Giảm thời gian nằm viện là một thuận lợi
thực sự của nhóm đặt dẫn lưu trong bằng thông
JJ. Woo và Farnsworth báo cáo thời gian nằm
viện trung bình của nhóm đặt thông là 5,9 ngày
so với 12,4 ngày ở nhóm không có thông(14).
Trong một nghiên cứu, tác giả dùng feeding
tube số 6-8 Fr với nhiều lỗ ở 5 cm đoạn cuối
trong niệu quản và được đặt qua miệng nối đưa
ra ngoài qua chủ mô thận như một
nephrostomy, thời gian nằm viện từ 4-12 ngày(2).
Theo nghiên cứu của Nina George thì thời gian
nằm viện trung bình của nhóm đặt thông JJ là
2,6 ngày với đại đa số bệnh nhân xuất viện hậu
phẫu ngày thứ 2(8). Trong nghiên cứu này ngày
nằm viện trung bình là 6,2 ngày(5-7 ngày) so với
trước đây đặt thông ngoài thời gian nằm viện
trung bình từ 12-14 ngày.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo hình khúc nối bể thận niệu quản ở trẻ em có dùng thông jj, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 212
TẠO HÌNH KHÚC NỐI BỂ THẬN NIỆU QUẢN
Ở TRẺ EM CÓ DÙNG THÔNG JJ
Phạm Ngọc Thạch*, Hồ Minh Nguyệt*, Phan Tấn Đức*, Ngô Tấn Vinh*, Lê Tấn Sơn*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả tạo hình khúc nối bể thận- niệu quản trong bệnh thận nước ở trẻ em có dùng
thông JJ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả 105 trường hợp tạo hình khúc nối bể thận niệu
quản có đặt thông JJ xuôi dòng ở 102 bệnh nhi trong 3 năm từ tháng 2/2008 đến 10/2010. Các thông số về tuổi
chẩn đoán, tuổi phẫu thuật, biến chứng sớm và muộn sau phẫu thuật, thời gian dẫn lưu và thời gian nằm viện
đều được ghi nhận.
Kết quả: Biến chứng liên quan thông JJ gồm: 6 trường hợp (5,7%) tiểu máu thoáng qua trong giai đoạn
mang thông JJ, 5 trường hợp (4,7%) có thông lạc chỗ: 2 trường hợp đầu dưới thông JJ chạy xuống niệu đạo; 2
trường hợp đầu dưới thông nằm trong niệu quản; 1 trường hợp thông JJ lạc chỗ trong bàng quang, 1 trường hợp
đặt JJ gây chít hẹp khúc nối bàng quang niệu quản; 1 trường hợp JJ lạc chỗ nằm trong niệu quản phải mở bể thận
lấy thông. Kết quả chung: có 3/105 trường hợp (2,7%) cần mổ lại vì tắc lại khúc nối, 1/3 trường hợp này phải cắt
thận. 102/105 kết quả tốt. Thời gian nằm viện trung bình là 6,2 ngày. Thời gian theo dõi từ 6 tháng đến 3 năm.
Kết luận: Ngoài việc làm giảm biến chứng và thời gian nằm viện, thông JJ sử dụng trong tạo hình khúc nối
bể thận niệu quản ở trẻ em an toàn và hiệu quả.
Từ khóa: Tạo hình khúc nối bể thận niệu quản, thận ứ nước do hẹp khúc nối, niệu quản, thông JJ.
ABSTRACT
DISMEMBERED PYELOPLASTY USING JJ STENT IN CHILDREN
Pham Ngoc Thach, Ho Minh Nguyet, Phan Tan Duc, Ngo Tan Vinh, Le Tan Son
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 211 –215
Objective: The aim of this study is to evaluate the results of dismembered pyeloplasty in ureteropelvic
junction obstruction (UPJO) using JJ ureteric stent.
Materials and Methods: Records of 105 dismembered pyeloplasties in 102 consecutive patients with UPJO
who underwent pyeloplasty in a 3-year period from Feb 2008 to Oct 2010 at Children hospital No 2, were
reviewed retrospectively. All 105 cases, a JJ stent was passed in an antegrade fashion during the operation.
