Nghiên cứu của Zaharieva và cộng sự trên 18
bệnh nhân mang biến thể p.Trp284Ser từ 12 gia
đình gốc Phi, Trung Đông, Afro- Caribean,
Comorian và Nam Mỹ báo cáo phản ứng TTNAT
với thuốc gây mê ở 10 bệnh nhân sau khi gây mê
toàn thân. Giải trình tự toàn bộ exon cho thấy
xuất hiện phức hợp đột biến c.851G> C và c.997-
1G> T [10]. Đa hình c.851G> C dẫn đến thay thế
axit amin Tryptophan (Trp) ở vị trí 284 bằng
Serine (Ser). Trp284 nằm trong miền SH3 của
STAC3, nơi chứa vị trí liên kết đóng vai trò trung
gian cho sự hình thành phức hợp protein [10, 35].
Vùng liên kết này nằm trong vùng kỵ nước chứa
các axit amin có vòng thơm. Các axit amin này
đóng vai trò quan trọng trong liên kết với các axit
min của SH3 [36]. Nghiên cứu của Zaharieva và
cộng sự chỉ ra Trp284Ser không làm phá vỡ cấu
trúc protein STAC3 nhưng có thể làm suy yếu
hoạt tính của protein. Tương tự, c.997-1G> T
dẫn đến mất bốn axit amin Ile333- Val334-
Val335-Gln336 trong miền SH3 thứ 2 của
STAC3, làm ảnh hưởng đến cấu trúc của miền
SH3 thứ 2 và cấu trúc của protein STAC3. Các
nghiên cứu ở bệnh nhân là người Mỹ bản địa
cũng như trên các quốc gia khác đã chứng minh
bệnh nhược cơ bẩm sinh liên quan đến gen
STAC3. Chính vì vậy, phân tích gen STAC3 nên
được đưa vào công việc chẩn đoán bệnh nhân
thuộc bất kì dân tộc nào có biểu hiện bệnh cơ
bẩm sinh, đặc biệt nếu có báo cáo về tiền sử
TTNAT [10]. Các đột biến chủ yếu của gen
STAC3 liên quan tới cơ chế bệnh sinh TTNAT
và bệnh cơ tim bẩm sinh được tổng hợp trong
Bảng 6.
5. Kết luận
Tổng quan này cung cấp một cái nhìn tổng
thể về phản ứng Tăng thân nhiệt ác tính và các
gen liên quan đến phản ứng này. Từ đó làm cơ
sở trong chẩn đoán và điều trị tình trạng mẫn cảm
với TTNAT. Gần đây, ca lâm sàng đầu tiên về
phản ứng TTNAT ở Việt Nam được phát hiện và
điều trị tại Bệnh viện E. Điều đó đã chứng tỏ
TTNAT là một yếu tố nguy cơ nghiêm trọng đối
với những người nhạy cảm với thuốc gây mê
đường hô hấp. Mặc dù tỉ lệ tử vong đã giảm đáng
kể trong những năm qua nhưng cần cảnh giác
trong phẫu thuật gây mê toàn thân bằng thuốc
gây mê đường hô hấp để có biện pháp ứng phó
và điều trị kịp thời.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng thân nhiệt ác tính và các gen đáp ứng thuốc liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
1
Review Article
Malignant Hyperthermia and Gene Polymorphisms Related to
Inhaled Anesthesia Drug Response
Vu Thi Thu Hang1, Nguyen Thi Thuy Mau1, Nguyen Tran Thuy2,
Le Ngoc Thanh1,2, Pham Thi Hong Nhung1, Dinh Doan Long1,
Nguyen Thi Thu Hoai1,3, Vu Thi Thom1,*
1VNU School of Medicine and Pharmacy, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2E hospital, 89 Tran Cung, Nghia Tan, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
3 Vietnam National Heart Institute, Bach Mai Hospital, 78 Giai Phong, Dong Da, Hanoi, Vietnam
Received 20 February 2020
Revised 24 February 2020; Accepted 20 March 2020
Abstract: Malignant hyperthermia (MH) is a clinical response happened to patient who is sensitive
with inhaled anesthesia drug that could cause suddently death. Many previous studies showed that
malignant hyperthermia strongly related to genetic background of patients including RYR1,
CACNA1S or STAC3 gene polymorphisms. With the development of high technology such as next
generation sequencing, scientists found that 37 to 86 percents of MH cases had RYR1 mutations and
approximately 1 percent of those had CACNA1S mutations. Gene analysis testing was recommended
to apply for patient with MH medical history or MH patient’s family relations.
Keywords: Malignant hyperthermia, inhaled anesthesia, RYR1, CACNA1S, STAC3.*
________
* Corresponding author.
E-mail address: thomtbk5@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4209
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
2
Tăng thân nhiệt ác tính và các gen đáp ứng thuốc liên quan
Vũ Thị Thu Hằng1, Nguyễn Thị Thúy Mậu1, Nguyễn Trần Thủy2,
Lê Ngọc Thành1,2, Phạm Thị Hồng Nhung1, Đinh Đoàn Long1,
Nguyễn Thị Thu Hoài1,3, Vũ Thị Thơm1,*
1Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Bệnh viện E, 89 Trần Cung, Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
3Viện tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, 78 Giải Phóng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 20 tháng 02 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 24 tháng 02 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 3 năm 2020
Tóm tắt: Tăng thân nhiệt ác tính (TTNAT) là một trong những phản ứng hiếm gặp xảy ra ở những
người nhạy cảm với thuốc gây mê đường hô hấp và/hoặc thuốc giãn cơ, có thể dẫn đến tử vong.
Hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra có mối liên hệ giữa các biến thể trong một số gen liên quan tới
TTNAT. Cùng với sự tiến bộ của công nghệ giải trình tự gen, các nhà khoa học đã công bố ba gen
có liên quan đến TTNAT, ứng dụng trong tư vấn chẩn đoán và điều trị. Các gen RYR1, CACNA1S
và STAC3 lần lượt được giải trình tự và đưa ra các biến thể có liên quan đến TTNAT. Trong đó,
khoảng 37-86% các trường hợp được báo cáo mang đột biến trong gen RYR1, khoảng 1% mang đột
biến trong gen CACNA1S. Đột biến trong gen STAC3 được xác định có liên quan đến bệnh nhược
cơ bẩm sinh. Phân tích các gen này được các nhà nghiên cứu khuyến cáo nên được đưa vào công
việc chẩn đoán ở bệnh nhân thuộc bất kì dân tộc nào có biểu hiện TTNAT, đặc biệt nếu có báo cáo
về tiền sử TTNAT của gia đình.
Từ khóa: Phản ứng tăng thân nhiệt ác tính, thuốc gây mê đường hô hấp, RYR1, CACNA1S, STAC3.
