giáo dục pháp luật đạt kết quả. Đẩy mạnh công tác phổ biến và giáo dục pháp luật về giáo dục nhằm làm cho sinh viên hiểu biết pháp luật từ đó nâng cao ý thức pháp luật, xây dựng thói quen sống và học tập theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Nhu cầu tăng cường thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học 2.1. Nhu cầu thực hiện mục tiêu giáo dục trong các trường đại học theo quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Để định hướng cho việc phát triển giáo dục và đào tạo, Đảng ta đã có các tư tưởng chỉ đạo, chủ trương và nhiệm vụ phát triển giáo dục trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được xác định trong các văn kiện của Đảng: Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), Nghị quyết Trung ương 6 và 9 (khóa IX), ... Nhằm đáp ứng nguồn nhân lực theo yêu cầu trên, mục tiêu giáo dục của nước ta là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có lý tưởng, đạo đức, có tính tổ chức và kỷ luật, có ý thức cộng đồng và tính tích cực cá nhân làm chủ tri thức hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp và có sức khỏe đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để định hướng cho việc thực hiện mục tiêu trên, quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh. Để thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển giáo dục đại học trong thời kỳ mới, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật Giáo dục (tháng 12/1998), Quốc hội khóa 13 đã thông qua Luật Giáo dục đại học (tháng 6/2012), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa 7), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII), Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết 08 Bộ Chính trị ngày 02/01/2002, Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết Đại hội XI... Đổi mới chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phù hợp với thực tiễn Việt Nam, tiếp cận trình độ các nước trong khu vực và trên thế giới. Phấn đấu đến năm 2020 tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong cả nước đạt chuẩn quốc gia về giáo dục đại học. Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP 45 CHÑNH SAÁCH Phải nhận thấy rằng để phát triển sự nghiệp giáo dục theo quan điểm của Đảng, Luật và Nghị quyết của Quốc hội, trong thời gian qua Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cụ thể hóa bằng nhiều văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện. Ở từng địa phương với chức năng và quyền hạn quản lý của mình, các cấp ủy đảng và chính quyền đã căn cứ các quy định của Trung ương và kết hợp tình hình thực tiễn địa phương ban hành nhiều văn bản mang tính chỉ đạo cụ thể, đôn đốc thực hiện nhằm ổn định và phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương mình. Như vậy việc bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học là thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng và Chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm thực hiện cho được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp ứng cho nhu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. 2.2. Nhu cầu tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước về giáo dục đại học Công tác quản lý của Nhà nước về giáo dục là một nội dung quan trọng của pháp luật về giáo dục. Nó không những là một nội dung của thực hiện pháp luật về giáo dục mà còn là hoạt động nhằm bảo đảm pháp luật về giáo dục được tổ chức và thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội. Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của cơ quan quản lý giáo dục từ trung ương đến địa phương, nhằm xác lập hệ thống các cơ quan quản lý giáo dục các cấp bảo đảm không chồng chéo về quyền hạn và nhiệm vụ; tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các trường đại học phát triển, tạo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của nhà trường trong tổ chức, hoạt động giáo dục phù hợp với đặc điểm của trường và thực tiễn của Việt Nam. Tăng cường công tác pháp chế về giáo dục đại học, trong đó có công tác hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động của các trường đại học theo hướng quy định cụ thể, đảm bảo tính khả thi, quy định rõ trách nhiệm, quyền của từng chủ thể. Đảm bảo khi văn bản được ban hành là có thể thực hiện được ngay. Đây là khâu đột phá, để nâng cao chất lượng và phát triển toàn diện giáo dục đại học, làm tiền đề triển khai hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm khắc phục các yếu kém và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, từng bước hội nhập với hệ thống các trường đại học trong khu vực và trên thế giới. Tăng cường quản lý nhà nước thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát sẽ tạo điều kiện cho các trường đại học thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình trong tất cả các hoạt động giáo dục: tổ chức, nhân sự; đào tạo, tuyển sinh; kiểm định chất lượng giáo dục; nghiên cứu khoa học... 2.3. Nhu cầu khắc phục những hạn chế, tồn tại của việc thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học Việc thực hiện pháp luật về giáo dục ở các trường đại học trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Các chủ thể thực hiện pháp luật về giáo dục đã nhận thức được vai trò của giáo dục đối với xã hội, từ đó đã thực sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo và kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện pháp luật về giáo dục trong phạm vi quản lý của mình. Với