Records were reviewed for age at diagnosis, age at surgery, post-operative complication, post- operative drainage
and length of hospital stay.
Results: The follow-up period from 6 months to 3 years.
JJ stent-related complications include: 6 cases (5.7%) of transient hematuria, no requirement of blood
transfusion during the period brought JJ stent. 5 cases (4.7%) of stent displacement: 2 cases of stent running
down to urethra; 2 cases of stent in ureter; 1 case of ectopic JJ stent in bladder. 2 cases (1.8%) required re-
operation: 1 case of strictures of ureterovesical junction causing megaureter required ureteral reimplation; 1 case
of ectopic JJ in ureter (1 of 2 cases of ectopic aforementioned) required re-operations to open renal pelvis to
* Khoa Thận Niệu bệnh viện Nhi Đồng 2
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Phạm Ngọc Thạch ĐT: (84) 902 187 095 Email: dr.thachpham@yahoo.fr
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2011 213
withdraw the stent. The overall result: 102/105 cases of dismembered pyeloplasty with good results after the first
surgery accounted for 97.3% rate. Only 3 of 105 pyeloplasties (2.7%) required re-operation: 2 with good results, 1
case did not attend re-examination as patient living at a remote area causing kidney’s disfunction needing
nephrectomy. The average length staying in hospital was 6.2 days.
Conclusions: In addition to reducing complications and hospital stay, JJ stent is as the safe mode of drainage
in pyeloplasty in infants and children.
Keywords: Ureteropelvic junction- obstruction- stent - pyeloplasty - hydronephrosis- ureter.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật tạo hình bể thận niệu quản ngày
càng hoàn thiện về kỹ thuật trong việc điều trị
hẹp khúc nối bể thận niệu quản với tỉ lệ thành
công 90-95%(2). Tuy nhiên vấn đề dẫn lưu hệ
niệu hay không sau tạo hình khúc nối vẫn còn là
một tranh cãi. Khi quyết định dẫn lưu thì có
nhiều sự lựa chọn: dẫn lưu trong thận(1) hay dẫn
lưu từ thận ra ngoài(3). Hiện có nhiều phẫu thuật
viên bắt đầu thích đặt dẫn lưu trong thận hơn là
dẫn lưu ngoài thận(10,11,14). Mục tiêu của nghiên
cứu là phân tích kết quả của việc tạo hình khúc
bể thận niệu quản có dùng dẫn lưu trong bằng
thông JJ.
ĐỐI TƯỢNG –PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồi cứu hồ sơ các bệnh nhi nhập viện được
chẩn đoán và điều trị tạo hình khúc nối có đặt
thông JJ tại Bệnh viện Nhi đồng 2 từ tháng
2/2008 đến 10/2010.
Kỹ thuật
Các bệnh nhi được gây mê nội khí quản.
Chúng tôi sử dụng đường mổ hông lưng ngoài
phúc mạc, tạo hình bể thận niệu quản theo
Anderson-Hynes. Mặt sau của miệng nối bể
thận niệu quản được khâu mũi liên tục PDS 6/0,
stent JJ được đặt và kiểm tra đầu dưới cuộn
trong bàng quang trước khi thực hiện mũi may
liên tục đóng mặt trước miệng nối (hình 1). Dẫn
lưu hố thận bằng Minivax và được rút HPN1-2,
tất cả các bệnh nhi đều được đặt thông tiểu.
Kích thước thông từ 3 Fr đến 6 Fr, chiều dài từ
12 cm cho trẻ sơ sinh đến 32 cm cho trẻ lớn.