1. Giới thiệu*
Thuốc gây mê đường hô hấp là một loại
thuốc cơ bản được sử dụng trong gây mê hiện
đại, trong gây mệ phẫu thuật và giảm đau [1, 2].
Các thuốc gây mê đường hô hấp halogen được
kể đến như halothane, enflurane, isoflurane,
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: thomtbk5@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4209
sevoflurane và desflurane. Hầu hết các thuốc này
đều có tác dụng mạnh với chỉ số điều trị dao động
từ 2 đến 4, chính vì vậy, việc sử dụng chúng đòi
hỏi kiến thức về tính chất hóa lý, dược động học
và tác dụng của chúng trên các hệ thống khác
nhau để ngăn ngừa tác dụng phụ. Các tác dụng
phụ có thể xảy ra trên hệ thần kinh trung ương,
V.T.T. Hang et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
3
hệ hô hấp, tim mạch, tác động trên cơ, gây ra
nhiều hội chứng bệnh lý khác nhau, trong đó có
Tăng thân nhiệt ác tính – một tác dụng phụ rất
hiếm gặp trên gây mê toàn thân [1].
Tăng thân nhiệt ác tính là một rối loạn gen
liên quan đến thuốc (pharmacogenetic) của hệ cơ
xương liên quan đến tăng chuyển hóa mất kiểm
soát, có thể gây tử vong, xuất hiện ở những người
nhạy cảm với một số thuốc gây mê đường hô hấp
và thuốc giãn cơ nhất định [3, 4]. Thuốc gây mê
đường hô hấp halogen và suxamethonium làm
giãn cơ gây ra phản ứng TTNAT, dẫn đến tăng
tốc độ chuyển hóa cơ và hoạt động co bóp tạo ra
nhiệt, từ đó thiếu oxy máu, nhiễm toan chuyển
hóa, tiêu cơ vân và tăng nhiệt độ cơ thể nhanh
chóng [5]. Phản ứng TTNAT hiếm xảy ra với tỉ lệ
dao động từ 1:100000 – 1:250000, tuy nhiên, tỉ
lệ mắc các bất thường về mặt di truyền là một
trong 400 cá thể [4]. Các nghiên cứu đã chỉ ra
rằng phản ứng này liên quan đến các biến thể gây
bệnh trong gen CACNA1S, RYR1 hoặc STAC3,
được xác định bằng các xét nghiệm di truyền
phân tử với công nghệ giải trình tự gen thế hệ
mới [6, 7]. Từ đó cho phép sàng lọc nhanh chóng
và hiệu quả các nhóm bệnh nhân cho các biến thể
liên quan đến TTNAT đồng thời làm cơ sở cho
chẩn đoán [6].
Khoảng 37 – 86% trong tổng số các trường
hợp TTNAT được báo cáo có liên quan đến đột
biến trong gen RYR1 [8]. Gen thứ hai chứa các
biến thể gây bệnh liên quan đến TTNAT là
CACNA1S, chiếm khoảng 1% trường hợp được
báo cáo [9]. Đột biến trong gen STAC3 được xác
định có liên quan đến bệnh nhược cơ bẩm sinh
[10]. Hiện tại, trong các gen đáp ứng liên quan
đến thuốc được báo cáo, hơn 200 biến thể RYR1
được tìm thấy cùng với phản ứng TTNAT, nhưng
chỉ có 35 biến thể RYR1 và 2 biến thể CACNA1S
được công nhận là đủ đặc điểm chức năng
(www.emhg.org) để sử dụng trong xét nghiệm di
truyền chẩn đoán cho TTNAT [7].
Mục đích của bài viết được thực hiện nhằm
giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về phản
ứng tăng thân nhiệt ác tính gây ra bởi thuốc gây
mê đường hô hấp và/hoặc thuốc giãn cơ và các
gen đáp ứng thuốc liên quan.
2. Sinh lý bệnh của tăng thân nhiệt ác tính
Cơ chế bệnh sinh trong TTNAT liên quan đến
rối loạn vận chuyển Ca2+, dẫn đến sự tăng cấp
tính nồng độ Ca2+ nội bào cơ vân mà nguyên
nhân chính là do chức năng bất thường của cặp
kích thích – co cơ (excitation – contraction)
(EC). Thành phần thứ nhất của phức hợp EC là
hệ thống ống T, màng của hệ thống ống T có
Dihydropyridin Receptor (DHPR) nhạy cảm với
sự thay đổi điện thế của màng bao cơ và được mã
hóa bởi gen CACNA1S. Các DHPR có cấu trúc
giống với kênh Canxi loại L, nhưng không có
chức năng như kênh Canxi mà hoạt động như 1
bộ phận nhận cảm điện thế. Thành phần còn lại
của phức hợp EC là màng lưới nội chất của tế
bào cơ có chứa kênh phóng thích Canxi của võng
nội bào, chính là các Ryanodine Receptor
(RyR1) được mã hóa bởi gen RYR1. Khi điện thế
động truyền đến bộ phận cảm điện thế của ống T
(DHPR) sẽ gây ra thay đổi hình dạng của DHPR.
Hiện tượng này sẽ đưa đến sự thay đổi hình dạng
của RyR1, Ca2+ từ võng nội bào đổ vào bào tương
cơ vân theo sự chênh lệch nồng độ [11-13].
Bệnh lý kênh Ca2+, tiểu đơn vị Alpha 1
CACNAS1 là bộ phận nhận cảm điện thế tương
tác với RyR1 gây ra kích thích – co cơ (EC) [9].
Trong giai đoạn đầu của TTNAT, sự tăng phóng
thích Ca2+ được bù trừ bằng cách tăng bắt lại
canxi nhằm duy trì cân bằng nội môi. Tuy nhiên,
một trong các cơ chế của sự bắt lại này phụ thuộc
vào ATP. Sự suy giảm nhanh chóng ATP dẫn
đến sự gia tăng chuyển hóa glucose, tăng tiêu thụ
oxygen, tăng sản sinh carbon dioxide làm tăng
thân nhiệt và kích thích tim – hô hấp. Khi không
kiểm soát được sự phóng thích Ca2+ thì nồng độ
Ca2+ nội bào tăng dẫn đến sự hoạt hóa các sợi cơ
và sự co cơ. Sự gắn kết liên tục actin và myosin
trong co cơ cần sự thoái giáng ATP dẫn đến
chuyển hóa tăng, nhiệt sinh ra càng nhiều, dẫn
đến sự co cơ càng tăng, tăng ly giải cơ vân. Hậu
quả của ly giải cơ vân dẫn đến tăng kali máu gặp
trong loạn nhịp tim, tăng myoglobin gặp trong
suy thận cấp [14].