việc tích cực thực hiện pháp luật về giáo dục và những thành tích của ngành giáo dục đạt được trong thời gian qua đã chứng minh cho sự quan tâm này. Các hoạt động của giáo dục đại học ở các trường đại học đã thực sự thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật các cấp quản lý về giáo dục đã vận dụng các hình thức thực hiện pháp luật, đặc biệt là hình thức thi hành pháp luật và áp dụng pháp luật để đưa pháp luật về giáo dục vào thực tiễn xã hội. Bên cạnh đó, việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục được quan tâm đúng mức. Công tác đào tạo, bồi dưỡng về đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được đặc biệt chú ý. Một số hạn chế là: + Một số trường chưa làm tốt chức năng tham mưu và quản lý nhà nước về giáo dục nên các cấp ủy Đảng, chính quyền chưa có những chủ trương, biện pháp cụ thể, thiết Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP46 CHÑNH SAÁCH thực, kịp thời để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục; + Ngân sách đầu tư cho giáo dục còn eo hẹp, chưa đáp ứng kịp với quy mô phát triển các ngành học, cấp học. Cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học nhìn chung vẫn còn nghèo nàn, thiếu thốn ở một số trường đại học; + Các văn bản pháp quy về quản lý giáo dục nói chung, thực hiện pháp luật về giáo dục nói riêng vừa thiếu, vừa không đồng bộ nên quá trình tổ chức thực hiện gặp nhiều ách tắc, khó khăn; + Công tác quản lý ở một số trường ngoài công lập, các hình thức học tập tại chức chưa được quản lý chặt chẽ, chất lượng chưa đảm bảo theo yêu cầu. Một số tiêu cực trong ngành giáo dục chưa được xử lý nghiêm minh, kịp thời. Việc phát hiện vi phạm pháp luật về giáo dục còn chậm, chưa xử lý những vi phạm một cách triệt để. Những hạn chế của việc thực hiện pháp luật về giáo dục ở các trường đại học trong thời gian qua đã đặt ra yêu cầu cấp bách đòi hỏi phải xây dựng các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục là mối quan tâm của các chủ thể tham gia hoạt động giáo dục. 3. Các giải pháp nhằm tăng cường thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học hiện nay 3.1. Nâng cao nhận thức về thực hiện pháp luật về giáo dục trong trường đại học Để nâng cao nhận thức thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học là phải nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật về giáo dục để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta: giáo dục là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và năm 2010 và cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, đòi hỏi giáo dục đại học phải phát triển mạnh mẽ để góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ; xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân vừa là thời cơ, vừa tạo ra thách thức to lớn đối với giáo dục đại học nước ta. Giáo dục là quốc sách hàng đầu, có nghĩa là chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước có tầm quan trọng vào hàng thứ nhất trong tất cả chính sách khác. Muốn giáo dục là quốc sách hàng đầu thì phải từ cán bộ, chính sách ưu tiên và tổ chức quản lý. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ yêu cầu về quyền được học tập của nhân dân. Phát triển giáo dục cả hai mặt: số lượng và chất lượng; trong đó phát triển số lượng là quan trọng, phát triển chất lượng là quyết định, vì chất lượng quyết định hiệu quả của phát triển giáo dục. Thực hiện pháp luật về giáo dục có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là cách thức tốt nhất để đưa pháp luật về giáo dục vào cuộc sống, tích cực thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Có thực hiện tốt những quy định của pháp luật về giáo dục sẽ góp phần hạn chế những vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực giáo dục; góp phần phổ biến giáo dục pháp luật và xây dựng thói quen, ý thức pháp luật sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Nền giáo dục Việt Nam phải là nền giáo dục của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, hướng tới một xã hội học tập. Hệ thống giáo dục không chỉ dành cho tuổi trẻ mà còn dành cho tất cả mọi người để học tập suốt đời, trong đó học theo trường lớp chính quy và không chính quy đều có thể đạt được trình độ mong muốn về kiến thức và kỹ năng. Nhà nước cần tạo cơ chế mạnh dạn huy động nguồn lực và trí tuệ từ nhân dân để phát triển giáo dục và có chính sách bảo đảm bình đẳng giữa trường công lập và trường ngoài công lập. Gắn chặt hơn nữa mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. 3.2. Hoàn thiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học Muốn hoàn thiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học ở Việt Nam hiện Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP 47 CHÑNH SAÁCH nay thì trước hết phải hoàn thiện hình thức pháp luật về giáo dục đại học. Hệ thống pháp luật về giáo dục đại học của nước ta vẫn chưa ngang tầm với đòi hỏi của thực tiễn hoạt động giáo dục đại học về số lượng và chất lượng; còn thiếu tính toàn diện, chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chồng chéo, không thống nhất, thậm chí mâu thuẫn, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Chưa kịp phản ánh, điều chỉnh các hoạt động của giáo dục đại học. Để thực hiện hoạt động giáo dục đại học thì hàng năm phải có hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành từ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành có liên quan ban hành để điều chỉnh các hoạt động của giáo dục đại học. Trong Nghị quyết số 50/2010/QH12 ngày 19/6/2010 của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và bản đảm chất lượng đào tạo đối với giáo dục đại học đã khẳng định: “Những hạn chế, bất cập nêu trên trong giáo dục đại học là do hệ thống pháp luật về giáo dục đại học chưa hoàn thiện, việc hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục còn chậm; một số chính sách về giáo dục đại học ban hành chậm, chưa đồng bộ và chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời để phù hợp với thực tiễn...”