Theo nghiên cứu của Petrus V.van Deventer trên 19/27 vú có động mạch ngực
ngoài cấp máu cho quầng núm vú [9]. Còn
trong nghiên cứu của chúng tôi, 51 vú xuất
hiện động mạch ngực ngoài (chiếm 80,6%).
11 vú vừa có động mạch ngực ngoài và động
mạch ngực ngoài phụ. Như vậy đại đa số các
vú có nguồn cấp máu đến từ vùng ngực ngoài
cho phức hợp quầng núm vú (có thể từ động
mạch ngực ngoài hoặc động mạch ngực
ngoài phụ hoặc đồng thời cả hai nguồn động
mạch). Trên lâm sàng, vai trò của mạch cũng
được chứng minh bằng tỷ lệ sống rất cao của
phức hợp quầng núm vú với kết quả sớm 57
(91,9%) quầng núm vú được cấp máu tốt, chỉ
có 5 vú (8,1%) phì đại khổng lồ với cuống
mạch rất dài có hiện tượng thiểu dưỡng nhẹ.
Nói cách khác động mạch cấp máu cho vạt
mang phức hợp quầng núm vú đáng tin cậy.
Các nghiên cứu đều cho thấy cảm giác của
phức hợp quầng núm vú là do các nhánh bì
trước và bì ngoài của các dây thần kinh liên
sườn từ 2 đến 7 chi phối và nhất là nghiên
cứu gần đây của Ingrid Schlenz (năm 2000)
nhấn mạnh đến vai trò cảm giác cho núm vú
của nhánh bì ngoài của dây thần kinh liên
sườn thứ 4 [10]. Trong nghiên cứu này, đại đa
số bệnh nhân (85,5%) đều trả lời “có” khi
được khám cảm giác xúc giác ngay sau phẫu
thuật. Điều này chứng tỏ vạt còn bảo tồn
được thần kinh cảm giác. Sau phẫu thuật 03
tháng và 6 tháng có 58 vú được khám có duy
nhất 1 vú (chiếm 1,72%) mất cảm giác toàn
bộ. Nghiên cứu trước đây duy nhất về độ
nhạy cảm ngực sau khi kỹ thuật thu gọn vú đã
được thực hiện bởi Cruz-Korchin với 30 bệnh
nhân, đánh giá cảm giác phân biệt 2 điểm sau
phẫu thuật 1 năm khả năng hồi phục cảm giác
là 80% [11]. Như vậy khả năng phục hồi cảm
giác của chúng tôi rất cao.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo hình thu gọn vú phì đại bằng vạt mang phức hợp quầng núm vú dựa trên trục mạch ngực ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 113 (4) - 2018 17
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TẠO HÌNH THU GỌN VÚ PHÌ ĐẠI BẰNG VẠT MANG PHỨC HỢP
QUẦNG NÚM VÚ DỰA TRÊN TRỤC MẠCH NGỰC NGOÀI
Tạ Thị Hồng Thúy1, Trần Thiết Sơn2, Phạm Thị Việt Dung3, Nguyễn Đình Hưng4
1; 2; 3Trường Đại học Y Hà Nội, 4Bệnh viện 198
Nhằm mục đích giới thiệu kỹ thuật mới trong phẫu thuật thu gọn vú phì đại bằng sử dụng vạt mang phức
hợp quầng núm vú dựa trên động mạch ngực ngoài. Tiến hành nghiên cứu trên 32 bệnh nhân nữ với 62 vú
phì đại được phẫu thuật sử dụng vạt trục mạch ngực ngoài mang phức hợp quầng núm vú tại Khoa Phẫu
thuật Tạo hình - Bệnh viện Xanh Pôn từ 01/2013 tới 10/2015. Trong đó phì đại mức độ nhiều với 52 vú
(83,87%), khổng lồ 4 vú (6,45%). Kích thước vạt mang phức hợp quầng núm vú lớn nhất có tỉ lệ dài /rộng
= 14/5, chiều dài vạt trung bình 10,61 ± 3,20 cm, chiều rộng vạt 6,20 ± 1,36 cm. Quầng núm vú được dịch
chuyển lên phía trên từ 6 - 22 cm. 100% quầng núm vú sống toàn bộ, 98,3% bệnh nhân hài lòng về hình thể
vú. Sau 6 tháng chỉ 1,72% rối loạn cảm giác quầng núm vú. Việc sử dụng vạt trục mạch ngực ngoài mang
phức hợp quầng núm vú trong thu gọn vú phì đại có sức sống cao và khả năng di chuyển rất linh động có
thể ứng dụng cho mọi mức độ vú phì đại và sa trễ.