V.T.T. Hang et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
4
3. Biểu hiện lâm sàng, chẩn đoán và điều trị
tăng thân nhiệt ác tính
3.1. Biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán
TTNAT có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào
trong quá trình gây mê, hoặc trong vòng 1 giờ
hay lâu hơn sau khi chấm dứt quá trình gây mê.
Nếu succinylcholine được sử dụng trong quá
trình gây mê thì các biểu hiện lâm sàng diễn ra
nhanh chóng hơn, nhịp tim nhanh, tăng nồng độ
CO2 cuối thì thở ra (ETCO2), tăng huyết áp, tăng
nhiệt độ rõ rệt và rối loạn nhịp tim diễn ra trong
vòng 5 đến 10 phút.
Hình 1. Biểu hiện lâm sàng đặc trưng của bệnh
TTNAT [3].
Trong hầu hết các trường hợp, các biểu hiện
đầu tiên của TTNAT thường xảy ra trong phòng
mổ. Dấu hiệu ban đầu điển hình thường là ET
CO2 tăng, nhịp tim nhanh, sau đó huyết áp có
thể tăng thường liên quan đến rối loạn nhịp thất
gây ra bởi kích thích hệ thống thần kinh giao cảm
từ việc tăng nồng độ CO2 trong máu, nhiễm toan
chuyển hóa. Sau đó, bệnh nhân có biểu hiện cứng
cơ, tăng trương lực cơ và nhiệt độ cơ thể có thể
tăng 1-20 cứ sau 5 phút. Đôi khi ở một số bệnh
nhân có biểu hiện suy thận (myoglobin niệu) và
đông máu nội mạch lan tỏa [15, 16]. Một số rối
loạn trên lâm sàng phổ biến được tổng kết trong
Hình 1.
Việc chẩn đoán TTNAT được dựa trên các
biểu hiện lâm sàng hoặc các thử nghiệm trong
phòng thí nghiệm. Những đặc trưng quan trọng
trong chẩn đoán TTNAT là sự gia tăng không giải
thích được của nồng độ ETCO2, cứng cơ, nhịp
tim nhanh, toan chuyển hóa, tăng thân nhiệt và
tăng kali máu. Sự thay đổi trong thứ tự và thời
điểm xuất hiện các biểu hiện làm cho chẩn đoán
lâm sàng khó khăn hơn [4].
Thang điểm lâm sàng.
Thang điểm lâm sàng được xây dựng bởi
Larach và cộng sự để hỗ trợ cho chẩn đoán lâm
sàng. Các yếu tố được liệt kê trong Bảng 1. Mỗi
yếu tố được cho một số điểm khác nhau. Tuy
nhiên, thang điểm thiếu độ nhạy do không phải
yếu tố nào cũng được kiểm tra trong mỗi ca bệnh
[4]. Tổng cộng 50 điểm hầu như chắc chắn là
TTNAT, tổng cộng từ 35-49 thì rất có thể là
TTNAT.
Phương pháp chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
Thí nghiệm co rút.
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán TTNAT hiện
nay là thí nghiệm co rút in vitro, dựa vào sự co
rút của các sợi cơ trong sự xuất hiện của
halothane hoặc caffeine. Hai dạng của thí
nghiệm này đã được phát triển là IVCT do Hội
tăng thân nhiệt ác tính châu Âu (EMHG) và
CHCT do Hội tăng thân nhiệt ác tính Bắc Mỹ
(NAMHG). Theo protocol của EMHG, một
người được cho là nhạy cảm với TTNAT khi cả
kết quả của thí nghiệm với halothane và caffeine
đều dương tính. Một người được cho là không
nhạy cảm với TTNAT khi kết quả của cả 2 thí
nghiệm đều âm tính. Một người cũng được chẩn
đoán là nhạy cảm với TTNAT khi kết quả của 1
trong 2 thí nghiệm là dương tính và được biểu thị
là MHS(h) hoặc MHS(c). Protocol của NAMHG
cũng tương tự nhưng có sự khác biệt ở nồng độ
sử dụng và một số thông số. Protocol của EMHG
đạt độ nhạy 99% và độ đặc hiệu 94%; trong khi
của NAMHG lần lượt là 97% và 78%. Độ đặc
hiệu của thí nghiệm này có thể bị ảnh hưởng bởi
các rối loạn thần kinh cơ không liên quan đến
TTNAT [4].
IVCT rất đắt đỏ, chỉ được thực hiện ở các
trung tâm thử nghiệm chuyên biệt và có thể thu
được kết quả dương tính giả hoặc âm tính giả [4].
Tăng nồng độ Ca2+ nội
bào trong cơ vân
Tăng chuyển hóa
Tăng huyết áp
Giảm oxy máu
Nhịp tim nhanh
Toan chuyển hóa
Cạn kiệt ATP
Tăng thân nhiệt
Tiêu cơ vân
Tăng nồng độ CK và
K+ trong huyết thanh
Loạn nhịp tim
Thiếu máu cục bộ
Suy thận
V.T.T. Hang et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
5
Bảng 1. Các tiêu chí được dùng trong thang điểm lâm sàng cho bệnh TTNAT [17].
Quá trình Biểu hiện Điểm
1. Độ cứng a. Cứng cơ tổng quát (không có rung mình do hạ thân
nhiệt, trong hoặc ngay sau khi dùng thuốc gây mê dạng
hít)
15
b. Co thắt Masseter ngay sau khi dùng succinylcholine 15
2. Suy nhược
cơ bắp
a. Tăng CK > 20,000 IU sau khi dùng thuốc mê có
succinylcholine
15
b. Tăng CK > 10,000 IU sau khi dùng thuốc mê không có
succinylcholine
15
c. Nước tiểu màu cola trong giai đoạn phẫu thuật 10
d. Myoglobin trong nước tiểu > 60 μg/L 5
e. Myoglobin huyết thanh > 170 μg/L 5
f. K+ trong máu /huyết tương/huyết thanh > 6 mEq/L
(không có suy thận)
3
3. Nhiễm toan
hô hấp
a. PETCO2 > 55 mmHg với sự lọc máu bằng dưỡng khí
được kiểm soát tốt
15
b. PaCO2 động mạch > 60 mmHg với sự lọc máu bằng
dưỡng khí được kiểm soát tốt
15
c. PETCO2 > 60 mmHg với sự lọc máu bằng dưỡng khí tự
phát
15
d. PaCO2động mạch > 65 mmHg với sự lọc máu bằng
dưỡng khí tự phát
15
e. Tăng CO2 máu bất thường 15
f. Thở nhanh bất thường 10
4. Tăng thân
nhiệt
a. Tăng thân nhiệt nhanh bất thường 15
b. Tăng thân nhiệt bất thường > 38.8 °C (101.8 °F) trong
giai đoạn phẫu thuật
10
5. Liên quan
tim
a. Nhịp xoang nhanh bất thường 3
b. Nhịp tim nhanh hoặc rung tâm thất 3
Xét nghiệm di truyền phân tử.