Trong suốt thời gian mang thông trẻ được dùng
kháng sinh dự phòng. Thông JJ được rút 6 tuần
sau phẫu thuật tạo hình bể thận bằng nội soi
bàng quang. Các yếu tố liên quan đến rò tiểu,
nhiễm khuẩn tiểu, thời gian nằm viện và sự tắc
nghẽn lại khúc nối và các biến chứng do việc đặt
thông JJ gây ra đều được ghi nhận. Thời gian
theo dõi từ 6 tháng đến 3 năm. Siêu âm kiểm tra
được thực hiện sau 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng sau mổ và sau đó là mỗi năm. Xạ hình
thận DTPA với test Lasix được chỉ định nếu trên
siêu âm có sự nghi ngờ độ ứ nước xấu hơn sau
mổ hoặc các vấn đề khác nghi ngờ sự tắc nghẽn
như đau bụng, nôn ói hoặc nhiễm khuẩn tiểu.
Kết quả tốt khi độ ứ nước thận cải thiện trên
siêu âm và không còn các triệu chứng lâm sàng
trước mổ.
Hình 1. Stent JJ đúng vị trí giữa bể thận và bàng
quang
KẾT QUẢ
Có tất cả 105 trường hợp tạo hình khúc nối
bể thận niệu quản ở 102 bệnh nhi được đặt
thông JJ xuôi dòng trong phẫu thuật.
Không có trường hợp nào bị dò nước tiểu
hay nhiễm khuẩn tiểu sau mổ.
Biến chứng liên quan thông JJ gồm: 6 trường
hợp (5,7%) có những đợt tiểu máu thoáng qua
tự lành không truyền máu trong giai đoạn mang
thông JJ, 5 trường hợp (4,7%) thông lạc chỗ: 2
trường hợp đầu dưới stent chạy xuống niệu đạo
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 214
sau khi rút thông tiểu, cả 2 trường hợp này đều
được đẩy ngược vào bàng quang dễ dàng; hai
trường hợp đầu dưới thông nằm trong niệu
quản, một phải mở bể thận lấy thông, một được
rút ra cùng với thông nephrostomy, trường hợp
này phẫu thuật viên đã khâu đầu trên thông JJ
với thông nephrostomy do bể thận dãn quá lớn;
1 trường hợp thông JJ lạc chỗ trong bàng quang.
Hai trường hợp (1,8%) phải mổ lại: một trường
hợp thao tác đặt JJ gây chít hẹp khúc nối bàng
quang niệu quản gây dãn niệu quản được mổ
cắm lại NQ; một trường hợp JJ lạc chỗ nằm
trong niệu quản (một trong 2 trường hợp lạc chỗ
NQ đã kể trên) phải mở bể thận lấy thông.
Kết quả chung: 102/105 trường hợp tạo hình
khúc nối bể thận niệu quản cho kết quả tốt ngay
sau lần mổ đầu tiên chiếm tỉ lệ 97,3%. Chỉ có 3
trong 105 trường hợp (2,7%) cần mổ lại vì tắc lại
khúc nối: 2 cho kết quả tốt, 1 trường hợp không
tái khám vì nhà xa sau đó thận mất chức năng
phải cắt thận.
Thời gian nằm viện trung bình là 6,2 ngày(5-
7 ngày).
Tất cả những dữ liệu dịch tễ quan trọng và
các dấu hiệu lâm sàng được liệt kê theo bảng 1
Bảng 1: Dữ liệu bệnh nhân
Tổng số bệnh nhi 102
> 1 tuổi 76% (n=78)
< 1 tuổi 24% (n=24)
Giới tính Nam 67%(n=68)
Nữ 33%(n=34)
Chẩn đoán trước sanh 26% (n=27)
Chẩn đoán sau sanh 74% (n=75)
Tuổi chẩn đoán sau sanh 1-15 tuổi(trung bình 6
tuổi)
Bên Phải 40%(n=41)
Trái 60%(n=64)
Triệu chứng của nhóm chẩn đoán sau sanh
Đau bụng 38,2%(n=39)
Nhiễm khuẩn tiểu 20,5%(n=21)
U bụng 12,7%(n=13)
Tiểu máu 1,9%(n=2)
Những bất thường đi kèm
Thận đơn 3%(n=3)
Thận móng ngựa 0,9%(n=1)
Thận đa nang 0,9%(n=1)
Trào ngược bàng quang niệu quản 7,8%(n=8)
Đã mổ tạo hình khúc nối thất bại 3,9%(n=4)
BÀN LUẬN
Mặc dù tạo hình bể thận niệu quản theo
Anderson-Hynes đã được chấp nhận là cách
điều trị chuẩn mực cho hẹp khúc nối bể thận
niệu quản nhưng sự tranh cãi liên quan đến vấn
đề dẫn lưu vẫn còn tiếp tục, nhất là ở trẻ em và
đặc biệt là ở các trẻ nhỏ khi đường kính của các
niệu quản ở chúng rất nhỏ. Riêng việc dẫn lưu
trong các trường hợp như phẫu thuật ở thận độc
nhất, phẫu thuật lại, nhiễm khuẩn tiểu, đài bể
thận dãn quá to, và những bệnh nhân có chức
năng thận kém là có sự đồng thuận(2,12).