Từ khóa: phì đại tuyến vú, động mạch ngực ngoài, thu gọn vú
Địa chỉ liên hệ: Tạ Thị Hồng Thúy, Trường Đại học Y Hà
Nội
Email: tahongthuy@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 09/5/2018
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phì đại tuyến vú là tình trạng bệnh lý khá
thường gặp. Bệnh lý này được thể hiện bởi sự
thay đổi hình dạng và tăng thể tích vú đặc biệt
là sự di chuyển xuống thấp của phức hợp
quầng núm vú. Ngoài việc gây mất cân đối về
thẩm mỹ, phì đại còn là nguyên nhân của các
di chứng như đau mỏi cổ, viêm loét vùng
ngực, gù vẹo cột sống,..gây ảnh hưởng khá
nặng nề tới chất lượng cuộc sống [1]. Phẫu
thuật thu gọn vú được nhắc đến trong y văn từ
những năm 1669 khi tác giả Velpeau thực
hiện phẫu thuật đơn giản cắt bỏ một phần
tuyến vú đơn thuần và không can thiệp gì vào
da hay quầng núm vú [2]. Cho đến đầu thế kỷ
XX thì phẫu thuật thu gọn vú mới thực sự phát
triển mạnh. Năm 1922, lần đầu tiên tác giả
Thorek mô tả phương pháp thu gọn vú và
chuyển quầng núm vú đến vị trí mới như một
mảnh ghép da rời [3]. Năm 1930, Schwartz-
mann người đầu tiên đề xuất kỹ thuật thu gọn
tuyến vú sử dụng vạt có mang phức hợp
quầng núm vú để chuyển dịch quầng núm vú
tới vị trí mới. Từ đó tới nay có rất nhiều
phương pháp sử dụng các loại cuống mạch
khác nhau dưới dạng vạt ngẫu nhiên [4]. Cùng
với sự phát triển của nghiên cứu giải phẫu vú,
các phẫu thuật viên đã nhận thấy vai trò của
hệ thống mạch cấp máu cho phức hợp quầng
núm vú. Một số tác giả điển hình là Claude. Lê
Quang đã sử dụng vạt ngực ngoài có mang
phức hợp quầng núm vú dưới dạng vạt tự do
trong tạo hình vú [5]. Nắm bắt ý tưởng đó,
chúng tôi đã thực hiện thu gọn vú dựa trên vạt
mang phức hợp quầng núm vú cuống liền dựa
trên động mạch ngực ngoài. Kỹ thuật này đã
được thực hiện tại bệnh viện Xanh Pôn từ
2007 đến nay. Tuy nhiên, xem lại y văn trong
nước và thế giới, chúng tôi chưa thấy công
trình nào nghiên cứu cụ thể về kỹ thuật này, vì
18 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
vậy bài báo này nhằm giới thiệu kỹ thuật này:
sử dụng vạt mang phức hợp quầng núm vú
dựa trên động mạch ngực ngoài trong tạo
hình thu gọn vú phì đại.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu gồm 32 bệnh nhân
nữ với 62 vú phì đại (từ mức độ vừa đến
khổng lồ), trong đó có 2 bệnh nhân chỉ phì đại
1 bên được phẫu thuật thu gọn vú sử dụng vạt
trục mạch ngực ngoài mang phức hợp quầng
núm vú tại khoa Phẫu thuật Tạo hình - Bệnh
viện Xanh Pôn từ ngày 01/01/2013 đến ngày
01/10/2015.
2. Phương pháp
- Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả
cắt ngang tiến cứu.