Giải trình tự DNA mang đến phương án thay
thế cho IVCT, chỉ yêu cầu mẫu máu. Trong khi
giải trình tự DNA truyền thống tốn nhiều thời
gian và công sức, sự xuất hiện của giải trình tự
gen thế hệ mới (NGS) cung cấp một công cụ
nhanh, năng suất cao với chi phí hiệu quả cho
chẩn đoán và tìm kiếm các biến thể [4].
Bảng 2. Xét nghiệm di truyền phân tử dùng trong chẩn đoán TTNAT [3]
Gen Tỷ lệ TTNAT được quy cho các
biến thể gây bệnh trong gen
Tỷ lệ các biến thể gây bệnh được phát hiện bằng
phương pháp
Phân tích trình tự Phân tích sự xóa/sao
chép gen đích
CACNA1S ~1% ~100% Chưa biết
RYR1 50%-60% ~100% 2 họ
STAC3 <1% ~100% Chưa biết
Chưa biết Tới 40% Chưa có dữ liệu
V.T.T. Hang et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
6
3.2. Điều trị tăng thân nhiệt ác tính
Bảng 3. Điều trị nguyên nhân và điều trị triệu chứng trong đợt TTNAT cấp [6, 18]
Điều trị nguyên nhân Điều trị triệu chứng
Dừng tác nhân gây TTNAT, ngắt kết nối với
máy hóa hơi.
Thông báo cho bác sĩ phẫu thuật để kết thúc
phẫu thuật càng sớm càng tốt.
Nếu phẫu thuật không thể dừng lại, sử dụng
gây mê đường tĩnh mạch.
Tăng thể tích hô hấp mỗi phút 2-4 lần với
oxy 100% ở luồng khí cao nhất.
Ổn định huyết động học và bắt đầu liệu
pháp chống loạn nhịp tim nếu cần thiết.
Bắt đầu sử dụng dantrolene 2.5 mg/kg. Hạ nhiệt bên trong và bên ngoài.
Tiếp tục gây mê với thuốc không có tác
nhân gây TTNAT.
Mở rộng theo dõi huyết động, chèn động
mạch và tĩnh mạch chủ nếu cần.
Tiếp tục sử dụng dantrolene sau 5 đến 10
phút cho tới khi trạng thái lâm sàng ổn định.
Điều trị toan chuyển hóa, sử dụng thuốc lợi
tiểu bắt buộc.
4. Một số gen đáp ứng liên quan đến thuốc gây
tăng thân nhiệt ác tính
4.1. Gene RYR1
Gen RYR1 là gen mã hóa thụ thể ryanodine –
kênh giải phóng Ca2+ của lưới cơ tương trong cơ
vân. Đây được cho là gen chính liên quan đến
TTNAT với 189 biến thể được xác định
(www.emhg.org truy cập lần cuối ngày 31 tháng
12 năm 2016) [7, 14]. Gen RYR1 đã được giải
trình tự và nhân bản vào năm 1990, gen này nằm
trền nhiễm sắc thể 19q13.2, chứa 106 exon và mã
hóa cho một protein dài 5038 axit amin [19, 20].
Khoảng 34 – 86% trong các trường hợp TTNAT
được báo chứa các biến thể gây bệnh của gen này
[8]. Đây là một gen lớn với nhiều biến thể có liên
quan đến tính nhạy cảm với TTNAT, tuy nhiên,
chỉ một số ít trong số các biến thể của RYR1 được
chứng minh là gây bệnh. Chính vì vây, hội
TTNAT châu Âu (EMHG) đã thiết lập một bộ
tiêu chí đối với các biến thể di truyền liên quan
đến TTNAT được đưa vào chẩn đoán di truyền
cho TTNAT. Kết quả là chỉ có 34 biến thể được
đưa vào chẩn đoán trong 189 biến thể được báo
cáo (www.emhg.org) [8, 21, 22].
Trong một nghiên cứu của Miller và cộng sự
trên 770 gia đình được xác nhận nhạy cảm với
TTNAT tại Anh thông qua đánh giá IVCT dương
tính. Các mẫu DNA được cung cấp từ ít nhất một
thành viên trong 697 gia đình. Các biến thể RYR1
có liên quan đến TTNAT đã được xác định thông
qua giải trình tự gen thế hệ mới trong 25 gia đình.
Ngoài 31 biến thể trước đó đã được sử dụng
trong chẩn đoán TTNAT (www.emhg.org), hơn
29 trong 147 biến thể RYR1 có khả năng gây
bệnh được tìm thấy trong ít nhất một gia đình
(Bảng 4). Trong đó, 25 biến thể được đề xuất sử
dụng trong chẩn đoán di truyền. Tất cả các biến
thể này được tìm thấy ở trạng thái dị hợp tử ngoại
trừ p.Arg3772Gln [8]. Thêm vào đó, nghiên cứu
của Merrit và cộng sự đã công bố thêm 5 biến thể
khác (p.Arg2336His, p. Arg2355Trp, p.
Glu3014Lys, p.Gly3990Val và p.Val4849Ile)
được sử dụng trong chẩn đoán di truyền xác định
nhạy cảm với TTNAT [21]. Trong nghiên cứu
mới công bố năm 2019, nhóm nhà khoa học tại
Đại học Quốc gia Hà Nội đã chỉ ra vai trò của đa
hình c.7048G>A (p.Ala2350Thr) gen RYR1 trên
một ca lâm sàng tăng thân nhiệt ác tính sau phẫu
thuật thay van tim [23].
4.2. Gen CACNA1S
CACNA1S là gen thứ hai có đa hình gây bệnh
liên quan đến nhạy cảm TTNAT. Đây là gen nằm
trên nhiễm sắc thể 1q [5], mã hóa tiểu đơn vị alpha
– 1S (CAv1.1) của thụ thể dyhydropyridine
(DHPR) nằm trên hệ thống ống T. Tiểu đơn vị
alpha – 1S tạo thành kênh ion, chứa vị trí liên kết
với phối tử và các miền phân tử tương tác với các
tiểu đơn vị khác, đóng vai trò rất quan trọng đối với
cảm biến điện thế dẫn đến giải phóng Ca2+ [7, 24].
Khoảng 1% các trường hợp TTNAT được báo cáo
V.T.T. Hang et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
7
mang đột biến về gen CACNA1S. Hiện tại, sáu đột
biến CACNA1S có ý nghĩa lâm sàng liên quan với
TTNAT đã được xác định (Bảng 5). Ngoài ra, còn
các biến thể CACNA1S khác có thể đơn độc hoặc
kết hợp với các gen khác gây ảnh hưởng đến cân
bằng nội môi, liên quan đến TTNAT [9].