Có rất nhiều loại dẫn lưu được mô tả trong y
văn như đặt thông mở thận ra da, thông dẫn lưu
niệu quản trong, thông dẫn lưu qua miệng nối
ra ngoài, có thể phối hợp các loại dẫn lưu này
hoặc không dẫn lưu gì cả(3,6). Nhiều tác giả công
nhận rằng việc dẫn lưu trong giúp giảm các biến
chứng và đặc biệt là giảm số ngày điều trị(8,9,10,14).
Một thuận lợi khác của đặt thông dẫn lưu trong
là giúp bệnh nhân được thoải mái tự do không
vướng víu khi nằm cũng như di chuyển, giúp
bệnh nhân sớm trở lại hoạt đồng bình thường.
Điều bất lợi của việc dẫn lưu trong là cần phải
nội soi lấy thông JJ ra, mặc dù thao tác này rất
đơn giản và bệnh nhân có thể về trong ngày.
Về vấn đề kỹ thuật đặt thông, trong những
trường hợp đặt khó khăn khi qua khúc nối dưới
bàng quang niệu quản, thì động tác căng nhẹ
niệu quản giúp làm thẳng khúc nối dưới giúp
thông qua dễ dàng, nếu thất bại chúng tôi sử
dụng Feeding tube số 5 có guide-wire giúp nong
miệng niệu quản dưới trước sau đó mới đặt
thông JJ, chúng tôi chưa gặp khó khăn nào với
kỹ thuật này.
Nhiễm khuẩn tiểu và dò nước tiểu là
những dấu hiệu tiên lượng xấu cho kết quả
lâu dài(14). Guys và cộng sự trong nghiên cứu
của mình đã đưa ra tỷ lệ dò trong phẫu thuật
tạo hình khúc nối là 6%(5). Wollin và cộng sự
trong bài báo cáo đã đưa ra tỷ lệ dò tiểu là
8,6% trong nhóm không đặt stent so với
không có trường hợp nào dò trong nhóm có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2011 215
đặt thông(13) Lê Tấn Sơn và cs có 2,4% dò nước
tiểu trong nhóm đặt nòng xuyên bể thận(7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết
quả tốt, không có trường hợp nào bị dò nước
tiểu sau mổ. Cũng theo Wollin thì tỷ lệ nhiễm
khuẩn tiểu ở nhóm có đặt thông JJ 10,5% cao
hơn so với nhóm không đặt thông là 2,4%(13).
Tuy nhiên kết quả này khác với kết quả của
chúng tôi, trong nghiên cứu của chúng tôi
không có trường hợp nào nhiễm khuẩn tiểu
sau phẫu thuật. Woo và Farnsworth chỉ dùng
dẫn lưu trong thay vì dùng cả thông dẫn lưu
qua miệng nối ra ngoài và nephrostomy, theo
cách này các tác giả nhận thấy loại bỏ hoàn
toàn dò tiểu và giảm nguy cơ nhiễm khuẩn
tiểu xuống chỉ còn 2,9%(14). Austin và cộng sự
trong nghiên cứu của mình vào năm 2000 đã
đưa ra tỷ lệ chít hẹp miệng nối sau mổ là
0,7%, các trường hợp này đều cần lưu stent
qua miệng nối hơn 30 ngày thì vai trò của
stent dẫn lưu trong rất hiệu quả, trong khi đó
stent dẫn lưu ngoài thông thường không thể
để quá 2 tuần vì nguy cơ nhiễm khuẩn(3).