- Phương pháp
Chuẩn bị bệnh nhân: Đo thể tích vú, đánh
giá mức độ phì đại. Siêu âm Doppler màu xác
định đường đi, kích thước, độ nông sâu của
động mạch ngực ngoài tới cấp máu cho phức
hợp quầng núm vú. Trên cơ sở trục mạch
này, vẽ thiết kế đường mổ. Đường rạch da có
thể theo kỹ thuật đường sẹo thẳng, sẹo chữ J,
L hay chữ T. Các chỉ số đo nhằm đưa vị trí
quầng núm vú và thể tích vú về đúng với chỉ
số nhân trắc vú của phụ nữ Việt Nam bình
thường. Phức hợp quầng núm vú được thiết
kế đưa về vị trí cách dưới đòn 15-16 cm trên
đường trục của quầng núm vú (đường nối
giữa điểm bờ dưới xương đòn, cách đầu trong
xương đòn 5 cm với núm vú cùng bên).
Cuống vạt mang phức hợp quầng – núm vú là
vạt tổ chức dưới da, mỡ và một phần tuyến
vú. Động mạch ngực ngoài luôn chạy trong
vạt. Mức độ phì đại và sa trễ vú sẽ quyết định
kích thước của vạt mang phức hợp quầng
núm vú.
Phẫu thuật: Dưới gây mê nội khí quản,
rạch da theo thiết kế và bóc biểu bì tương ứng
phần thân vạt để lại da phức hợp quầng núm
vú. Dùng dao điện cắt bỏ phần da mỡ và
tuyến thừa phía dưới và phía trên trong của
vú. Phần tuyến được giữ lại để tạo thể tích vú
được gắn liền với vạt mang phức phợp quầng
núm vú. Sau khi cắt bỏ tuyến thừa, vạt mang
quầng núm vú được giải phóng hoàn toàn
khỏi nền vú, có thể di chuyển và cuộn dễ
dàng. Khi đó, phức hợp quầng núm vú được
đưa đến đúng vị trí giải phẫu và phần thân vạt
mang hầu như toàn bộ phần tuyến còn lại
được sắp xếp lại để dịch chuyển khối tuyến vú
lên trên. Khâu cố định vào cân cơ ngực lớn là
mũi khâu quyết định độ nhô cho vú và giữ ổn
định hình dáng vú. Khâu cố định quầng núm
vú ở vị trí mới. Khâu đóng da hai lớp. Vết mổ
cuối cùng là hình chữ T ngược, J hay L,
đường sẹo dọc.
Theo dõi và đánh giá kết quả sau mổ:
Đánh giá kết quả gần sau phẫu thuật dựa vào:
sức sống của phức hợp quầng núm vú, hình
dáng vú, sự cân đối 2 bên, cảm giác quầng
núm vú.
3. Xử lý số liệu: Phần mềm SPSS 22.0
với các thuật toán thống kê y học.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với sự cho
phép của Khoa Phẫu thuật Tạo hình, Bệnh viện
Xanh Pôn và được sự đồng ý của bệnh nhân.
III. KẾT QUẢ
Trong nghiên cứu 32 bệnh nhân với 62 vú
trong đó 30 bệnh nhân phì đại cả hai vú, 02
bệnh nhân phì đại một vú. Phì đại vú luôn gắn
TCNCYH 113 (4) - 2018 19
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
liền với quá trình sinh đẻ hoặc dậy thì: có 20 bệnh nhân (62,5%) khởi phát phì đại vú sau sinh, 12
bệnh nhân (37,5%) bị vú phì đại ngay sau quá trình dậy thì. Do đó, số bệnh nhân nằm trong độ
tuổi từ 21 - 30 tuổi là khá lớn, chiếm 44,8%.
Bảng 1. Mức độ phì đại tuyến vú
Mức độ phì đại n = 62 %
Vừa 5 8,07%
Nhiều 52 83,87%
Rất nhiều 1 1,61%
Khổng lồ 4 6,45%
Tổng 62 100
Đa số bệnh nhân vú phì đại mức độ nhiều với 52 vú (83,87%), có 4 vú phì đại mức độ khổng
lồ (6,5%).