Bảng 4. Các biến thể RYR1 xuất hiện hơn 1 lần trong 770 gia đình nghiên cứu ở Anh [8].
Thay đổi nucleotide Thay đổi amino acid Số gia đình Giá trị P
c.479A>G p.Glu160Gly 2 <1×10-7
c.529C>T p.Arg177Cys 10 <1×10-7
c.641C>T p.Thr214Met 4 <1×10-7
c.1202G>T p.Arg401His 2 <1×10-7
c.1598G>A p.Arg533His 2 <1×10-7
c.1615T>G p.Phe539Val 2 <1×10-7
c.3166G>C p.Asp1056His 2 0.0012
c.4763C>T p.Pro1588Leu 2 0.0061
c.5024T>C p.Leu1675Pro 3 <1×10-7
c.5183C>T p.Ser1728Phe 8 <1×10-7
c.6612C>G p.His2204Gln 5 <1×10-7
c.6961A>G p.Ile2321Val 3 0.031
c.7084G>A p.Glu2362Lys 2 <1×10-7
c.7089C>G p.Cys2363Trp 2 <1×10-7
c.7090T>G p.Phe2364Val 2 <1×10-7
c.7291G>T p. Asp2431Tyr 3 <1×10-7
c.7879G>A p.Val2627Met 5 <1×10-7
c.8026C>T p.Arg2676Trp 3 <1×10-7
c.9152G>A p.Arg3051His 2 0.048
c.10252A>G p.Asn3418Asp 2 <1×10-7
c.11708G>A p.Arg3903Gln 2 <1×10-7
c.11315G>A p.Arg3772Gln 7 (2 đồng hợp tử) <1×10-7
c.11958C>G p.Asp3986Glu 6 <1×10-7
c.12149C>A p.Ser4050Tyr 2 <1×10-7
c.12700G>T p.Val4234Leu 5 <1×10-7
c.14210G>A p.Arg4737Gln 7 <1×10-7
c.14471T>C p.Leu4824Pro 3 <1×10-7
c.14678G>A p.Arg4893Gln 3 <1×10-7
c.14918C>T p.Pro4973Leu 3 <1×10-7
Dữ liệu hệ gen dược lý PharmGKB đã chỉ
định mức độ 3 về khả năng gây TTNAT cho
rs1800559 (p.Arg1086His) sau khi sử dụng
thuốc gây mê đường hô hấp và succinylcholine
[9, 25]. Monnier và cộng sự đã chỉ ra biến thể
p.Arg1086His trong gen CACNA1S có liên quan
đến TTNAT. Nghiên cứu này được tiến hành trên
một gia đình người Pháp gồm 12 cá nhân được
chẩn đoán nhạy cảm với TTNAT và 6 người bình
thường [26]. Trong một nghiên cứu ở Bắc Mỹ
trên 154 người bình thường và 112 người nhạy
cảm với TTNAT, đột biến p.Arg1086His không
xuất hiện ở nhóm người bình thường và được tìm
thấy ở 2 cá thể có quan hệ huyết thống trong
nhóm TTNAT [27]. PharmGKB cũng chỉ ra bằng
chứng gây bệnh cấp độ 3 của rs772226819
(p.Arg174Trp) liên quan đến việc sử dụng
halothane hoặc succinylcholine [9]. Đột biến
p.Arg174Trp được xác định có liên quan đến
TTNAT bởi Carpenter và cộng sự khi tiến hành
V.T.T. Hang et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
8
nghiên cứu trên 50 bệnh nhân TTNAT. Sự biến
đổi p.Arg174Trp đã gây ra sự thay đổi điện tích
của axit amin thành dạng không phân cực. Axit
amin này nằm trong miền phân đoạn S4 của
dyhydropyridine, do đó sự thay đổi điện tích làm
thay đổi cơ chế cảm biến điện thế, dẫn đến phá
vỡ sự cân bằng canxi nội bào [5]. Mặc dù không
được chú thích trong PharmGKB,
p.Arg1086Cys và p.Arg1086Ser đột biến
(rs80338782) có thể liên quan đến TTNAT.
Toppin và cộng sự đã báo cáo trường hợp của
một bệnh nhân TTNAT có kiểu gen đồng hợp tử
đột biến p.Arg1086Ser [28]. Nhiều nghiên cứu
đã cung cấp các bằng chứng về mối liên quan
giữa các biến thể gen CACNA1S với TTNAT khi
sử dụng thuốc gây mê đường hô hấp hoặc thuốc
succinylcholine. Dựa trên những thông tin này,
việc sử dụng thuốc gây mê halogen và/hoặc
succinylcholine chống chỉ định ở những bệnh
nhân mẫn cảm với TTNAT mang bất kỳ đột biến
nào trong sáu đột biến CACNA1S gây bệnh
(Bảng 5) [9].
Bảng 5. Các biến thể của CACNA1S có ý nghĩa lâm sàng đối với bệnh TTNAT [9].
Biến thể trên
protein
Biến thể trên
cDNA mã
CACNA1S
Vị trí Đa hình đơn
nucleotite (tần
số alen đột biến)
Tác động của alen đột biến.
p.Arg174Trp c.520C>T
(CGG>TGG)
Phân đoạn cảm biến
điện thế IS4
rs772226819
(chưa biết)
Alen T trội hoàn hoàn và gây
bệnh so với Alen C.
p.Arg1086Cys c.3256C>T
(CGT>TGT
CGC>TGC)
Vùng nội bào liên
kết vùng III và IV
rs80338782
(0.0002)
Alen T trên sợi mã hóa có thể là
tác nhân gây bệnh so với Alen
C.
p.Arg1086Ser c.3256C>A
(CGT>AGT
CGC>AGC)
Vùng nội bào liên
kết vùng III và IV
rs80338782
(0.0002)
Alen A trên sợi mã hóa là trội
hoàn hoàn và gây bệnh so với
Alen C.
p.Arg1086His c.3257G>A
(CGC>CAC
CGU>CAU)
Vùng nội bào liên
kết vùng III và IV
rs1800559
(chưa biết)
Alen A trên sợi mã hóa là trội
hoàn hoàn và gây bệnh so với
Alen G.
p.Arg1086Leu c.3257G>T
(CGt > CTT
CGC>CTC
CGA>CTA
CGG>CTG)
Vùng nội bào liên
kết vùng III và IV
rs1800559
(chưa biết)
Alen T trên sợi mã hóa là trội
hoàn hoàn và gây bệnh so với
Alen G.
p.Thr1354Ser c.4060A>T
(ACA>AGT)
Vùng ngoại bào IV
S5- vùng lõi S6
rs145910245
(0.00080)
Alen T trên sợi mã hóa có thể là
tác nhân gây bệnh so với Alen
A; biến thể Alen T lành tính
trong mất cân bằng liên kết với
một biến thể gây bệnh không bị
phát hiện.