. Mặt khác, để đảm bảo các quy định pháp luật hiện hành thống nhất, phù hợp Nghị quyết cũng yêu cầu Chính phủ “khẩn trương rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản dưới luật về giáo dục đại học; ban hành theo thẩm quyền hoặc chỉ đạo các bộ, cơ quan hữu quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần thiết, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp, ban hành Điều lệ trường đại học và Điều lệ trường cao đẳng”. Ngoài những vấn đề quy định trong Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học thì vấn đề khác sẽ được điều chỉnh bằng hệ thống văn bản dưới Luật như các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư... nhằm hướng dẫn, quy định cụ thể các quy định của Luật Giáo dục đại học và các nội dung thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và liên Bộ. Như vậy, cùng với Luật Giáo dục đại học là văn bản có giá trị pháp lý cao thì sẽ hình thành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất điều chỉnh tất cả các hoạt động của giáo dục đại học tạo nên một hệ thống pháp luật về giáo dục đại học. Bên cạnh việc hoàn thiện hình thức pháp luật về giáo dục thì cũng phải hoàn thiện nội dung pháp luật về giáo dục trong các trường đại học như: + Thể chế các quy định về quản lý giáo dục đại học theo hướng tăng quyền tự chủ, nâng cao trách nhiệm xã hội và thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các cơ sở giáo dục đại học; + Thể chế các quy định về giao chỉ tiêu tuyển sinh, phương pháp tuyển sinh, quản lý cấp phát bằng, chứng chỉ trên cơ sở tăng tính tự chủ tự chịu trách nhiệm của nhà trường trước người học và xã hội; + Quy định nội dung, phương pháp và chương trình giáo dục đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn lực có trình độ cao và hội nhập quốc tế; + Thể chế hóa các quy định về nhà giáo nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo là khâu then chốt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học; + Quy định quy hoạch mạng lưới và cơ cấu hệ thống giáo dục đại học nhằm đổi mới cơ bản, toàn diện cơ cấu đào tạo nhân lực có trình độ cao; + Quy định và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học, giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học trong lĩnh vực tài chính nhằm tạo điều kiện cho các trường chủ động xây dựng và phát triển; + Thể chế các quy định về nghiên cứu khoa học và công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học góp phần hội nhập với hệ thống giáo dục đại học khu vực và thế giới; + Thể chế các quy định về đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục để duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP48 CHÑNH SAÁCH 3.3. Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong các trường đại học Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước thì nhu cầu về nguồn nhân lực đòi hỏi ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, thì vai trò của giáo dục phải luôn được khẳng định và đặt đúng vị trí của nó, do đó việc thực hiện pháp luật về giáo dục phai ngang tầm với sự đòi hỏi của xã hội. Ở các trường đại học hiện nay vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục phải được xem là một hình thức tốt nhất để đưa pháp luật về giáo dục vào các trường, góp phần hạn chế, ngăn ngừa những vi phạm pháp luật về giáo dục, do đó, đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu và vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật về giáo dục trong đời sống xã hội. Vì vậy, việc đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục là biện pháp chủ yếu để đạt được yêu cầu về nhận thức nói trên. Từ khi có Chỉ thị số 02/CT-TTg, Quyết định số 03/QĐ-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thì công tác này đang từng bước được đẩy mạnh, góp phần tích cực vào việc nâng cao ý thức pháp luật của người dân, động viên hướng dẫn nhân dân hăng hái tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội. Các ngành, các cấp đã quan tâm trong việc củng cố tổ chức, huy động cán bộ, xây dựng cơ chế, tạo điều kiện về cơ sở vật chất để thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nhưng cũng phải thấy được rằng, mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và xét về mặt tổng thể tuy có những hoạt động sôi nổi, rộng khắp với sự nỗ lực thường xuyên của nhiều tổ chức, cơ quan từ Trung ương đến địa phương nhưng hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, tác động của phổ biến, giáo dục pháp luật đối với việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, đến trật tự kỷ cương pháp luật, cũng còn những hạn chế. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do hiện nay việc thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn còn dàn trải, chưa hình thành được cơ chế, phương thức hữu hiệu, tập trung nguồn lực cũng như huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Để công tác này thực sự đổi mới về chất, cần phải có bước đi mạnh mẽ, phải có trọng tâm, trọng điểm trong kế hoạch tổng thể về phổ biến, giáo dục pháp luật để góp phần thực hiện các mục tiêu, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001- 2010 được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, “...công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần được tiếp tục đổi mới về phương thức thực hiện để có những chuyển biến tích cực đáp ứng những đòi hỏi của thời kỳ phát triển mới của đất nước ta“2. Nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhu cầu quản lý xã hội nói chung và quản lý lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói riêng cần có những văn bản pháp luật sát hợp để điều chỉnh các quan hệ xã hội này. Thực tiễn ở nước ta hiện có rất nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực giáo dục; điều đó đòi hỏi phải phổ biến, giáo dục như thế nào cho đạt hiệu quả, để pháp luật đó đi vào cuộc sống và được bảo đảm thực hiện. 3.4. Kiện toàn tổ chức và hoạt động về giáo dục trong các trường đại học Trong sự nghiệp giáo dục, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng, là nòng cốt để nâng cao chất lượng giáo dục. Trong thời gian qua, các trường đại học đã quan tâm xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục khá đông đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ mới thì Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP 49 CHÑNH SAÁCH đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn những hạn chế và bất cập. Vì vậy, các cơ quan quản lý giáo dục cần phải xây dựng và thực hiện quy chế làm việc theo yêu cầu cải cách thủ tục hành chính. Các trường học và cơ sở đào tạo khác tổ chức và hoạt động theo quy định của Điều lệ nhà trường phù hợp với chức năng nhiệm vụ và ngành nghề đào tạo, các trường học theo hướng tinh gọn đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn xem đây là hình thức chủ yếu của việc thực hiện pháp luật về giáo dục trong trường học để nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục. Công khai minh bạch công tác thu chi tài chính, kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với các hành vi tham nhũng, sử dụng kinh phí giáo dục sai mục đích, lợi dụng hoạt động giáo dục để vụ lợi. Hiệu quả thực hiện pháp luật về giáo dục phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như phẩm chất đạo đức, lòng nhiệt thành và trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Do vậy, việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức, tận tụy với nghề nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho sự bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về giáo dục. Bên cạnh việc củng cố tổ chức bộ máy và cán bộ, cần quan tâm đẩy mạnh các hoạt động trọng tâm trong nhà trường như việc tổ chức giảng dạy và học tập theo chương trình, kế hoạch và tổ chức các hoạt động giáo dục khác để nâng cao chất lượng toàn diện cho thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo dục. Quan tâm củng cố các tổ chức trong nhà trường như tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên; các tổ chuyên môn, hội đồng khoa học, hội đồng giáo dục... nhằm tạo một sức mạnh tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ của nhà trường. Để đảm bảo việc thực hiện pháp luật về giáo dục trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay được tốt hơn, đòi hỏi phải xây dựng và thực hiện chu đáo công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý để bảo đảm hoàn thành được nhiệm vụ. Công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải đảm bảo các yêu cầu sau: + Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng một cách thường xuyên cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ theo nhu cầu thực hiện nhiệm vụ của ngành. Chăm lo công tác phát triển Đảng trong đội ngũ giáo viên của các trường để làm hạt nhân trong thực hiện pháp luật về giáo dục. + Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa cho đội ngũ giáo viên theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm tạo nền tảng cho việc thực hiện nâng cao chất lượng toàn diện trong tất cả các ngành học. Kết hợp chuẩn hóa đại trà với đào tạo chuyên sâu để nâng chuẩn cho đội ngũ giáo viên giảng dạy các lớp chọn, bồi dưỡng sinh viên giỏi. + Cần có những chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Thực hiện tốt việc quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên để khắc phục tình trạng thiếu giáo viên dạy các môn pháp luật, quốc phòng, thể dục... có chính sách thỏa đáng trong việc giải quyết chế độ cho số giáo viên lớn tuổi, năng lực chuyên môn yếu không đáp ứng được với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. + Các cơ quan quản lý giáo dục, các nhà trường cần phối hợp với Công đoàn Giáo dục đẩy mạnh phong trào thi đua “hai tốt” và các cuộc vận động “dân chủ hóa nhà trường”, “kỷ cương - tình thương - trách nhiệm”, giúp đỡ đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục rèn luyện, trau dồi phấm chất đạo đức, bản lĩnh sư phạm, giữ gìn hình ảnh tốt đẹp về người thầy giáo, cô giáo, thực sự là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo. 2 Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp: Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, NXB Thanh niên, H., (1997). Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP50 CHÑNH SAÁCH (Xem tiÕp trang 64)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftang_cuong_thuc_hien_phap_luat_ve_giao_duc_trong_cac_truong.pdf
Tài liệu liên quan