Nghiên cứu 62 vú tần số xuất hiện động mạch ngực ngoài ở 51 vú (80,6%), 11 vú vừa có
động mạch ngực ngoài và động mạch ngực ngoài phụ (17,7%). Kích thước vạt mang quầng núm
vú với chiều dài vạt dao động trong khoảng 10,61 ± 3,20, dài nhất là 17 cm, chiều rộng vạt dao
động trong khoảng 6,20 ± 1,36, dài nhất 10 cm. Tỉ lệ chiều dài/ rộng trung bình là 2,8/1, lớn nhất
có tỉ lệ chiều dài/ chiều rộng = 14/5. Trong đó có 18 vạt có kích thước tỷ lệ chiều dài/chiều rộng
< 1,5/1. 44 vạt có kích thước với tỷ lệ chiều dài/ chiều rộng ≥ 1,5/1.
Bảng 2. Khoảng cách di chuyển của phức hợp quầng núm vú
Khoảng cách di chuyển n = 62 %
6 - 10 43 67,74
11 - 15 16 27,43
16 - 20 1 1,61
> 20 2 3,22
Tổng 62 100
Sa trễ quầng núm vú được cải thiện đáng kể với quầng núm vú được dịch chuyển lên trên ít
nhất 6 cm, đa phần là từ 6 - 10 cm. Đặc biệt có 2 bệnh nhân vú khổng lồ, khoảng cách dịch
chuyển này lên tới 18 cm và 22 cm.
Kết quả sớm ngay sau mổ 1 ngày 57 vú (91,9%) có quầng núm vú sống tốt, chỉ có 5 vú
(8,1%) có hiện tượng thiểu dưỡng nhẹ quầng núm vú. Sau mổ 7 ngày 85,5% bệnh nhân có
cảm giác xúc giác. 29 bệnh nhân khám lại sau 3 tháng và 6 tháng chỉ có 1/58 (1,72%) vú mất
cảm giác. Về thể tích và hình thể vú 98,3% bệnh nhân hài lòng.
20 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
IV. BÀN LUẬN
Qua nghiên cứu 32 bệnh nhân chủ yếu ở
21 - 30 tuổi, sự khởi phát và phát triển vú phì
đại liên quan đến quá trình chửa đẻ và dậy
thì. Thông thường, tình trạng vú phì đại luôn đi
kèm với sự sa trễ của phức hợp quầng núm
vú. Kỹ thuật được ứng dụng với các vú phì đại
mức độ vừa là sử dụng các cuống tuyến ngẫu
nhiên [6; 7]. Tuy nhiên, để giải quyết tình trạng
vú phì đại mức độ nhiều và rất nhiều hay
khổng lồ thì chuyển phức hợp quầng núm vú
luôn là thách thức. Các tác giả khác như
Strauch khi thiết kế cuống vạt dựa trên kinh
nghiệm ứng dụng từng loại kỹ thuật (cuống
trên, cuống dưới, cuống dọc kép) và cuống
ngẫu nhiên phải tuân thủ tỉ lệ dài/ rộng ≤ 1,5/1,
để tăng mức độ an toàn có thể thiết kế chiều
rộng tăng lên và chiều dài giảm đi [5]. Chỉ áp
dụng được với những vú phì đại vừa và một
số trường hợp phì đại nhiều với mức độ sa trễ
trung bình. Kỹ thuật mới của chúng tôi có thể
khắc phục những nhược điểm của các kỹ
thuật này. Trong nghiên cứu đa số bệnh nhân
vú phì đại mức độ nhiều với 52 vú (83,87%), tỉ
lệ nhỏ mức độ khổng lồ 4 vú (6,5%) và rất
nhiều 1 vú (1,61%). Tất cả các bệnh nhân
được thiết kế các kích thước của vú theo
phương pháp của Nathalie Bricout, tuy nhiên
chúng tôi có điều chỉnh vài điểm phù hợp với
chiều cao, cân nặng và các chỉ số nhân trắc
học của người Việt Nam [8]. Vị trí phức hợp
quầng núm vú mới được đặt ở dưới đòn 15 –
16 cm, quầng núm vú được dịch chuyển lên
trên ít nhất 6 cm. Trong một số trường hợp vú
phì đại mức độ nhiều và rất nhiều thường kèm