4.3 Gen STAC3
Horstick và cộng sự đã chỉ ra một đột biến ở
gen STAC3 (p.Trp284Ser) là cơ sở di truyền của
bệnh nhược cơ (Native American myopathy) của
người Mỹ bản địa và liên quan với tính nhạy cảm
TTNAT [7, 29]. Bệnh nhược cơ là một rối loạn tự
phát đặc trưng bởi yếu cơ bẩm sinh, chậm phát
triển vận động, mẫn cảm với TTNAT, co rút
nhiều khớp và các đặc điểm bất thường trên
khuôn mặt như vòm miệng, khuôn mặt dài và
hẹp [30]. Hoạt động bình thường của protein
chứa SH3 và miền giàu cysteine 3 mã hóa bởi
gen STAC3 là cần thiết cho sự phối hợp hiệu quả
của thụ thể dihydropyridine và thụ thể ryanodine
[7, 10]. Gần đây, các nhà nghiên cứu đã chứng
minh rằng STAC3 tương tác với vùng Cav1.1
II-III của thụ thể DHPR [25, 28, 31, 32], có vai
trò quan trọng đối với liên kết với RYR1 và với
ECC [33, 34].
V.T.T. Hang et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
9
Bảng 6. Các biến thể của STAC3 có ý nghĩa lâm sàng đối với bệnh TTNAT.
Biến thể trên
protein
Biến thể trên cDNA
mã CACNA1S
Đa hình đơn Tác động của alen đột biến
p.Trp284Ser c.851G>C rs140291094 Đột biến nhầm nghĩa, tác động tới kênh
canxi liên quan tới bệnh lý TTNAT và
bệnh cơ tim bẩm sinh.
p.Lys288Ter c.862A>T rs371720347 Đột biến vô nghĩa làm biến đổi vùng SH3
thứ nhất của protein STAC3 ở bệnh nhân
cơ tim bẩm sinh.
- c.432+4A>T rs751033943 Xảy ra ở vùng cắt nối trên intron 4 trên
gen tạo ra sản phẩm mARN bất thường,
qua đó tạo ra protein bất thường liên quan
tới bệnh cơ tim bẩm sinh.
p.Leu255fs c.761_762delCTCT rs773050511 Đột biến xóa một vài nucleotide dẫn tới
ảnh hưởng cấu trúc STAC3 trong bệnh
TTNAT và bệnh cơ tim.
Ile333-Val334-
Val335-
Gln336
c.997-1G>T - Xảy ra ở exon 12 của gen ảnh hưởng
vùng SH3 thứ hai của protein STAC3 và
tới hoạt động của kênh canxi liên quan tới
bệnh lý TTNAT và bệnh cơ tim bẩm sinh.
Nghiên cứu của Zaharieva và cộng sự trên 18
bệnh nhân mang biến thể p.Trp284Ser từ 12 gia
đình gốc Phi, Trung Đông, Afro- Caribean,
Comorian và Nam Mỹ báo cáo phản ứng TTNAT
với thuốc gây mê ở 10 bệnh nhân sau khi gây mê
toàn thân. Giải trình tự toàn bộ exon cho thấy
xuất hiện phức hợp đột biến c.851G> C và c.997-
1G> T [10]. Đa hình c.851G> C dẫn đến thay thế
axit amin Tryptophan (Trp) ở vị trí 284 bằng
Serine (Ser). Trp284 nằm trong miền SH3 của
STAC3, nơi chứa vị trí liên kết đóng vai trò trung
gian cho sự hình thành phức hợp protein [10, 35].
Vùng liên kết này nằm trong vùng kỵ nước chứa
các axit amin có vòng thơm. Các axit amin này
đóng vai trò quan trọng trong liên kết với các axit
min của SH3 [36]. Nghiên cứu của Zaharieva và
cộng sự chỉ ra Trp284Ser không làm phá vỡ cấu
trúc protein STAC3 nhưng có thể làm suy yếu
hoạt tính của protein. Tương tự, c.997-1G> T
dẫn đến mất bốn axit amin Ile333- Val334-
Val335-Gln336 trong miền SH3 thứ 2 của
STAC3, làm ảnh hưởng đến cấu trúc của miền
SH3 thứ 2 và cấu trúc của protein STAC3. Các
nghiên cứu ở bệnh nhân là người Mỹ bản địa
cũng như trên các quốc gia khác đã chứng minh
bệnh nhược cơ bẩm sinh liên quan đến gen
STAC3. Chính vì vậy, phân tích gen STAC3 nên
được đưa vào công việc chẩn đoán bệnh nhân
thuộc bất kì dân tộc nào có biểu hiện bệnh cơ
bẩm sinh, đặc biệt nếu có báo cáo về tiền sử
TTNAT [10]. Các đột biến chủ yếu của gen
STAC3 liên quan tới cơ chế bệnh sinh TTNAT
và bệnh cơ tim bẩm sinh được tổng hợp trong
Bảng 6.
5. Kết luận
Tổng quan này cung cấp một cái nhìn tổng
thể về phản ứng Tăng thân nhiệt ác tính và các
gen liên quan đến phản ứng này. Từ đó làm cơ
sở trong chẩn đoán và điều trị tình trạng mẫn cảm
với TTNAT. Gần đây, ca lâm sàng đầu tiên về
phản ứng TTNAT ở Việt Nam được phát hiện và
điều trị tại Bệnh viện E. Điều đó đã chứng tỏ
TTNAT là một yếu tố nguy cơ nghiêm trọng đối
với những người nhạy cảm với thuốc gây mê
đường hô hấp. Mặc dù tỉ lệ tử vong đã giảm đáng
kể trong những năm qua nhưng cần cảnh giác
trong phẫu thuật gây mê toàn thân bằng thuốc
gây mê đường hô hấp để có biện pháp ứng phó
và điều trị kịp thời.
V.T.T. Hang et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
10
Tài liệu tham khảo
[1] G. Torri, Inhalation anesthetics: a review, Minerva
Anestesiologica 76 (2010) 215–228.
[2] N. Kassiri, S. Ardehali, F. Rashidi, S. Hashemian,
Inhalational anesthetics agents: The pharmacokinetic,
pharmacodynamics, and their effects on human body,
Biomed. Biotechnol. Res. J. BBRJ 2 (2018) 173.
https://doi.org/10.4103/bbrj.bbrj_6618.
[3] H. Rosenberg, N. Sambuughin, S. Riazi, R. Dirksen,
Malignant Hyperthermia Susceptibility, in: M.P.
Adam, H.H. Ardinger, R.A. Pagon, S.E. Wallace, L.J.
Bean, K. Stephens, A. Amemiya (Eds.),
GeneReviews, University of Washington, Seattle,
Seattle (WA), 19932020.
(accessed February 2, 2020).