Chúng tôi có 6 trường hợp(5,7%) có những
đợt tiểu máu thoáng qua tự lành không truyền
máu trong giai đoạn mang thông JJ. Biến chứng
chảy máu mà chúng tôi gặp chỉ thấy ở nhóm đặt
JJ trong năm đầu tiên vào thời điểm chỉ có thông
JJ loại 5Fr và 6Fr chiều dài từ 20 đến 32 cm,ít sự
lưa chọn cho trẻ nhỏ. Có phải chăng đây là biến
chứng gây ra do thông quá dài gây cuộn trong
bàng quang kích thích niêm mạc và thỉnh
thoảng gây chảy máu thoáng qua (hình 2).
Trong nhóm đặt thông 2 năm sau khi có đầy đủ
sự lưa chọn thì chúng tôi không còn ghi nhận
biến chứng này nữa.
Theo nghiên cứu của Elmalik, trong 58 bệnh
nhân được đặt stent thì có 5 thông bị lạc chỗ(4),
còn theo nghiên cứu của Woo thì có 1 thông bị
lạc chỗ trong 38 bệnh(14). Nghiên cứu của chúng
tôi có 5 trường hợp thông bị lạc chỗ chiếm tỉ lệ
4,7%(5/105), trong đó 2 thông lạc xuống niệu
đạo, 2 thông đầu dưới nằm trong niệu quản, và
1 thông nằm hoàn toàn trong bàng quang.
Hình 2 Stent JJ quá dài cuộn trong bàng quang
2 trường hợp (1,8%) phải mổ lại: 1 trường
hợp thao tác đặt JJ gây chít hẹp khúc nối bàng
quang niệu quản gây dãn niệu quản được mổ
cắm lại NQ, đây cũng là biến chứng tuy rất
hiếm gặp nhưng cũng được nhiều tác giả
khuyến cáo trong việc sử dụng thông JJ(1), cụ
thể thì đây là trường hợp sử dụng thông JJ 5
Fr cho trẻ 1 tháng tuổi, có thể đường kính của
thông tương đối lớn đã làm tổn thương miệng
nối bàng quang niệu quản; một trường hợp
khác phải mổ lại là JJ lạc chỗ nằm trong niệu
quản (một trong 2 trường hợp lạc chỗ NQ đã
kể trên) phải mở bể thận lấy thông.
Giảm thời gian nằm viện là một thuận lợi
thực sự của nhóm đặt dẫn lưu trong bằng thông
JJ. Woo và Farnsworth báo cáo thời gian nằm
viện trung bình của nhóm đặt thông là 5,9 ngày
so với 12,4 ngày ở nhóm không có thông(14).
Trong một nghiên cứu, tác giả dùng feeding
tube số 6-8 Fr với nhiều lỗ ở 5 cm đoạn cuối
trong niệu quản và được đặt qua miệng nối đưa
ra ngoài qua chủ mô thận như một
nephrostomy, thời gian nằm viện từ 4-12 ngày(2).
Theo nghiên cứu của Nina George thì thời gian
nằm viện trung bình của nhóm đặt thông JJ là
2,6 ngày với đại đa số bệnh nhân xuất viện hậu
phẫu ngày thứ 2(8). Trong nghiên cứu này ngày
nằm viện trung bình là 6,2 ngày(5-7 ngày) so với
trước đây đặt thông ngoài thời gian nằm viện
trung bình từ 12-14 ngày.
Kết quả chung, 102/105 trường hợp tạo hình
khúc nối bể thận niệu quản cho kết quả tốt ngay
sau lần mổ đầu tiên chiếm tỉ lệ 97,3%. Chỉ có 3
trong 105 trường hợp (2,7%) cần mổ lại vì tắc lại
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 216
khúc nối: 2 cho kết quả tốt, 1 trường hợp không
tái khám vì nhà xa sau đó thận mất chức năng
phải cắt thận.