theo sa trễ độ 3 thì quầng núm vú phải dịch
chuyển khá lớn (11 - 15 cm), thậm chí
22 cm. Kết quả này khẳng định khả năng di
động rất linh hoạt của vạt mang phức hợp
quầng núm vú. Trong y văn, nhắc tới phì đại
khổng lồ là nhắc tới ghép phức hợp quầng
núm vú. Khi đó, sự sống của quầng núm vú ở
nơi mới không được đảm bảo, quầng núm vú
biến dạng, thay đổi màu sắc, mất cảm giác,
núm vú bị cắt rời nên hoàn toàn mất khả năng
cho con bú. Trong nghiên cứu, việc sử dụng
cuống trên ngoài với động mạch ngực ngoài
kích thước vạt được giới hạn theo sự chi phối
của động mạch ngực ngoài. Vì vậy, chiều rộng
của vạt được thiết kế đủ sao cho khi bóc tách
cuống vạt không bị tổn thương tới trục mạch,
còn chiều dài vạt được giới hạn bởi đường
rạch da và tỷ lệ thuận với mức độ sa trễ. Điều
này chính là điểm thuận lợi đối với những
trường hợp phì đại và sa trễ quá lớn, cách
duy nhất vẫn đảm bảo được phức hợp quầng
núm vú. Nhờ có động mạch ngực ngoài đi
trong vạt mà chúng tôi có thể chuyển vạt với
tỷ lệ dài/rộng lên tới tỉ lệ 2,8/1 mà không ảnh
hưởng đến sức sống của phức hợp quầng
núm vú.
Theo nghiên cứu của Petrus V.van De-
venter trên 19/27 vú có động mạch ngực
ngoài cấp máu cho quầng núm vú [9]. Còn
trong nghiên cứu của chúng tôi, 51 vú xuất
hiện động mạch ngực ngoài (chiếm 80,6%).
11 vú vừa có động mạch ngực ngoài và động
mạch ngực ngoài phụ. Như vậy đại đa số các
vú có nguồn cấp máu đến từ vùng ngực ngoài
cho phức hợp quầng núm vú (có thể từ động
mạch ngực ngoài hoặc động mạch ngực
ngoài phụ hoặc đồng thời cả hai nguồn động
mạch). Trên lâm sàng, vai trò của mạch cũng
được chứng minh bằng tỷ lệ sống rất cao của
phức hợp quầng núm vú với kết quả sớm 57
(91,9%) quầng núm vú được cấp máu tốt, chỉ
có 5 vú (8,1%) phì đại khổng lồ với cuống
mạch rất dài có hiện tượng thiểu dưỡng nhẹ.
Nói cách khác động mạch cấp máu cho vạt
mang phức hợp quầng núm vú đáng tin cậy.
TCNCYH 113 (4) - 2018 21
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Các nghiên cứu đều cho thấy cảm giác của
phức hợp quầng núm vú là do các nhánh bì
trước và bì ngoài của các dây thần kinh liên
sườn từ 2 đến 7 chi phối và nhất là nghiên
cứu gần đây của Ingrid Schlenz (năm 2000)
nhấn mạnh đến vai trò cảm giác cho núm vú
của nhánh bì ngoài của dây thần kinh liên
sườn thứ 4 [10]. Trong nghiên cứu này, đại đa
số bệnh nhân (85,5%) đều trả lời “có” khi
được khám cảm giác xúc giác ngay sau phẫu
thuật. Điều này chứng tỏ vạt còn bảo tồn
được thần kinh cảm giác. Sau phẫu thuật 03
tháng và 6 tháng có 58 vú được khám có duy
nhất 1 vú (chiếm 1,72%) mất cảm giác toàn
bộ. Nghiên cứu trước đây duy nhất về độ
nhạy cảm ngực sau khi kỹ thuật thu gọn vú đã
được thực hiện bởi Cruz-Korchin với 30 bệnh
nhân, đánh giá cảm giác phân biệt 2 điểm sau
phẫu thuật 1 năm khả năng hồi phục cảm giác
là 80% [11]. Như vậy khả năng phục hồi cảm
giác của chúng tôi rất cao.