[4] H. Rosenberg, N. Pollock, A. Schiemann, T. Bulger,
K. Stowell, Malignant hyperthermia: a review,
Orphanet J. Rare Dis 10 (2015) 93.
https://doi.org/10.1186/s13023-015-0310-1.
[5] D. Carpenter, C. Ringrose, V. Leo, A. Morris, R.L.
Robinson, P.J. Halsall, P.M. Hopkins, M.-A. Shaw,
The role of CACNA1S in predisposition to malignant
hyperthermia, BMC Med. Genet 10 (2009) 104.
https://doi.org/10.1186/1471-2350-10-104.
[6] S. Riazi, N. Kraeva, P.M. Hopkins, Updated guide for
the management of malignant hyperthermia, Can. J.
Anaesth. J. Can. Anesth 65 (2018) 709–721.
https://doi.org/10.1007/s12630-018-1108-0.
[7] S. Riazi, N. Kraeva, P.M. Hopkins, Malignant
Hyperthermia in the Post-Genomics Era: New
Perspectives on an Old Concept, Anesthesiology 128
(2018) 168–180.
https://doi.org/10.1097/ALN.0000000000001878.
[8] [D.M. Miller, C. Daly, E.M. Aboelsaod, L. Gardner,
S.J. Hobson, K. Riasat, S. Shepherd, R.L. Robinson,
J.G. Bilmen, P.K. Gupta, M.-A. Shaw, P.M. Hopkins,
Genetic epidemiology of malignant hyperthermia in
the UK, BJA Br. J. Anaesth 121 (2018) 944–952.
https://doi.org/10.1016/j.bja.2018.06.028.
[9] T.A. Beam, E.F. Loudermilk, D.F. Kisor,
Pharmacogenetics and pathophysiology of CACNA1S
mutations in malignant hyperthermia, Physiol. Genomics
49 (2017) 81–87.
https://doi.org/10.1152/physiolgenomics.00126.2016.
[10] I.T. Zaharieva, A. Sarkozy, P. Munot, A. Manzur, G.
O’Grady, J. Rendu, E. Malfatti, H. Amthor, L.
Servais, J.A. Urtizberea, O.A. Neto, E. Zanoteli, S.
Donkervoort, J. Taylor, J. Dixon, G. Poke, A.R.
Foley, C. Holmes, G. Williams, M. Holder, S. Yum,
L. Medne, S. Quijano-Roy, N.B. Romero, J. Fauré, L.
Feng, L. Bastaki, M.R. Davis, R. Phadke, C.A. Sewry,
C.G. Bönnemann, H. Jungbluth, C. Bachmann, S.
Treves, F. Muntoni, STAC3 variants cause a
congenital myopathy with distinctive dysmorphic
features and malignant hyperthermia susceptibility,
Hum. Mutat 39 (2018) 1980–1994.
https://doi.org/10.1002/humu.23635.
[11] A.F. Dulhunty, The voltage-activation of contraction
in skeletal muscle, Prog. Biophys. Mol. Biol 57
(1992) 181–223.
https://doi.org/10.1016/0079-6107(92)90024-Z.
[12] C. Franzini-Armstrong, A.O. Jorgensen, Structure and
Development of E-C Coupling Units in Skeletal Muscle,
Annu. Rev. Physiol 56 (1994) 509–534.
https://doi.org/10.1146/annurev.ph.56.030194.002453.
[13] D.H. MacLennan, M. Abu-Abed, C. Kang, Structure-
function relationships in Ca(2+) cycling proteins, J.
Mol. Cell. Cardiol 34 (2002) 897–918.
https://doi.org/10.1006/jmcc.2002.2031.
[14] H. Rosenberg, M. Davis, D. James, N. Pollock, K.
Stowell, Malignant hyperthermia, Orphanet J. Rare Dis 2
(2007) 21. https://doi.org/10.1186/1750-1172-2-21.
[15] S.M. Karan, F. Crowl, S.M. Muldoon, Malignant
hyperthermia masked by capnographic monitoring,
Anesth. Analg 78 (1994) 590–592.
https://doi.org/10.1213/00000539-199403000-00029.
[16] M.G. Larach, G.A. Gronert, G.C. Allen, B.W.
Brandom, E.B. Lehman, Clinical presentation,
treatment, and complications of malignant
hyperthermia in North America from 1987 to 2006,
Anesth. Analg 110 (2010) 498–507.
https://doi.org/10.1213/ANE.0b013e3181c6b9b2.
[17] M.G. Larach, A.R. Localio, G.C. Allen, M.A.
Denborough, F.R. Ellis, G.A. Gronert, R.F. Kaplan,
S.M. Muldoon, T.E. Nelson, H. Ording, H.
Rosenberg, B.E. Waud, D.J. Wedel, A Clinical
Grading Scale to Predict Malignant Hyperthermia
Susceptibility, Anesthesiology 80 (1994) 771–779.
https://doi.org/10.1097/00000542-199404000-00008.
[18] D. Schneiderbanger, S. Johannsen, N. Roewer, F.
Schuster, Management of malignant hyperthermia:
diagnosis and treatment, Ther. Clin. Risk Manag 10
(2014) 355–362.
https://doi.org/10.2147/TCRM.S47632.
[19] R. Robinson, D. Carpenter, M.-A. Shaw, J. Halsall, P.
Hopkins, Mutations in RYR1 in malignant
hyperthermia and central core disease, Hum. Mutat 27
(2006) 977–989.
https://doi.org/10.1002/humu.20356.
[20] M.L. Alvarellos, R.M. Krauss, R.A. Wilke, R.B.
Altman, T.E. Klein, PharmGKB summary: very
important pharmacogene information for RYR1,
Pharmacogenet. Genomics 26 (2016) 138–144.
https://doi.org/10.1097/FPC.0000000000000198.
[21] A. Merritt, P. Booms, M.-A. Shaw, D.M. Miller, C.
Daly, J.G. Bilmen, K.M. Stowell, P.D. Allen, D.S.
Steele, P.M. Hopkins, Assessing the pathogenicity of
RYR1 variants in malignant hyperthermia, BJA Br. J.
V.T.T. Hang et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
11
Anaesth 118 (2017) 533–543.
https://doi.org/10.1093/bja/aex042.
[22] P.M. Hopkins, H. Rüffert, M.M. Snoeck, T. Girard,
K.P.E. Glahn, F.R. Ellis, C.R. Müller, A. Urwyler,
European Malignant Hyperthermia Group, European
Malignant Hyperthermia Group guidelines for
investigation of malignant hyperthermia
susceptibility, Br. J. Anaesth 115 (2015) 531–539.
https://doi.org/10.1093/bja/aev225.
[23] N.T. Thuy, L.N. Thanh, N.T.T. Mau, N.H. Hoang,
N.T.K. Lien, D.D. Long, N.T. Bình, D.A. Tien, N.C.