Hiện nay với sự đầy đủ các kích thước thông
JJ từ 3 Fr đến 6 Fr, dài từ 12cm đến 32 cm, chúng
tôi có nhiều sự chọn lựa cho trẻ em cho dù là trẻ
sơ sinh hay là trẻ nhỏ. Chúng tôi có ống soi niệu
đạo bàng quang 7.5 Fr và 9.5 Fr nên việc rút JJ
không là vấn đề. Một bất tiện duy nhất trong đặt
thông JJ là bệnh nhi phải chịu một lần gây mê
thứ hai để rút thông. Tuy vậy so với những lợi
ích khác như ít biến chứng, thời gian nằm viện
ngắn thì bất tiện này chỉ là việc nhỏ, vì thế vẫn
có nhiều tác giả tiếp tục kiểu dẫn lưu này.
KẾT LUẬN
Có nhiều chọn lựa kiểu dẫn lưu trong tạo
hình khúc nối bể thận niệu quản ở trẻ em.
Thông JJ là một phương tiện an toàn và hiệu quả
vì ngoài việc làm giảm biến chứng gây chít hẹp
miệng nối do dò nước tiểu bệnh nhân sẽ rút
ngắn được thời gian nằm viện và không bị trở
ngại trong thời gian mang theo ống thông này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahmed S, Crankson S (1997). Non-intubeted pyeloplasty for
pelviureteric junction obstruction in children. Pediatr Surg
Int,12: 389-392.
2. Arda IS, Oguzkurt P, Sevmis S (2002). Transanastomotic stents
for dismembered pyeloplasty in children. Pediatr Surg Int 18:
115.
3. Austin PF, Cain MP, Rink RC (2000). Nephrostomy tube
drainage with pyeloplasty:is it necessarily a bad choice? J Urol
163: 1528.
4. Elmalik K, Chowdhuy MM, Capps SNJ (2008). Ureteric stents in
pyeloplasty: a help or a hindrance? J Pediatr Urol, 4: 275-279.
5. Guys JM, Borella F, Monfort G (1998). Ureteropelvic junction
obstruction: prenatal diagnosis and neonatal surgery in 47 cases.
J Pediatr Surg, 23: 156.
6. Hussain S, Frank JD (1994). Complications and length of
hospital stay following stented and unstented pediatric
pyeloplasties. Br J Urol, 73: 87.
7. Lê Tấn Sơn, Lê Công Thắng, Lê Thanh Hùng, Nguyễn Thị Đan
Trâm, Huỳnh Cao Nhân, Nguyễn Thị Trúc Linh (2011).
Transpelvic anastomotic stenting: a good option for diversion
after pyelolasty in children. J Pediatr Urol, 7: 363-366
8. Ninan GK , Sinha C, Patel R, Marri R (2009). Dismembered
pyeloplasty using double J stent in infants and children. Pediatr
Surg Int, 25: 191-194.
9. Ninan GK, Valeri H. (1998). Experience with double J stent in
infant pyeloplasty. BAPS abtracts, Bristol.
10. Olsen LH, Jorgensen TM (2004). Computer assisted pyeloplasty
in children: the retroperitoneal approach. J Urol, 171: 2629.
11. Rohrmann D, Snyder HMIII, Ducket JWJR (1997). The
operative management of recurrent ureteropelvic junction
obstruction. J Urol 158: 1257.
12. Thomas JC, Demarco RT, Adams MC et al (2005). Management
of the failed pyeloplasty : a contemporary review. J Urol 174:
2363.
13. Wollin MD, Witherringtor R, Carswell JJ (1989). Priorities in
urinary diversion following pyeloplasty. J Urol 142: 576.
14. Woo HH, Farnsworth RH (1996). Dismembered pyeloplasty in
infants under the age of 12 months. Br J Urol 77: 449.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tao_hinh_khuc_noi_be_than_nieu_quan_o_tre_em_co_dung_thong_j.pdf