V. KẾT LUẬN
Vạt mang quầng núm vú dựa trên động
mạch ngực ngoài được cấp máu tốt, có thể
lấy vạt với tỷ lệ dài/rộng lớn hơn nhiều so với
vạt ngẫu nhiên. Do đó, có thể dễ dàng cuộn
vạt để sắp xếp lại tuyến nhằm đem lại hình thể
mong muốn mà vẫn đảm bảo sức sống của
quầng núm vú đặc biệt ngay cả khi vú phì đại
mức độ rất nhiều và khổng lồ. Bên cạnh đó, tỷ
lệ mất cảm giác quầng núm vú giảm đáng kể
cũng là ưu điểm của phương pháp này.
Lời cám ơn
Chúng tôi xin chân thành cám ơn các cán
bộ Khoa Phẫu thuật Tạo hình, Bệnh viện Xanh
Pôn đã giúp đỡ cho nhóm có điều kiện thuận
lợi để thực hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thiết Sơn (2006). Tạo hình vú phì
đại và sa trễ, Bài giảng phẫu thuật tạo hình,
Trường Đại học Y Hà Nội.
2. Thorne C.H (1994). Reduction mamma-
plasty and mastopexy. Grabb and Smith’s
Plastic Surgery, 1157 - 1200.
3. Thorek M (1922). Possibilities in the
reconstruction of the human form. NY Med J,
116: 572.
4. Schwarzmann E (1930). Die Technik
der Mammaplastik. Chirurg, 2, 932.
5. Claude Le-Quang (1980). Two new free
flaps developed from aesthetic surgery I. The
lateral mammary flap, 4(1), 147 - 157.
6. Deborah J.M (1999). Reduction mam-
maplasty, Textbook of plastic surgery secrets.
7. Elisabeth M.D., Mader Würinger,, Nina
M.D., Posch et al (1998). Nerve and Vessel
Supplying Ligamentous Suspension of the
Mammary Gland. Plastic & Reconstructive
Surgery.
8. F.L Jamil Ahmad (2008). Vertical Scar
Reduction Mammaplasty: The Fate of Nipple-
Areola Complex Position and Inferior Pole
Length. Plastic Reconstructive Surgery, 121
(4), 1084 - 1091.
9. N Bricout (1996). Anatomy and Mor-
phology of The Breast. Breast surgery, 1 - 40.
10. Petrus V. van Deventer (200). The
Blood Supply to the Nipple-Areola Complex of
the Human Mammary Gland. Aesthetic Plastic
Surgery, 28(6), 393 - 398.
11. Shiffman M.A (2013). Anatomy of the
Breast. Cosmetic Surgery Art and Techniques,
47 - 56.
22 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Summary
A NEW TECHNIQUE IN HYPERTROPHY BREAST REDUCTION
To introduce a new technique in hypertrophy breast reduction using the lateral thoracic artery
axial pattern flap that carried the nipple areola complex. A study was conducted in 32 female
patients with 62 hypertrophic breasts in the department of Plastic and Reconstructive Surgery -
Saint Paul hospital. Reduction mammaplasty with the nipple areola complex was supplied blood
by the lateral thoracic artery axial pattern flap. Hypertrophic breasts were operated on including
52 high breasts (83.87%) and 4 giant breasts (6.45%). The largest dimension of flap with a ratio of
length/width was 14/5, the medium length of the flap was 10.61 ± 3.20 cm, the medium width of
flap was 6.20 ± 1.36 cm. The nipple areola complex is shifted upwards from 6 to 22 cm. 98.3% of
patients are satisfied with the breast morphology. At 6 months post-operation only 1.72% patients
reported sensory abnormalities. Survival rate of the nipple areola complex based on thelateral
thoracic artery axial pattern flap was optimal even in the case of giant breast reconstruction.
Keywords: hypertrophy breast, lateral thoracic artery, breast reduction
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tao_hinh_thu_gon_vu_phi_dai_bang_vat_mang_phuc_hop_quang_num.pdf