Huu, N.T. Hieu, P.T.H. Nhung, V.T. Thom, Whole
exome sequencing revealed a pathogenic variant in a
gene related to malignant hyperthermia in a
Vietnamese cardiac surgical patient: A case report,
Ann. Med. Surg 48 (2019) 88–90.
https://doi.org/10.1016/j.amsu.2019.10.030.
[24] B. Neuhuber, U. Gerster, F. Döring, H. Glossmann, T.
Tanabe, B.E. Flucher, Association of calcium channel
α1S and β1a subunits is required for the targeting of
β1a but not of α1S into skeletal muscle triads, Proc.
Natl. Acad. Sci. U. S. A 95 (1998) 5015–5020.
https://doi.org/10.1073/pnas.95.9.5015.
[25] M. Whirl-Carrillo, E.M. McDonagh, J.M. Hebert, L.
Gong, K. Sangkuhl, C.F. Thorn, R.B. Altman, T.E.
Klein, Pharmacogenomics Knowledge for
Personalized Medicine, Clin. Pharmacol. Ther 92
(2012) 414–417.
https://doi.org/10.1038/clpt.2012.96.
[26] N. Monnier, V. Procaccio, P. Stieglitz, J. Lunardi,
Malignant-hyperthermia susceptibility is associated
with a mutation of the alpha 1-subunit of the human
dihydropyridine-sensitive L-type voltage-dependent
calcium-channel receptor in skeletal muscle, Am. J.
Hum. Genet 60 (1997) 1316–1325 .
https://doi.org/10.1086/515454.
[27] S.L. Stewart, K. Hogan, H. Rosenberg, J.E. Fletcher,
Identification of the Arg1086His mutation in the
alpha subunit of the voltage-dependent calcium
channel (CACNA1S) in a North American family
with malignant hyperthermia, Clin. Genet 59 (2001)
178–184.
https://doi.org/10.1034/j.1399 0004.2001.590306.x.
[28] P.J. Toppin, T.T. Chandy, A. Ghanekar, N. Kraeva,
W.S. Beattie, S. Riazi, A report of fulminant
malignant hyperthermia in a patient with a novel
mutation of the CACNA1S gene, Can. J. Anaesth. J.
Can. Anesth 57 (2010) 689–693.
https://doi.org/10.1007/s12630-010-9314-4.
[29] E.J. Horstick, J.W. Linsley, J.J. Dowling, M.A.
Hauser, K.K. McDonald, A. Ashley-Koch, L. Saint-
Amant, A. Satish, W.W. Cui, W. Zhou, S.M. Sprague,
D.S. Stamm, C.M. Powell, M.C. Speer, C. Franzini-
Armstrong, H. Hirata, J.Y. Kuwada, Stac3 is a
component of the excitation-contraction coupling
machinery and mutated in Native American
myopathy, Nat. Commun 4 (2013) 1952.
https://doi.org/10.1038/ncomms2952.
[30] D.S. Stamm, A.S. Aylsworth, J.M. Stajich, S.G.
Kahler, L.B. Thorne, M.C. Speer, C.M. Powell,
Native American myopathy: Congenital myopathy
with cleft palate, skeletal anomalies, and
susceptibility to malignant hyperthermia, Am. J. Med.
Genet. A 146A (2008) 1832–1841.
https://doi.org/10.1002/ajmg.a.32370.
[31] A. Polster, B.R. Nelson, S. Papadopoulos, E.N. Olson,
K.G. Beam, Stac proteins associate with the critical
domain for excitation–contraction coupling in the II–
III loop of CaV1.1, J. Gen. Physiol 150 (2018) 613–
624. https://doi.org/10.1085/jgp.201711917.
[32] S.M. Wong King Yuen, M. Campiglio, C.-C. Tung,
B.E. Flucher, F. Van Petegem, Structural insights into
binding of STAC proteins to voltage-gated calcium
channels, Proc. Natl. Acad. Sci 114 (2017) E9520–
E9528.
https://doi.org/10.1073/pnas.1708852114.
[33] M. Grabner, R.T. Dirksen, N. Suda, K.G. Beam, The
II-III loop of the skeletal muscle dihydropyridine
receptor is responsible for the Bi-directional coupling
with the ryanodine receptor, J. Biol. Chem 274 (1999)
21913–21919.
https://doi.org/10.1074/jbc.274.31.21913.
[34] J. Nakai, T. Tanabe, T. Konno, B. Adams, K.G. Beam,
Localization in the II-III loop of the dihydropyridine
receptor of a sequence critical for excitation-
contraction coupling, J. Biol. Chem 273 (1998)
24983–24986.
https://doi.org/10.1074/jbc.273.39.24983.
[35] C.J. Morton, I.D. Campbell, SH3 domains. Molecular
“Velcro,” Curr. Biol. CB 4 (1994) 615–617.
https://doi.org/10.1016/s0960-9822(00)00134-2.
[36] A. Zafra-Ruano, I. Luque, Interfacial water molecules
in SH3 interactions: Getting the full picture on
polyproline recognition by protein-protein interaction
domains, FEBS Lett 586 (2012) 2619–2630.
https://doi.org/10.1016/j.febslet.2012.04.057.
V.T.T. Hang et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-12
12
Danh mục từ viết tắt
ATP: Adenosine Triphosphate.
ADP: Adenosine diphosphat.
Ca2+: Calcium ion.
CACNA1S: Gen mã hóa tiểu đơn vị alpha – 1S của thụ thể dihydropyridine.
CHCT (The caffeine halothane contracture test): Thí nghiệm co rút với halothane hoặc caffeine.
Cav1.1: tiểu đơn vị alpha – 1S (1S).
DHPR: thụ thể dihydropyridine.
ET CO2 (End – tidal CO2): Áp lực hay nồng độ CO2 cuối kì thở ra.
IVCT (In vitro contracture testing): Thí nghiệm co rút in vitro.
NGS (Next generation sequencing): Giải trình tự thế hệ mới.
NAMHG: The North American Malignant Hyperthermia Group.
PaCO2: Áp lực riêng phần của khí CO2 trong máu động mạch.
PETCO2 (Pressure of end – tidal CO2): Áp lực riêng phần khí CO2 cuối kì thở ra.
RYR1: Gen mã hóa thụ thể ryanodine.
RYR1: thụ thể ryanodine.
STAC3: gen mã hóa protein STAC3.
STAC3: SH3 và protein chứa miền 3 giàu cysteine.
TTNAT: Tăng thân nhiệt ác tính.
PharmGKB: The Pharmacogenomics Knowledgebase.
EMHG: The European Malignant Hyperthermia Group.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tang_than_nhiet_ac_tinh_va_cac_gen_dap_ung_thuoc_lien_quan.pdf